ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ MAI TRANG
NHU CẦU VÀ MỨC ĐỘ TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ
HỖ TRỢ CỦA NGƢỜI ĐỒNG TÍNH NỮ Ở HÀ NỘI
TỪ GÓC NHÌN CÔNG TÁC XÃ HỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
Chuyên nghành: Công tác xã hô ̣i
Mã số: 60900101
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN TUẤN ANH
Hà Nội, 2014
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2014
Tác giả
Lê Thị Mai Trang
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành nghiên cứu này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và đặc biệt
nhất tới PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh – người thầy hướng dẫn và đã đồng hành cùng
tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu. Sự tận tâm và nghiêm túc trong khoa
học của thầy đã truyền cảm hứng, giúp tôi thực hiện nghiên cứu với lòng say mê và
sự trách nhiệm.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn Như Trang (Trường ĐH Khoa học –
Xã hội và Nhân Văn) và PGS.TS Catherine Medina (Khoa CTXH - Trường ĐH
Connecticcut). Chính những lần trao đổi, thảo luận và góp ý của các cô đã giúp tôi
hình thành ý tưởng nghiên cứu ban đầu.
Tôi cũng chân thành cảm ơn Th.s Lê Thúy Ngà và Th.s Nguyễn Thị Phương
Mai (Khoa CTXH – trường ĐH Công Đoàn), những người chị – người đồng nghiệp
đã hết lòng hỗ trợ tôi ngay từ giai đoạn xây dựng đề cương nghiên cứu. Cảm ơn vì
những lời khuyên và góp ý quý giá của các chị.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả các bạn đồng tính
nữ đã tham gia thực hiện khảo sát và phỏng vấn sâu. Cảm ơn vì đã mở lòng và cho
tôi bước vào cuộc đời của các bạn để tìm hiểu những góc riêng tư nhất. Cảm ơn vì
đã tin tưởng, cảm ơn vì đã giúp tôi kết nối với những người tham gia nghiên cứu
khác, cảm ơn vì đã góp ý, dành thời gian chia sẻ với tôi. Nếu không có các bạn,
nghiên cứu này nhất định sẽ không thể hoàn thành.
Cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn ở bên cạnh, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi
trong quá trình học tập và thực hiện nghiên cứu. Tôi cũng xin cảm ơn những độc giả
đã và sẽ đọc nghiên cứu này. Hi vọng nghiên cứu sẽ tạo nguồn cảm hứng để các bạn
thực hiện những nghiên cứu khác về chủ đề đồng tính trong tương lai.
Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2014
Tác giả
Lê Thị Mai Trang
3
MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt
7
Danh mục hệ thống bảng – biểu
8
MỞ ĐẦU
9
1. Lý do chọn đề tài
9
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
11
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
17
4. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
18
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
19
6. Phạm vi nghiên cứu
19
7. Câu hỏi nghiên cứu
19
8. Giả thuyết nghiên cứu
19
9. Phương pháp nghiên cứu
20
NỘI DUNG
22
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của đề tài
22
1.1 Khái niệm công cụ
22
1.1.1 Nhu cầu
22
1.1.2 Tiếp cận
24
1.1.3 Dịch vụ hỗ trợ
24
1.1.4 Người đồng tính nữ
25
1.1.5 Các nhóm thiểu số tính dục
26
1.1.6 Các khái niệm có liên quan khác
28
1.2 Lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu
29
1.2.1 Lý thuyết nhu cầu
29
1.2.2 Lý thuyết về mô hình nhận diện bản thân
32
1.2.3 Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý
34
1.2.4 Lý thuyết hệ thống – sinh thái
36
4
1.3 Hệ thống luật pháp - chính sách liên quan đến người đồng tính nữ
37
1.4 Các quan niệm về người đồng tính nữ trong xã hội Việt Nam
38
Tiểu kết chương 1
42
Chƣơng 2: Thực trạng nhu cầu và mức độ tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ
của ngƣời đồng tính nữ ở Hà Nội
43
2.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
43
2.2 Nhu cầu về các dịch vụ hỗ trợ của người đồng tính nữ
43
2.2.1. Nâng cao năng lực
46
2.2.2. Tư vấn tâm lý
48
2.2.3 Tư vấn – Hỗ trợ pháp lý
49
2.2.4 Chăm sóc y tế
50
2.2.5 Hỗ trợ việc làm
52
2.2.6 Kết nối cộng đồng
53
2.2.7 Vận động chính sách
53
2.2.8 Hỗ trợ cho cha mẹ và người thân
54
2.2.9 Các dịch vụ hỗ trợ khác
56
2.3 Mức độ tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ của người đồng tính nữ
58
2.3.1 Các dịch vụ hỗ trợ hiện có dành cho người đồng tính nữ
58
2.3.2 Thực trạng mức độ tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ hiện có của người đồng
tính nữ
2.4 Các yếu tố tác động tới khả năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ của người đồng
tính nữ
63
67
74
Tiểu kết chương 2
5
Chƣơng 3: Đánh giá tính chuyên nghiệp trong việc cung cấp các dịch vụ
hỗ trợ ngƣời đồng tính nữ ở Hà Nội từ góc nhìn Công tác xã hội
75
3.1 Tính chuyên nghiệp trong hình thức tổ chức, thực hiện các dịch vụ hỗ trợ
75
3.1.1 Dịch vụ hỗ trợ ở cấp độ vi mô
76
3.1.2 Dịch vụ hỗ trợ ở cấp độ trung mô
83
3.1.3 Dịch vụ hỗ trợ ở cấp độ vĩ mô
93
3.2 Tính chuyên nghiệp trong hoạt động cung cấp dịch vụ của nhân viên công
tác xã hội
94
3.2.1 Chấp nhận thân chủ
94
3.2.2 Thúc đẩy sự tham gia – tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ
96
3.2.3 Đảm bảo tính bảo mật
96
3.2.4 Tự nhận thức về bản thân và đảm bảo trình độ chuyên môn nghiệp vụ
98
3.2.5 Đảm bảo mối quan hệ nghề nghiệp
99
3.2.6 Đảm bảo tính cá biệt hóa trường hợp
100
Tiểu kết chương 3
100
KẾT LUẬN
101
KHUYẾN NGHỊ
103
Danh mục tài liệu tham khảo
105
Phụ lục 1: Phiếu khảo sát online
110
Phụ lục 2: Trích phỏng vấn sâu người sử dụng dịch vụ
116
Phụ lục 3: Trích phỏng vấn sâu người cung cấp dịch vụ
118
Phụ lục 4: Danh sách các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho người đồng tính
nữ
6
120
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH
: Công tác xã hội
NVXH
: Nhân viên xã hội
LGBT
: Les – Gay – Bi – Trans (Người đồng tính, song tính và chuyển
giới)
Les
: Người đồng tính nữ
CSAGA
: Trung tâm Nghiên cứu - Ứng dụng khoa học về Giới – Gia
đình – Phụ nữ và Vị thành niên
ICS
: Tổ chức bảo vệ và thúc đẩy quyền của người đồng tính, song
tính và chuyển giới
ISEE
: Viện Kinh tế - Xã hội và Môi trường
6+
: Trung tâm phát triển cộng đồng LGBT
CCIHP
: Trung tâm Sáng kiến, Sức khỏe và Dân số
PFLAG
: Hội phụ huynh và người thân của người đồng tính, song tính và
chuyển giới Việt Nam
ĐTN
: Đồng tính nữ
PVS
: Phỏng vấn sâu
B
: Butch – người đồng tính nữ có thể hiện giới nam tính
FEM
: Femme – người đồng tính nữ có thể hiện giới nữ tính
SB
: Soft Butch – người đồng tính nữ có thể hiện giới nằm giữa
nhóm Butch và Femme
HN
: Thành phố Hà Nội
7
DANH MỤC HỆ THỐNG BẢNG – BIỂU
Bảng 1.1
Luật pháp và chính sách liên quan đến người đồng tính
Bảng 2.1
Những khó khăn thường gặp của người đồng tính nữ
Bảng 2.2
Mức độ cần thiết của các dịch vụ hỗ trợ người đồng tính nữ
Bảng 2.3
Hình thức bạo lực – phân biệt đối xử trong trường học với
nhóm thiểu số tình dục
Bảng 2.4
Những khó khăn khác mà người đồng tính nữ gặp phải
Bảng 2.5
Chương trình tư vấn online về chủ đề đồng tính nữ trên kênh
VOV giao thông trong năm 2013
Bảng 2.6
Mức độ biết và sử dụng dịch vụ hỗ trợ của người đồng tính nữ
ở Hà Nội
Bảng 2.7
Lý do người đồng tính nữ không sử dụng dịch vụ hỗ trợ
Bảng 2.8
Những yếu tố tác động đến quyết định sử dụng dịch vụ hỗ trợ
của người đồng tính nữ
Bảng 3.1
Tổng kết đường dây tư vấn dành cho người đồng tính nữ
Bảng 3.2
Các sự kiện kết nối người đồng tính nữ tại Hà Nội trong năm
2012-2014
Biểu đồ 2.1
Các dạng phân biệt đối xử/kỳ thị/bạo hành với người đồng tính
nữ
Biểu đồ 2.2
Cách thức ứng phó của người đồng tính nữ trước các tình huống
khó khăn
Biểu đồ 2.3
Thu nhập bình quân của người đồng tính nữ
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) nói chung và vấn đề tình
dục đồng giới nói riêng vẫn là vấn đề còn nhạy cảm không chỉ ở Việt Nam mà còn
trên toàn thế giới. Mặc dù đây không còn là chủ đề mới mẻ, song thái độ của người
dân với người đồng tính, song tính và chuyển giới phần nhiều vẫn còn kỳ thị. Tính
đến tháng 8/2013, trên thế giới, mới chỉ có 16 quốc gia (đa phần là ở khu vực châu
Âu và châu Mỹ) công nhận hôn nhân đồng giới [70]. Ở các quốc gia còn lại, hành vi
tình dục đồng giới bị cấm hoặc nhận được thái độ bàng quan, trung lập. Tại Nga,
Brunei, Algeria và Ai Cập, hành vi âu yếm đồng giới nơi công cộng bị phạt tù từ 2
năm trở lên. Tại quốc gia Buma, người đồng tính khi bị phát hiện có thể bị bỏ tù từ
10 năm cho đến chung thân. Thậm chí, tại Iran, Nigeria, Ả rập Saudi và Sudan, hành
vi tình dục đồng giới còn bị xử tử hình [55]. Một số quốc gia khác như Hàn Quốc,
Paraguay, Việt Nam, thể hiện thái độ trung lập khi đề cập đến vấn đề đồng tính.
Chính phủ các nước này không cấm nhưng cũng không ủng hộ [50]. Điều này gián
tiếp không thừa nhận sự tồn tại của nhóm thiểu số tình dục, đẩy họ ra ngoài rìa xã
hội và trở thành đối tượng dễ bị tổn thương.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng người đồng tính, song tính và
chuyển giới nói chung đã và đang gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình nhận diện,
chấp nhận bản thân và hòa nhập với xã hội. Đặc biệt, người đồng tính được xem là
đối tượng thường xuyên phải hứng chịu sự kỳ thị, phân biệt đối xử nếu xu hướng
tình dục của họ bị phát hiện [44]. Hành vi bạo lực mà người LGBT là nạn nhân diễn
ra không chỉ ở khu vực công cộng, trường học, nơi công sở mà còn ngay ở trong gia
đình và bởi chính người thân của họ. Đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người
đồng tính, song tính và chuyển giới đang trở thành một phong trào nhân quyền
mạnh mẽ diễn ra trên khắp thế giới, thu hút nhiều sự quan tâm của xã hội trong
những năm gần đây.
Ở Việt Nam, theo ước tính của Viện Kinh tế - Môi trường và Xã hội, số
lượng người đồng tính và song tính trong độ tuổi 15-59 rơi vào khoảng 1,65 triệu
người – chiếm 3% tổng dân số cả nước [25]. Và mặc dù quan hệ đồng tính ở Việt
9
Nam không bị tội phạm hóa nhưng sự kỳ thị với những nhóm thiểu số tình dục vẫn
còn rất phổ biến. Kết quả của một số nghiên cứu gần đây cho thấy: 87% người dân
Việt Nam vẫn đang hiểu sai (ít hoặc nhiều) về người đồng tính và kỳ thị họ [26], và
chỉ có 33.7% ý kiến ủng hộ cho phép người đồng tính kết hôn [29]. Chính thái độ
tiêu cực này khiến cho cộng đồng LGBT gặp rất nhiều bất lợi trong cuộc sống.
Trong cộng đồng người đồng tính, song tính và chuyển giới, đối tượng người
đồng tính nữ được đánh giá là một trong những nhóm phải chịu nhiều thiệt thòi hơn
cả. Lý do là vì sự kỳ thị và phân biệt đối xử mà người đồng tính nữ phải trải qua là
sự kỳ thị hai tầng: là phụ nữ và là đồng tính. Trong một xã hội có xuất phát điểm là
tư tưởng trọng nam khinh nữ và tình trạng bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại như
Việt Nam, thì những khó khăn mà người đồng tính nữ phải trải qua càng tăng lên
gấp bội. Theo một số nghiên cứu định tính được thực hiện ở Việt Nam [15, 21],
người đồng tính nữ thường phải chịu sự kì thị dưới nhiều hình thức: từ lời nói dèm
pha, ánh mắt thiếu thiện cảm, dò xét, bị đánh đập, cho đến sự bất công trong việc
đánh giá chất lượng công việc, trả lương thấp hơn hoặc gặp khó khăn khi tuyển
dụng. Còn theo số liệu tổng hợp của đường dây tư vấn dành cho đồng tính nữ
(04.37759335) trong 6 tháng cuối năm 2011, trong 106 trường hợp xin tư vấn thì có
tới 28% người đồng tính nữ bị kì thị và bạo lực bởi chính cha mẹ mình, 34% bị kỳ
thị và bạo lực bởi những người thân trong gia đình như anh/chị/em, cô, bác, họ hàng
[16]. Các dạng bạo lực mà người đồng tính nữ thường gặp phải bao gồm: bị mắng
chửi, đánh đập, cô lập, nhốt trong nhà, cắt liên lạc với bên ngoài, bị ép buộc điều trị
tâm thần, bắt dùng thuốc trị liệu thần kinh.
Tất cả những khó khăn mà người đồng tính nữ gặp phải khi “lộ diện” (comeout) khiến họ không dám sống thật với bản thân, phải giấu kín xu hướng tình dục
của mình, cố gắng lấy chồng hoặc sống tách biệt với mọi người. Hậu quả thường
thấy nhất là sự căng thẳng về thần kinh, tâm trí chán chường, mất niềm tin vào gia
đình, người thân và cuộc sống. Ngoài ra, việc bị kỳ thị và bạo lực ở trường học có
thể ảnh hưởng tới kết quả học tập của người đồng tính nữ, làm họ mất hứng thú học
tập, không thể tập trung vào bài vở, điểm số sa sút, thậm chí là ngừng học [18].
Trong các nghiên cứu về người đồng tính nữ do trung tâm CSAGA và ISEE triển
10
khai thực hiện năm 2009 cũng đã đề cập đến một số trường hợp người đồng tính nữ
từng có ý định tử tử vì không chịu được áp lực do bị kỳ thị và phân biệt đối xử.
Điều này đặt ra yêu cầu đối với những người làm CTXH là phải xây dựng hệ
thống dịch vụ hỗ trợ phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu của nhóm đối tượng yếu thế
này. Ở Việt Nam hiện nay, đã có một số cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ
dành cho người đồng tính nữ. Tuy nhiên, các dịch vụ hỗ trợ này phần lớn được xây
dựng dựa trên sự đánh giá chủ quan của nhân viên CTXH về nhu cầu của người
đồng tính nữ; chưa có một nghiên cứu cụ thể nào đi sâu tìm hiểu về nhu cầu của họ
đối với các dịch vụ hỗ trợ. Mặt khác, việc đánh giá mới chỉ dừng ở nhóm đối tượng
nhỏ là những người hưởng lợi trực tiếp từ dự án, chưa có các nghiên cứu chuyên sâu
để đánh giá toàn diện về chất lượng dịch vụ CTXH hiện có đối với người đồng tính
nữ.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Nhu
cầu và mức độ tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ của người đồng tính nữ ở Hà Nội từ
góc nhìn Công tác xã hội” làm luận văn thạc sĩ Công tác xã hội của mình.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Số lượng các nghiên cứu về người đồng tính – song tính và chuyển giới nói
chung và người đồng tính nữ nói riêng nhìn chung vẫn còn ít. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, khi mà phong trào đấu tranh cho quyền của người LGBT trở
nên mạnh mẽ, số lượng các nghiên cứu có xu hướng tăng và ngày càng đi sâu khai
thác nhiều khía cạnh cuộc sống của nhóm thiểu số tình dục này.
a. Những nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, cho đến cuối năm 2009, vẫn còn rất ít các nghiên cứu về người
đồng tính – song tính và chuyển giới. Đối tượng LGBT hầu hết chỉ được nhắc đến
trong các nghiên cứu liên quan đến HIV và sức khỏe tình dục, chủ yếu tập trung vào
hành vi tình dục của những người nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM: men have
sex with men). Có thể kể đến các nghiên cứu như: “Hành vi tình dục và kiến thức về
HIV của MSM” [13] và Tình dục đồng giới nam và HIV/AIDS ở Việt Nam” [43].
11
Từ năm 2009 cho đến nay, các nghiên cứu về LGBT đã bắt đầu tìm hiểu các
khía cạnh khác trong đời sống của người đồng tính, song tính và chuyển giới, không
chỉ bó hẹp trong các nội dung liên quan đến HIV với nhóm đối tượng nam quan hệ
tình dục đồng giới như trước. Mặc dù đa phần các nghiên cứu này chủ yếu vẫn tập
trung vào nhóm MSM như: “Nghiên cứu trực tuyến về đặc điểm kinh tế xã hội của
nam giới có quan hệ tình dục đồng giới ở Việt Nam” [23], “Kỳ thị và phân biệt đối
xử của nhân viên y tế qua cung cấp dịch vụ y tế cho nam quan hệ tình dục đồng
giới” [22], “Nghiên cứu về phòng chống bạo lực trong nhóm MSM ở Hà Nội và
tp.HCM” [19] nhưng cũng đã có một vài nghiên cứu với chủ đề và đối tượng rộng
hơn như: “Thông điệp truyền thông về đồng tính luyến ái trên báo in và báo mạng”
[24], “Nghiên cứu trực tuyến về kì thị, phân biệt đối xử và bạo lực với người đồng
tính, song tính và chuyển giới tại trường học” [18], “Thái độ xã hội với người đồng
tính” [26], “Khảo sát thăm dò ý kiến của người dân về hôn nhân cùng giới” [29].
Các nghiên cứu này đã giúp người đọc phần nào hình dung được những khó khăn
mà cộng đồng LGBT nói chung và người đồng tính nữ nói riêng đã và đang phải trải
qua. Trong đó, vấn đề nổi cộm nhất vẫn là sự kỳ thị và bạo lực dựa trên xu hướng
tình dục của họ.
Riêng với các nghiên cứu tập trung vào người đồng tính nữ ở Việt Nam,
trong giới hạn hiểu biết và khả năng thu thập tài liệu của tác giả, số lượng các công
trình vẫn rất khiêm tốn. Một số nghiên cứu chủ đạo có thể kể tên như:
Nghiên cứu “Khó khăn và thách thức trong quá trình khẳng định xu hƣớng
tình dục của đồng tính nữ tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam” do trung tâm
Nghiên cứu Ứng dụng Khoa học về Giới – Gia đình – Phụ nữ và Vị thành niên thực
hiện năm 2009. Đây là một nghiên cứu định tính, triển khai phỏng vấn sâu với 23
người đồng tính nữ sống tại Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và Thái Nguyên. Mục
đích của nghiên cứu là nhằm tìm hiểu về đời sống của người đồng tính nữ cũng như
những khó khăn mà họ đang gặp phải trong quá trình lộ diện bản thân. Nghiên cứu
chỉ ra rằng: ở Hà Nội, nhiều người đồng tính nữ cảm thấy môi trường cộng đồng nói
chung còn quá nhiều sự kỳ thị và phân biệt đối xử. Họ thường gặp phải những lời
nói dèm pha, xì xào, bàn tán, ánh mắt thiếu thiện cảm, dò xét, nghi ngờ, cho rằng họ
12
đồng tính bởi lối sống đua đòi. Kì thị từ phía gia đình là dữ dội hơn cả, các bậc cha
mẹ thường ngăn cấm con cái với mối quan hệ đồng tính bằng nhiều biện pháp, từ
nói ngọt nhạt cho đến mắng mỏ, dọa tự tử, đòi từ con... Kì thị nơi làm việc cũng là
điều mà nhiều người đồng tính nữ trong nghiên cứu đề cập tới. Không chỉ bị dò xét,
nghi kị bởi đồng nghiệp, họ còn phải trải qua sự bất công trong việc trả lương. Còn
ở trường học, kiểu kì thị mà người đồng tính nữ phải trải qua đến từ những người
bạn hoặc thầy cô giáo. Khi thấy người đồng tính nữ có biểu hiện của xu hướng tình
dục đồng giới, họ lập tức loan báo ngay tới nhiều người mà không tìm hiểu hỏi han.
Điểm đáng chú ý là nghiên cứu đã chỉ ra một số trường hợp người đồng tính nữ bị
bạo hành bởi chính đối tác tình cảm cùng giới với mình. Đây là một phát hiện mới
và rất đáng lưu tâm, bởi lẽ, khái niệm bạo lực gia đình từ trước tới nay chủ yếu ám
chỉ bạo lực gây ra bởi các thành viên trong gia đình hoặc đối tác tình cảm khác giới
(nam – nữ). Bạo lực trong các cặp đôi đồng giới là chủ đề hầu như chưa hề được
khai phá [15].
Để đối phó với sự kì thị, người đồng tính nữ phải che dấu, thận trọng với
hành động của mình, có người chọn cách sống hai mặt (giả vờ yêu người dị tính, lấy
chồng), giấu kín xu hướng tình dục của mình. Tuy nhiên, họ thường không mấy hài
lòng với cách sống như vậy.
Về nhu cầu, nghiên cứu đã chỉ ra một số nhu cầu của người đồng tính như
nhu cầu được là chính mình, được yêu thương mà không bị kì thị, được thuộc về
một nhóm, được giao lưu – kết bạn với các thành viên khác trong cộng đồng LGBT,
được sống lâu dài với nhau, được hưởng các quyền cơ bản là có con và được kết
hôn.
Nghiên cứu “Sống trong một xã hội dị tính: câu chuyện từ 40 ngƣời nữ yêu
nữ” được Viện Kinh tế – Xã hội và Môi trường triển khai tại Hà Nội năm 2009.
Mục đích của nghiên cứu định tính này là nhằm tìm hiểu về cuộc sống của những
người nữ yêu nữ (ở đây bao gồm cả đồng tính nữ và người song tính – bisexual: bị
thu hút bởi cả nam và nữ), những khó khăn và cách thức họ đối phó với khó khăn.
Qua nghiên cứu, cuộc sống của người đồng tính nữ hiện lên khá rõ nét, đặc biệt là
trong mối quan hệ với cha mẹ. Đa phần người đồng tính nữ phải giấu kín thân phận,
13
không dám thừa nhận xu hướng tình dục của mình với cha mẹ vì sợ bị kì thị, vì lo
lắng cha mẹ sẽ buồn phiền. Hậu quả là họ thường phải chịu gánh nặng tâm lý, cảm
giác muộn phiền, đơn độc, chán nản về bản thân mình. Nghiên cứu cũng đã gián
tiếp đề cập đến vấn đề bạo lực trong gia đình của người đồng tính nữ. Cha mẹ khi
phát hiện con gái mình là người đồng tính thường ngăn cấm con bằng cách nhốt,
đánh, theo dõi, đi giải hạn, cho vào bệnh viện tâm thần… thậm chí hành hung người
yêu của con mình [21].
Khác với nghiên cứu của trung tâm CSAGA mới chỉ nhắc đến các nhu cầu
nói chung, nghiên cứu định tính của Viện Kinh tế – Xã hội và Môi trường đã nhắc
tới một số nhu cầu về dịch vụ hỗ trợ của người đồng tính nữ như hỗ trợ về tâm lý
(tham vấn), hỗ trợ xã hội (kết nối cộng đồng), hỗ trợ liên quan đến vấn đề pháp lý
(khi bị ngược đãi, bạo hành). Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đi sâu phân tích các nhu
cầu cụ thể này, mới chỉ dừng lại ở việc nêu lên sự cần thiết của nhu cầu hỗ trợ, đặc
biệt là tính cấp thiết của các dịch vụ nhằm nâng cao năng lực cho người đồng tình
nữ trong việc đối phó với các khó khăn trong cuộc sống. Nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng việc cung cấp nhu cầu hỗ trợ cần đi đôi với thái độ tôn trọng, thân thiện, hiểu
biết của người cung cấp dịch vụ. Quan trọng là người cung cấp dịch vụ không cố
gắng thay đổi khách hàng của mình thành người dị tính [21].
Một điểm đáng chú ý khác là nghiên cứu đề cập tới nhu cầu hỗ trợ tâm lý –
xã hội cho nhóm cha mẹ của người đồng tính nữ. Cũng như những người con, cha
mẹ cũng phải đối phó với những khó khăn riêng và rất cần đến sự hỗ trợ của CTXH.
Nghiên cứu gợi ý một số dịch vụ như cung cấp thông tin, tham vấn tâm lý, sinh hoạt
nhóm cha mẹ…
Luận án tiến sỹ “Mô hình kinh tế chính trị của ngƣời đồng tính nữ: Giới,
không gian và sự chuyển giao chính trị của cộng đồng đồng tính nữ ở Sài Gòn”
do nghiên cứu sinh người Mỹ gốc Việt – Natalie Nancy Newton thực hiện tại Việt
Nam năm 2012. Tác giả cũng chính là một người đồng tính nữ. Đây là một nghiên
cứu nhân chủng học nhằm tìm hiểu mối tương quan giữa phong trào đấu tranh vì
quyền của LGBT với các nhóm đồng tính nữ. Tác giả nhấn mạnh sự tham gia của
cộng đồng đồng tính nữ vào phong trào đấu tranh đòi nhân quyền cho LGBT bằng
14
một hình thức mới – thông qua các mô hình tổ chức chính trị – kinh tế dành riêng
cho cộng đồng đồng tính nữ: ví dụ như những quán cà phê, quán bar dành cho đồng
tính nữ, các giải thể thao dành riêng cho nhóm đồng tính nữ và các sự kiện từ thiện
do người đồng tính nữ tổ chức tại Sài Gòn. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: các dự án
xã hội dành cho cộng đồng LGBT ở Việt Nam hiện nay vẫn còn thiên nhiều về
người đồng tính nam và người chuyển giới, có rất ít dịch vụ hỗ trợ dành cho người
đồng tính nữ [54].
Nhìn chung, có thể thấy là các nghiên cứu về đề tài LGBT chưa nhiều, nếu có
thì lại tập trung chủ yếu vào nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới hoặc nghiên cứu
chung cho cả cộng đồng, không có sự phân tách riêng cho từng nhóm đối tượng.
Trong khi, dù đều thuộc nhóm thiểu số về tình dục, nhưng những người đồng tính
nam, đồng tính nữ, song tính và chuyển giới đều có những đặc thù riêng và mối
quan tâm riêng. Do đó, rất cần những nghiên cứu chuyên sâu cho từng nhóm đối
tượng cụ thể.
Riêng về các nghiên cứu về người đồng tính nữ, số lượng đề tài vẫn còn hạn
chế. Thông qua 3 nghiên cứu trên, một bức tranh tuy chưa toàn diện nhưng đã phần
nào thành hình về cộng đồng người đồng tính nữ ở Việt Nam: Họ là ai? Mối quan
hệ của họ với gia đình, bạn bè, cộng đồng ra sao? Họ come-out như thế nào? vv..
Các nghiên cứu đã khẳng định sự tồn tại của người đồng tính nữ cũng như muôn
vàn khó khăn mà họ gặp phải. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc
tìm hiểu chung về đời sống của người đồng tính nữ, chưa đi sâu khai thác và phân
tích từng khía cạnh cụ thể, đặc biết là về vấn đề nhu cầu hỗ trợ và việc tiếp cận các
dịch vụ hỗ trợ hiện có.
b. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, chủ đề đồng tính nói chung đã nhận được nhiều sự quan tâm
của những người làm nghiên cứu. Đáng chú ý, các nghiên cứu quốc tế không chỉ đi
sâu tìm hiểu chân dung xã hội và đặc điểm của các nhóm thiểu số tính dục mà đã bắt
đầu hướng đến việc xác định nhu cầu của các nhóm đối tượng này, đặc biệt là nhu
cầu về các dịch vụ hỗ trợ. Một số công trình tiêu biểu có thể kể tên như sau:
15
Nghiên cứu: Nhu cầu về dịch vụ xã hội và chăm sóc sức khỏe của ngƣời đồng
tính nam, đồng tính nữ lớn tuổi và gia đình của họ ở Canada của tác giá Shari
Brotman, Bill Ryan và Elizabeth Meyer thực hiện vào tháng 3 năm 2006. Nghiên
cứu nhằm tìm câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu: Người đồng tính nam và đồng tính
nữ lớn tuổi ở Canada có đặc điểm gì? Trải nghiệm của họ với việc tiếp cận các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe và dịch vụ xã hội như thế nào? Những người cung cấp dịch
vụ hiểu và đáp ứng nhu cầu của nhóm đối tượng này ra sao? Thông qua nghiên cứu,
các tác giả nhận định rằng việc đánh giá mức độ tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ là rất
khó vì thiếu các nghiên cứu đánh giá nhu cầu của nhóm đối tượng này. Nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng: những người đồng tính nam và đồng tính nữ lớn tuổi thường phải
đối phó với chứng sợ người đồng tính của người dị tính (ám chỉ sự kì thị đối với
nhóm thiểu số tình dục) và chính sự kì thị này hạn chế họ tiếp cận các dịch vụ hỗ
trợ, đặc biệt là các dịch vụ y tế. Người đồng tính cao tuổi thể hiện sự không tin
tưởng hoặc sợ hãi khi tiếp cận các dịch vụ mà ở đó, người cung cấp dịch vụ là người
dị tính. Những người cung cấp dịch vụ y tế có xu hướng đối xử “như nhau” với mọi
khách hàng, và vì đó là những khách hàng lớn tuổi, nên người cung cấp dịch vụ
thường lờ đi vấn đề “người đó có đồng tính hay không?”. Điều này vô tình khiến
cho nhóm thiểu số tình dục gặp khó khăn trong quá trình tiếp cận dịch vụ hỗ trợ, do
họ có những đặc thù riêng, mối quan tâm và nhu cầu riêng. Nguyên nhân là do
những người cung cấp dịch vụ chưa được đào tạo về vấn đề này, và họ cũng cho
rằng việc đào tạo là “không cần thiết” [35].
Nghiên cứu: Tìm hiểu nhu cầu dịch vụ hỗ trợ cho nhóm LGBT là nạn nhân của
bạo lực gia đình thực hiện năm 2012 bởi Marianne Hester và cộng sự. Nghiên cứu
này tiếp cận một hướng khá mới khi cho rằng: vấn đề bạo lực gia đình vốn được cho
là chỉ xảy ra giữa các cặp đôi dị tính, với nạn nhân là người vợ/phụ nữ và người gây
bạo lực là chồng/người yêu của họ. Trong khi, thực tế là tồn tại vấn đề bạo lực giữa
các cặp đôi đồng tính nhưng vấn đề này không được thừa nhận. Nghiên cứu đã ghi
nhận được nhiều trường hợp người đồng tính nữ bị bạo hành bởi chính người yêu
đồng tính của mình, và trong khi người đồng tính nam có xu hướng bị bạo hành về
thể xác và tình dục, người đồng tính nữ lại thường bị bạo hành về tinh thần nhiều
16
hơn (tỷ lệ bị bạo hành về tình dục cũng khá cao). Người đồng tính nữ trong nghiên
cứu cho biết họ thường hoảng sợ và hay gặp ác mộng sau khi bị bạo hành, một số
người thậm chí muốn tìm tới cái chết. Một dạng bạo hành khác với người đồng tính
nữ mà nghiên cứu có đề cập tới là “bị ép buộc kết hôn khác giới”, sau đó bị đánh
đập – bạo hành bởi chồng của họ [48].
Do vấn đề bạo hành giữa các cặp đôi đồng tính không được thừa nhận, các
dịch vụ hỗ trợ hiện nay đa phần chỉ dành cho nạn nhân BLGĐ là người dị tính, rất ít
các dịch vụ hỗ trợ cho nạn nhân BLGĐ là người đồng tính. Khi người đồng tính tiếp
cận các dịch vụ này, họ xuất hiện với vai trò chung chung là “nạn nhân của BLGĐ”,
yếu tố khác biệt về xu hướng tính dục không được xem xét. Điều này làm hạn chế
rất nhiều khả năng tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ của người đồng tính nữ nói riêng và
nhóm LGBT nói chung.
Bài báo nghiên cứu: Cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho thanh thiếu niên là đồng tính
nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới của ĐH Georgetown. Bài báo thống
kê số lượng thanh thiếu niên là người LGBT ở Mỹ vào khoảng 2,7 triệu người.
Nhóm đối tượng này thường phải chịu nhiều kì thị, phân biệt đối xử, bắt nạt, và bạo
lực dựa trên xu hướng tình dục và bản dạng giới của họ. Hậu quả là thanh thiếu niên
LGBT thường có xu hướng bị trầm cảm hoặc tìm đến phương án tự tử. Bài báo cũng
đi sâu khai thác một số phương pháp tiếp cận nhằm nâng cao mức độ tiếp cận của
nhóm đối tượng này, ví dụ như phối hợp các dịch vụ đa dạng, đảm bảo tính sẵn có
của dịch vụ, xem xét tới yếu tố khác biệt của từng nhóm người sử dụng dịch vụ và
đảm bảo người cung cấp dịch vụ không có thái độ kì thị/phân biệt đối với khách
hàng [60].
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
Ý nghĩa lý luận
Đề tài vận dụng lý thuyết nhu cầu, lý thuyết mô hình nhận diện bản thân, lý
thuyết sự lựa chọn hợp lý, lý thuyết hệ thống – sinh thái nhằm nghiên cứu nhu cầu,
mức độ tiếp cận dịch vụ hỗ trợ của người đồng tính nữ và thực trạng chất lượng các
dịch vụ này. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần mở rộng sự hiểu biết về người đồng
17
tính nữ – một nhóm xã hội yếu thế mà ở Việt Nam còn chưa được nghiên cứu sâu từ
tiếp cận công tác xã hội. Đồng thời, đề tài cũng góp phần đem lại một góc nhìn mới
về chất lượng cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với nhóm thiểu số tình dục này.
Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài hướng tới việc tìm hiểu nhu cầu về dịch vụ hỗ trợ và thực trạng mức
độ tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ của người đống tính nữ, từ đó, đánh giá được tính
hiệu quả của các dịch vụ hiện có dưới góc nhìn của CTXH. Kết quả nghiên cứu
được hi vọng sẽ là thông tin nền, giúp người cung cấp dịch vụ có cơ sở để cải thiện
chất lượng dịch vụ hỗ trợ, nâng cao hiệu quả sử dụng dịch vụ cho người đồng tính
nữ.
Thông qua nghiên cứu, tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao
khả năng tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ của người đồng tính nữ. Nghiên cứu được hi
vọng sẽ cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà hoạch định để xây dựng và triển
khai các dịch vụ hỗ trợ phù hợp, đáp ứng được nhu cầu của nhóm đối tượng đặc thù
này trong tương lai.
4. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với mục đích nhằm tìm hiểu nhu cầu và mức độ
tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ của người đồng tính nữ ở Hà Nội và đánh giá các dịch vụ
này dưới góc nhìn CTXH.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu sau đây:
- Tìm hiểu nhu cầu về dịch vụ hỗ trợ của người đồng tính nữ ở Hà Nội.
- Tìm hiểu thực trạng mức độ tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ của người đồng
tính nữ ở vùng nghiên cứu.
- Tìm hiểu thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH dành cho người đồng tính nữ
ở Hà Nội và đánh giá các dịch vụ hỗ trợ người đồng tính nữ hiện có dưới góc nhìn
của công tác xã hội.
18
5. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Nhu cầu và mức độ tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ của người
đồng tính nữ ở Hà Nội
- Khách thể nghiên cứu:
+ Người sử dụng dịch vụ: Người đồng tính nữ, gia đình người đồng tính nữ.
+ Người cung cấp dịch vụ: nhân viên CTXH làm việc trong các dự án liên
quan đến việc cung cấp dịch vụ hỗ trợ dành cho người đồng tính nữ
6. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: khảo sát từ tháng 7/2014 đến tháng 11/2014
- Không gian: Nghiên cứu tại Hà Nội
7. Câu hỏi nghiên cứu
- Người đồng tính nữ có nhu cầu về các dịch vụ hỗ trợ nào?
- Thực trạng mức độ tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ của người đồng tính nữ ở Hà
Nội hiện nay như thế nào?
- Mức độ chuyên nghiệp của các dịch vụ hỗ trợ người đồng tính nữ như thế
nào từ góc nhìn công tác xã hội?
8. Giả thuyết nghiên cứu
- Một bộ phận lớn người đồng tính nữ có nhu cầu đối với các dịch vụ hỗ trợ
như tư vấn tâm lý, hỗ trợ pháp lý, kết nối cộng đồng.
- Một số dịch vụ hỗ trợ dành cho người đồng tính nữ chưa đáp ứng được nhu
cầu của họ. Nhiều người đồng tính nữ chưa tiếp cận được các dịch vụ hỗ trợ.
- Dưới góc nhìn của công tác xã hội, tính chuyên nghiệp của các dịch vụ hỗ
trợ người đồng tính nữ chưa cao.
19
9. Phƣơng pháp nghiên cứu
9.1. Nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu tài liệu được tiến hành khi bắt đầu thực hiện đề tài nhằm đánh
giá tình hình chung về các dịch vụ hỗ trợ dành cho người đồng tính nữ hiện nay. Tài
liệu được nghiên cứu bao gồm: các văn bản pháp luật, chính sách có liên quan; các
nghiên cứu về người người đồng tính nữ ở Việt Nam đã được xuất bản; báo cáo
đánh giá dự án có liên quan tới việc cung cấp dịch vụ hỗ trợ dành cho người đồng
tính nữ; các bài viết, tham luận về nội dung bình đẳng giới, đa dạng tính dục, bạo
lực gia đình trên cơ sở xu hướng tình dục, người đồng tính nữ và các dịch vụ hỗ trợ;
9.2. Phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu được thực hiện với 3 nhóm. Thứ nhất là nhóm người đồng
tính nữ. Có 5 người đồng tính nữ từ nhiều độ tuổi, địa vị xã hội khác nhau đã được
phỏng vấn. Nhóm đối tượng này được lựa chọn thông qua sự giới thiệu của một số
cán bộ tư vấn tâm lý của đường dây tư vấn dành cho đồng tính nữ. Thứ hai là nhóm
người thân của người đồng tính nữ. Có 2 người thân của người đồng tính nữ đã
được phỏng vấn. Tác giả tiếp cận 2 người này này thông qua một chương trình tọa
đàm dành cha mẹ người đồng tính do tổ chức Kết nối và Hỗ trợ sức khỏe cộng đồng
(6+) tổ chức vào cuối tháng 8/2014. Thứ ba là nhóm người cung cấp dịch vụ. Có 5
nhân viên CTXH đang làm việc trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ hỗ trợ liên quan đến
tham vấn, y tế, pháp luật, hỗ trợ việc làm… dành cho người đồng tính nữ ở Hà Nội
đã được phỏng vấn.
9.2. Khảo sát online
Về nội dung phiếu khảo sát, phiếu khảo sát gồm 3 nội dung chính. Phần 1:
Nhu cầu của người đồng tính nữ về các dịch vụ hỗ trợ; Phần 2: Mức độ tiếp cận các
dịch vụ hỗ trợ dành cho người đồng tính nữ; Phần 3: Mong đợi của người đồng tính
nữ về các dịch vụ hỗ trợ. Hình thức bảng hỏi online được sử dụng để phù hợp với
đặc thù của người đồng tính nữ vốn ít lộ diện, không thấy thoải mái và an toàn khi
đề cập các vấn đề liên đến chủ đề đồng tính với người lạ nên họ đặc biệt chú trọng
tính khuyết danh.
20
- Xem thêm -