VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHƯƠNG THỊ LAN PHƯƠNG
NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHƯƠNG THỊ LAN PHƯƠNG
NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 8 22 90 20
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép
của ai. Các kết quả khảo sát và nghiên cứu đã nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Khương Thị Lan Phương
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Bích Hạnh, đã tận
tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo trong Khoa Ngôn ngữ học,
Học viện Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu tại trường.
Hà nội, ngày 13 tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
Khương Thị Lan Phương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ............................................................................11
1.1. Khái niệm từ và những khái niệm liên quan ...................................................11
1.2. Nghĩa của từ và hiện tượng đồng nghĩa............................................................14
1.3. Sự phát triển nghĩa của từ ..................................................................................20
1.4. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ .......................................................................22
1.5. Từ đa nghĩa……………………………………………………………….24
Chương 2. NGỮ NGHĨA CỦA TỪ “ĂN” VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA
NÓ TRONG TIẾNG VIỆT…………………………………………………...26
2.1. Ngữ nghĩa của từ “ăn” trong tiếng Việt............................................................29
2.2. Khả năng kết hợp của từ “ăn” trong tiếng Việt................................................33
Chương 3. NGỮ NGHĨA VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA NHÓM TỪ
ĐỒNG NGHĨA VỚI TỪ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT ....................................59
3.1. Nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong tiếng Việt ...........................................59
3.2. Khả năng kết của những từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong tiếng Việt……...60
KẾT LUẬN .................................................................................................................75
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN VĂN……………………………………………………………..79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................78
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quan niệm của người Việt Nam, gia đình là tế bào của xã hội,
và cuộc sống sinh hoạt luôn gắn liền với bữa cơm gia đình – nơi ẩn chứa
nhiều đạo lý, thể hiện tình cảm, yêu thương gắn kết giữa các thành viên, là
linh hồn của hạnh phúc, và cũng là nơi truyền đạt những tư tưởng, truyền
thống, những đạo lý từ thế hệ này qua thế hệ khác. Từ những phép cư xử
tưởng chừng đơn giản thông qua cách ăn uống: Ăn trông nồi, ngồi trông
hướng đến quan niệm về cái ăn, cái mặc: Ăn lấy chắc, mặc lấy bền; Một
miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp… ông bà ta muốn trao gửi đến thế
hệ con cháu những thông điệp đầy chất nhân văn, một trong những điều
đầu tiên, cơ bản nhất mà mỗi người đều cần phải học đó là “Học ăn, học
nói, học gói, học mở”. Như vậy, “ăn” không còn đơn giản chỉ là câu
chuyện của việc duy trì sự sống, mà còn ẩn chứa trong đó những bài học về
nhân cách, là quan niệm về nhân sinh, về cuộc sống và các đạo lý, các cách
hành xử trong xã hội của con người.
Có thể nói hoạt động ăn của con người không chỉ là hoạt động mang
tính sinh học để duy trì sự sống mà còn mang tính văn hóa, gắn với mỗi
cộng đồng với những thói quen, tập tục. Thông qua thói quen ăn uống,
chúng ta có thể hiểu được phần nào đặc điểm tâm lý dân tộc, tập quán cũng
như cách ứng xử của con người với môi trường. Bởi vậy, cùng với sự thay
đổi và phát triển không ngừng của xã hội, thì vốn từ vựng trong tiếng Việt
nói chung và vốn từ vựng liên quan đến từ “ăn” nói riêng cũng không
ngừng tăng lên, hoạt động “ăn” của con người dần vượt lên những giá trị
duy trì sự sống, vươn tới tầm nghệ thuật. Điều đó được phản ánh khá sinh
động trong ngôn ngữ.
1
Với những lý do nêu trên, tôi lựa chọn đề tài : Nhóm từ, ngữ nói về
“ăn” trong tiếng Việt. Với mong muốn thông qua sự nỗ lực tìm hiểu,
nghiên cứu sự phát triển của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” cùng với quá trình
phát triển của dân tộc, cũng như sự phát triển của nhóm từ này trong các
mặt khác nhau của cuộc sống dưới góc độ ngôn ngữ học. Thông qua đó có
thể góp một phần nhỏ vào nghiên cứu sự phát triển của từ vựng tiếng Việt
nói chung, và của nhóm từ liên quan đến từ “ăn” nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa
của từ ở Việt Nam
Việc nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển nghĩa của từ trong tiếng
Việt, là một trong những lĩnh vực được khá nhiều nhà ngôn ngữ học quan
tâm nghiên cứu. Bởi từ vựng là một bộ phận được coi là không ổn định
nhất trong hệ thống ngôn ngữ, kết cấu nghĩa của từ luôn luôn vận động và
phát triển, sự biến đổi nghĩa là một sự thực hiển nhiên và không ngừng
thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội.
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về ngữ nghĩa học, được thể hiện
trong một số công trình nghiên cứu về từ vựng học, từ vựng - ngữ nghĩa
tiếng Việt của các tác giả như Nguyễn Văn Tu, trong cuốn “Từ vựng học
tiếng Việt hiện đại” [40] đã đưa ra được nhiều quan điểm lý thuyết về sự
biến đổi nghĩa. Ông đã trình bày về bản chất và nguyên nhân của biến đổi
nghĩa, phân loại biến đổi nghĩa. Còn tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng sự thay
đổi nghĩa của từ trong tiếng Việt do nguyên nhân đơn giản là nhằm đáp
ứng nhu cầu tạo thêm từ mới của xã hội.[4]
Bên cạnh đó, một số tác giả như Lê Quang Thiêm đã dành nhiều sự
quan tâm đến biến đổi ý nghĩa của các yếu tố từ vựng. Trong ấn bản
chuyên khảo về lịch sử từ vựng (2003), tác giả đã dành một số trang để
2
khảo sát, nghiên cứu sự phát triển nghĩa qua con đường đa nghĩa hóa trong
tiếng Việt hiện đại (1858-1930). Đặc biệt, trong cuốn “Sự phát triển nghĩa
từ vựng tiếng Việt từ 1945 đến 2005” [35]. Đây là công trình Việt ngữ học
nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống và sâu sắc nhất về sự phát triển
nghĩa của từ vựng tiếng Việt trên quan điểm đồng đại, vận dụng phương
pháp lịch sử so sánh, phân tích cấu trúc – hệ thống… Trên cơ sở đó có thể
xác lập được các tầng nghĩa, kiểu nghĩa để từ đó tìm hiểu sự biến đổi, phát
triển nghĩa từ vựng qua các mốc thời gian gắn liền với các sự kiện lịch sử
và những thăng trầm của đất nước.
Tác giả Nguyễn Đức Tồn trong “Đặc trưng văn hóa - dân tộc của
ngôn ngữ và tư duy” [38] đã trình bày về đặc điểm của quá trình chuyển
nghĩa của trường từ vựng chỉ động vật, thực vật, bộ phận cơ thể người (so
sánh giữa tiếng Việt và tiếng Nga). Tác giả đã phân tích và thống kê lượng
nghĩa chuyển, các phương thức chuyển nghĩa từ đó rút ra những nhận định
về quá trình chuyển nghĩa của các trường từ vựng này.
Tác giả Phạm Văn Lam (2007) trong “Bước đầu khảo sát sự phát
triển ngữ nghĩa của một số nhóm từ vựng trong tiếng Việt từ năm 1945 đến
nay” [22] đã khảo sát sự phát triển ngữ nghĩa của một số nhóm từ vựng
danh từ thường được sử dụng trong lĩnh vực khoa học xã hội – nhân văn từ
năm 1945 đến nay. Nghiên cứu cho thấy, sự mở rộng và phát triển nghĩa
của các nhóm từ gắn liền với sự phát triển xã hội cũng như tiến trình lịch
sử của dân tộc qua quãng thời gian có nhiều biến động và phát triển quan
trọng. Trên cơ sở khảo sát sự phát triển nghĩa theo hướng trí tuệ hóa và
biểu trưng hóa, từ đó tác giả chỉ ra các xu hướng, con đường phát triển
nghĩa của tiếng Việt, phân tích và lý giải các con đường phát triển ấy.
Theo hướng nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, từ góc độ
ngôn ngữ học tri nhận, Lý Toàn Thắng trong “Ngôn ngữ học tri nhận nhìn
3
từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” [31] đã áp dụng những khái
niệm cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt, đưa ra
những luận giải và các kết luận rất có giá trị đối với sự phát triển ngữ nghĩa
của từ trong tiếng Việt. Tác giả Nguyễn Văn Hiệp trong bài viết “Ngữ
nghĩa của từ “Ra”, “Vào” trong tiếng Việt nhìn từ góc độ nghiệm
thân”[17] đã dùng lí thuyết nghiệm thân để lí giải con đường chuyển nghĩa
của từ “ra”, “vào” trong tiếng Việt.
Hay tác giả Nguyễn Thị Hiền (2018) trong “Sự phát triển ngữ nghĩa
của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận”
[15] đã dùng cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận để làm rõ hiện tượng
phát triển ngữ nghĩa. Đặc biệt là thông qua hai phương thức chuyển nghĩa
ẩn dụ và hoán dụ. Tác giả đã nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa của từ
dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận để từ đó tìm ra các giá trị văn hóa và tư
duy đặc thù của dân tộc thông qua việc sử dụng ngôn ngữ.
Thông qua các công trình của một số tác giả trên cho thấy, việc
nghiên cứu sự phát triển nghĩa trong tiếng Việt nói chung, trong thời gian
gần đây đã dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Đặc biệt
là các công trình nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, từ góc độ ngôn
ngữ học tri nhận với những cấu trúc ẩn dụ ý niệm trong ngôn ngữ, đa dạng
về nghĩa cũng như cách sử dụng, đã tạo nên những nét mới trong nghiên
cứu sự phát triển nghĩa của từ trong tiếng Việt.
2.2. Tình hình nghiên cứu sự phát triển nghĩa của nhóm từ, ngữ
nói về “ăn” trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, việc nghiên cứu về nhóm từ, ngữ nói về “ăn”, khởi
điểm là Hoàng Tuệ trong bài viết “Câu chuyện tiếp tục về nghĩa của những
từ đơn tiết” [43]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích tính đa nghĩa của
4
từ “ăn”, đồng thời chỉ ra gần 40 nghĩa của từ này. Trên cơ sở từ nghĩa gốc
của từ “ăn” đã làm nảy sinh bốn dòng nghĩa phái sinh như sau:
1. Dòng nghĩa tiếp thụ
2. Dòng nghĩa hưởng thụ
3. Dòng nghĩa hài hòa
4. Dòng nghĩa tiêu hao
Từ đó, tác giả đã đưa ra một số nhận xét hết sức thú vị và độc đáo về
sự phát triển nghĩa từ “ăn” trong văn hóa và trong đời sống của người Việt.
Theo tác giả, mỗi dòng nghĩa là một trật tự biện chứng đi từ cụ thể đến khái
quát. Các dòng nghĩa cũng tập hợp lại thành một trật tự cân đối và đẹp đẽ,
đầy sức sống.
Tiếp theo là đề tài nhiên cứu “Một số vấn đề văn hóa ăn, uống trong
xã hội cổ truyền người Việt” [20] do Nguyễn Hải Kế (2004) chủ trì đề tài.
Tác giả cho rằng: từ “ăn” trong tiếng Việt đã mở rộng, phát triển nghĩa bao
hàm nghĩa bóng sang tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội…
Qua từ “ăn” có thể nhìn thấy những nét cơ bản, phổ biến của xã hội Việt
Nam ngày hôm qua.
Cùng quan tâm đến vấn đề cái “ăn” trong văn hóa Việt, tác giả Vũ
Ngọc Khánh trong cuốn sách “Văn hóa Việt Nam những điều học hỏi” [21]
khi viết về văn hóa ẩm thực Việt Nam đã dành một chương để nói về đề tài
này. Theo tác giả, trong ngôn ngữ Việt Nam, không có từ nào như từ “ăn”
được ghép thành vô số những từ tố thông dụng trong tiếng nói con người.
Có những từ phải suy nghĩ, phân tích mới thấy là ghép với từ “ăn” cũng là
thích hợp. Nhưng có những từ không dính dáng gì đến chuyện “ăn”, mà
vẫn phải dùng chữ ăn để làm thành phần của từ tố, từ vị. Chuyện ăn của
người Việt quả là một bài học vô cùng đa dạng và tinh tế.
5
Nguyễn Đức Dân trong bài viết “Ăn, một từ kỳ thú” [7] đã khẳng
định từ “ăn” có trong ngôn ngữ của mọi dân tộc bởi nó là một từ chỉ hoạt
động cơ bản nhất của con người. “Ăn” là hành động gắn liền với con người
ngay từ buổi sơ khai, nghĩa của từ “ăn” được mở rộng dần theo cách lấy
khuôn mẫu con người để nhận thức vũ trụ. Và nó là một từ điển hình có
nghĩa được mở rộng, con đường phát triển ngữ nghĩa của từ “ăn” vô cùng
phong phú. “Ăn” từ nghĩa đen đến nghĩa ẩn dụ, rồi các nghĩa chuyển, nghĩa
phái sinh là thiên biến vạn hóa, nó diễn tả mọi nhận thức của con người về
cuộc sống quanh mình và về vũ trụ một cách rất chân thực nhưng cũng vô
cùng tinh tế.
Cùng trong mạch luận bàn về cái ăn, về ẩm thực, luận án “Đặc điểm
trường ngữ nghĩa ẩm thực (trên tư liệu tiếng Hán và tiếng Việt) của Ngô
Minh Nguyệt [23] là công trình chuyên sâu nghiên cứu về các từ ngữ ẩm
thực ở Việt Nam. Tác giả tập trung nghiên cứu các từ, ngữ liên quan đến ăn
uống, chỉ ra đặc điểm cấu trúc, đặc trưng ngữ nghĩa, từ đó nêu ra những
hàm ý văn hóa của các từ ngữ ẩm thực: Đặc điểm con người, đặc trưng văn
hóa ẩm thực trong tiếng Hán và tiếng Việt. Tác giả cho rằng, cùng với sự
phát triển của xã hội, ăn uống dần vượt lên giá trị duy trì sự sống, điều này
được phản ánh sinh động trong ngôn ngữ.
Có thể nói trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đều
cho rằng con đường phát triển nghĩa của từ “ăn” là vô cùng phong phú, nó
gắn liền với đặc trưng tư duy và văn hóa dân tộc.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ
“ăn” trong tiếng Việt kể trên, thì việc nghiên cứu các thành ngữ có chứa
thành tố “ăn” trong tiếng Việt cũng dành được sự quan tâm đặc biệt của
một số tác giả. Trong đó tác giả Nguyễn Hữu Đạt (2010) với bài viết “Con
đường tạo nghĩa của các thành ngữ liên quan đến ‘văn hóa ăn’ và ‘văn hóa
6
mặc’ trong tiếng Việt” [8] đã đi sâu vào phân tích quá trình tạo nên nghĩa
biểu trưng liên quan đến các thành ngữ biểu thị nội hàm “văn hóa ăn và văn
hóa mặc” của người Việt, trên cơ sở đó để tìm ra mối quan hệ gắn bó khăng
khít giữa “văn hóa ăn và văn hóa mặc” trong tiếng Việt. Đây được xem là
một trong các cơ sở hình thành nên nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt
Nam.
Tác giả Đào Thị Hồng Quyết trong luận văn thạc sĩ “Đặc điểm của
thành ngữ có chứa thành tố “Ăn” trong tiếng Việt” [29] cũng nghiên cứu
trên khối liệu thành ngữ chứa thành tố “ăn” trong tiếng Việt, làm rõ đặc
điểm ngữ nghĩa và đặc trưng tư duy văn hóa của người Việt, trong đó, tư
duy về văn hóa ăn được thể hiện qua thành ngữ như tính cộng đồng trong
bữa ăn, tính phép tắc xã hội, miếng ăn thể hiện triết lý về đạo sống của
người dân Việt Nam.
Tiếp cận theo hướng tri nhận, Nguyễn Thị Bích Hợp trong “Ẩn dụ ý niệm
miền “đồ ăn” trong tiếng Việt” [17] đã nghiên cứu về miền ý niệm đồ ăn, với việc
xây dựng mô hình cấu trúc miền đồ ăn gồm 5 nhóm lớn, tương ứng với 5 điển mẫu.
Thông qua việc nghiên cứu các điển mẫu với 5 mô hình tỏa tia “cơm, ăn, mặn, bát,
đói”, tác giả đã chứng minh rằng “ăn” là ý niệm có sự phát triển nghĩa mạnh nhất,
từ một nghĩa gốc phái sinh 04 chùm nghĩa, rồi phát triển lên tổng số thành tố là 16
nghĩa. Các thành tố nghĩa mới có sự biến chuyển xa dần nghĩa trung tâm. Thông
qua mô hình tỏa tia, cho thấy xu hướng tư duy ẩn dụ, hoán dụ trong quá trình ý
niệm hóa tạo nên các nghĩa mới. Nguyễn Thị Hương (2017) với đề tài “Ẩn dụ ý
niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt) [18] đã
nghiên cứu sự chuyển nghĩa, tỏa tia nghĩa của những điển mẫu là những từ chỉ
phạm trù ăn, uống, từ nghĩa gốc, nghĩa phái sinh đến các ẩn dụ ý niệm trong hai
ngôn ngữ.
7
Thông qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trên, cho chúng ta thấy,
việc nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, ngữ nói về “ăn” tiếng Việt là tương
đối phong phú. Tuy nhiên, việc đi sâu lí giải cơ chế hình thành những nghĩa đó,
cũng như tìm hiểu các từ đồng nghĩa trong nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong Tiếng
Việt, chưa dành được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của giới Việt ngữ. Điều đó đã
gợi ý cho tôi thực hiện đề tài “Nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là tìm hiểu sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ,
ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định
khuynh hướng phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt.
Thông qua đó, để hiểu rõ hơn về quan niệm sống, nhân sinh quan của người Việt về
văn hóa ăn, mà sâu sắc hơn là cách nhìn nhận, đánh giá con người được thể hiện
qua hoạt động “ăn”.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
- Xây dựng khung lý thuyết về ngữ nghĩa của từ và hiện tượng
chuyển nghĩa của từ.
- Khảo sát sự phát triển nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” được thể hiện
trong ngữ cảnh, qua các kết hợp, thông qua đó, để có thể thấy được sự phát triển
ngữ nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
8
Trong phạm vi của luận văn này đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là
nghiên cứu các nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt. Trên cơ sở đó nghiên
cứu ngữ nghĩa và cơ chế tạo nghĩa của từ, xuất phát từ nghĩa gốc của từ “ăn” trong
từ điển.
- Luận văn xác định những từ, ngữ đồng nghĩa chỉ hoạt động “ăn” trong
tiếng Việt và các kết hợp của nhóm từ này trong ngữ cảnh sử dụng, cũng như giá trị
ngữ dụng của chúng trong ngữ cảnh.
- Luận văn xác định các nghĩa chuyển của từ “ăn” trong tiếng Việt theo
hướng xa dần với nghĩa gốc và hoạt động của nhóm này trong hành chức cũng như
ý nghĩa ngữ dụng của chúng trong ngữ cảnh (khảo sát ngôn ngữ báo chí, trong văn
chương và trong các thành ngữ).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát ngữ nghĩa của từ “ăn” và dãy đồng nghĩa của từ “ăn”
trong Từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê [25], Từ điển đồng nghĩa tiếng Việt
của tác giả Nguyễn Văn Tu [42]. Để xem xét các kết hợp của “ăn” trong hành chức,
luận văn khảo sát hoạt động của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” (bao gồm cả các từ đồng
nghĩa với từ “ăn”) trên ngôn ngữ báo chí (báo điện tử), trong một số tác phẩm văn
học và trong thành ngữ.
4.3. Tư liệu nghiên cứu
Nguồn tư liệu nghiên cứu chủ yếu của luận văn được lấy trong các cuốn Từ
điển tiếng Việt, Từ điển thành ngữ Việt Nam, một số tác phẩm văn học. Bên cạnh
đó luận văn còn khai thác tư liệu từ các trang Wed về thành ngữ tiếng Việt, một số
bài viết, luận văn, luận án của các nhà nghiên cứu quan tâm đến sự phát triển ngữ
nghĩa của từ “ăn” đã xuất bản. Ngoài ra, luận văn còn khảo sát ngữ liệu dựa chủ yếu
trên các trang báo điện tử như: báo Thanh niên ( https://thanhnien.vn/), báo Tuổi trẻ
(https://tuoitre.vn/), báo Dân trí (https://dantri.com.vn/)…), báo Vietnamnet
9
https://vietnamnet.vn/ và một số trang báo điện tử khác được Bộ Thông tin và
Truyền thông cấp phép.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn này chúng tôi sẽ chủ yếu áp dụng một số phương
pháp và thủ pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả: Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm xác định
các nội hàm các khái niệm từ, nghĩa của từ, và các từ đồng nghĩa.
- Phương pháp phân tích nghĩa nghĩa: Phương pháp này được sử dụng để
phân tích nghĩa của từ để tìm ra nghĩa gốc, nghĩa phái sinh của từ.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lí luận: Việc nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ, ngữ
nói về “ăn” trong tiếng Việt góp phần khẳng định khuynh hướng phát triển ngữ
nghĩa của nhóm từ “ăn” trong giai đoạn thực tế hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể ứng dụng trong
giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ và bản ngữ, cung cấp cơ sở giải thích nghĩa
của từ “ăn” trong giảng dạy tiếng Việt, đặc biệt cho người nước ngoài học tiếng
Việt; thông qua đó, góp phần làm rõ mối liên hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa và tư duy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, và Phụ lục, nội dung luận văn gồm có ba
chương:
Chương 1. Cơ sở lí thuyết.
Chương 2. Ngữ nghĩa của từ “ăn” và khả năng kết hợp của nó trong tiếng
Việt
Chương 3. Ngữ nghĩa và khả năng kết hợp của nhóm từ đồng nghĩa với từ
“ăn” trong tiếng Việt
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm từ và những khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm từ
Từ là một trong những khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học. Khi nghiên cứu
bất cứ một ngôn ngữ nào người ta cũng không thể bỏ qua việc xác định đơn vị này.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về từ, bởi ở mỗi loại hình ngôn ngữ khác nhau,
từ cũng có những đặc điểm riêng của mình. Vấn đề “từ” trong tiếng Việt cũng vậy,
nó là vấn đề thuộc về lý luận cơ bản, vì toàn bộ hệ thống miêu tả ngôn ngữ phụ
thuộc vào nó. Từ không chỉ là đơn vị cơ bản của từ vựng mà còn là đơn vị cơ bản
của ngôn ngữ nói chung. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về từ. Cho
đến nay, chưa có một định nghĩa nào lý tưởng về từ có thể áp dụng cho mọi ngôn
ngữ, bởi mỗi ngôn ngữ có những nét riêng biệt.
Theo định nghĩa của tác giả Nguyễn Thiện Giáp, định nghĩa phổ biến hiện
nay được nhiều nhà ngôn ngữ học cho là phù hợp về từ là: “Từ là đơn vị nhỏ nhất
của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức” [12, tr.61]
Đối với tiếng Việt, những tiếng như: hai, ba, ăn, ngủ, tôi nhà, tốt, đẹp,… và,
tuy, nhưng…. đều được mọi người nhất trí coi là từ. Từ là đơn vị cơ bản của tiếng
Việt và là đơn vị có thể đảm nhiệm nhiều chức năng nhất:
- Chức năng cơ bản của từ là chức năng định đanh, nhưng trong dãy ngữ đoạn,
từ còn mang chức năng “phân biệt nghĩa” bộc lộ ý nghĩa này hay ý nghĩ khác của
những từ nhiều nghĩa.
- Từ tham gia vào các mối liên hệ từ vựng trong ngữ đoạn. Chính đặc điểm
này đã biến từ trở thành một loại đơn vị ngôn ngữ đặc biệt, nằm trên giao điểm của
hai trục tọa độ cơ bản trong tổ chức cấu trúc của ngôn ngữ - trục đối vị (trục dọc) và
trục nối tiếp (trục ngang).
11
- Cấu trúc ngữ nghĩa của từ rất phức tạp, trong đó có cả nhân tố từ vựng lẫn
nhân tố ngữ pháp.
So với từ của các ngôn ngữ Ấn Âu thì từ của tiếng Việt có những đặc
điểm sau:
- Từ tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Ví dụ: ăn là một từ có
nghĩa, nhưng nếu phân tích ra thành /ă/ /n/ thì đó chỉ là những âm hoàn
toàn không có nghĩa.
- Từ tiếng Việt có thể có biến thể ngữ âm (ví dụ: trời và giời, trăng và
giăng…), biến thể từ vựng - ngữ nghĩa (ví dụ: Các ý nghĩa khác nhau của
từ ăn: ăn giải, xe ăn xăng, ăn ảnh, ăn nằm…) nhưng không có biến thể
hình thái học.
- Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp gắn bó chặt chẽ với nhau ở
trong từ tiếng Việt.
Từ những đặc điểm trên của tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thiện Giáp
đã rút ra định nghĩa về từ của tiếng Việt như sau: “Từ của tiếng Việt là một
chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói, nó có hình thức của một
âm tiết, một khối viết liền” [13, tr.77]
Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một
số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định,
nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa
nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”. [4, tr.16].
Trong đó, các thành phần bên trong từ (thành phần ngữ âm, thành phần ngữ
pháp, thành phần cấu tạo, thành phần ý nghĩa) không độc lập với nhau mà
quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau thành một tập thể gọi là từ. Và các
thành phần ấy có tính đồng loạt chứ không phải chỉ có tính riêng biệt.
12
Chính nhờ tính đồng loạt của các thành phần mà khi gặp một hình
thức ngữ âm nào đó, chúng ta mới có thể quyết định nó là từ nào và sử
dụng nó theo cách nào.
Ví dụ: Khi gặp hình thức ngữ âm “sơn”, dựa vào thành phần ngữ
pháp và ý nghĩa chung với các từ tô, bôi, nhuộm…mà chúng ta quyết định
và sử dụng nó như một động từ.
Theo chúng tôi, mỗi khái niệm đều đề cập đến những khía cạnh khác
nhau của từ tiếng Việt. Ví dụ như đơn vị cấu tạo từ, đặc điểm của từ… Tuy
nhiên để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi lựa chọn khái
niệm về “từ” theo quan điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu.
1.1.2. Khái niệm ngữ
Trong quá trình phát triển của dân tộc, một trong những thành tựu
quan trọng nhất là sự mở rộng không ngừng những tư tưởng, những khái
niệm mà con người có thể truyền đạt được. Con người cần thông báo cho
nhau không chỉ cảm xúc, tri thức…mà còn có vô hạn các sự kiện trong đời
sống. Hệ thống các từ trong tiếng Việt không đủ để biểu thị một số lượng
lớn như thế các khái niệm, hiện tượng khác nhau. Từ đó phát sinh nhu cầu
tất yếu là phải cấu tạo thêm những đơn vị từ vựng mới trên cơ sở những từ
đã có sẵn. Những đơn vị như thế được gọi là ngữ, có giá trị tương đương
với từ.
Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp [13, tr. 537]: “Ngữ là những cụm từ
sẵn có trong tiếng Việt, có giá trị tương đương với từ, có nhiều đặc điểm
giống với từ”:
- Chúng có thể tái hiện trong lời nói như các từ.
- Về mặt cú pháp, chúng cũng có thể làm thành phần câu, tức là có
tính độc lập về cú pháp.
13
- Về mặt ngữ nghĩa, chúng cũng biểu hiện những hiện tượng của thực
tế khách quan, gắn liền với những kiểu hoạt động khác nhau của con người.
Tính cố định và tính thành ngữ là hai đặc trưng cơ bản của ngữ.
1.2. Nghĩa của từ và hiện tượng đồng nghĩa
1.2.1. Khái niệm nghĩa của từ
Không ai có thể phủ nhận ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
của con người. Xét về mặt lý thuyết, ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu. Mỗi tín
hiệu là một tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện mà
thành. Cái biểu hiện trong ngôn ngữ chính là hình thức ngữ âm, còn cái được biểu
hiện là khái niệm (ý nghĩa) hay đối tượng được biểu thị. Hai mặt này luôn gắn kết
với nhau, không tách rời nhau, giống như “hai mặt của một tờ giấy vậy”. Nghĩa của
từ cùng với hình thức ngữ âm được hình thành và ổn định dần dần trong lịch sử
phát triển ngôn ngữ của mỗi dân tộc.
“Nghĩa của từ” là một trong những khái niệm quan trọng nhất của ngôn ngữ
học. Có rất nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm này.
Một số người cho rằng, nghĩa của từ là sự vật hay hiện tượng do từ biểu thị.
Chẳng hạn, theo quan niệm này, nghĩa của từ cây là bản thân cái cây trong thực tế,
nghĩa của các từ ăn, nói …từ tốt, xấu… là bản thân hành động, tính chất tương ứng.
Trên thực tế, vì từ có quan hệ rất đa dạng với các hiện tượng khác cho nên
nghĩa của từ cũng là một hiện tượng phức tạp. Ở Việt Nam, vận dụng những thành
tựu nghiên cứu về nghĩa vào thực tế tiếng Việt, các nhà ngôn ngữ học cũng đã đưa
ra quan điểm của mình về khái niệm nghĩa của từ như sau:
Trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thiện Giáp sau khi đã
trình bày các quan niệm khác nhau về nghĩa của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới,
đã đưa ra nhận định của mình về nghĩa của từ như sau: Nghĩa của từ là một đối
tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản như sau:“nghĩa sở chỉ”, “nghĩa
sở biểu”, “nghĩa sở dụng”, “nghĩa cấu trúc” [11, tr.126].
14
Theo tác giả Hoàng Phê, nghĩa của từ là “Một tập hợp những nét nghĩa có
quan hệ quy định lẫn nhau. Mỗi nghĩa của từ là một tổ hợp đặc biệt những thành tố
ngữ nghĩa, gọi là các nét nghĩa”; “Ý nghĩa của từ vừa là cái riêng cho từng từ, vừa
là cái chung cho những từ cùng loại. Nắm được cái chung, cái riêng trong ý nghĩa
thì mới thực sự hiểu từ, thực sự hiểu được những cái tinh tế trong từ và mới hiểu
được những đặc sắc của từng ngôn ngữ ở những phương diện nội dung”. [26]
Quan niệm của Hoàng Phê cho thấy, cấu trúc của nghĩa từ là một cấu trúc
động, trong quá trình đi vào hoạt động, thường chỉ có một số nét nghĩa của từ có
khả năng hiện thực hóa. Khả năng hiện thực hóa ấy là tùy thuộc vào từng ngữ cảnh
mà chúng xuất hiện.
Theo quan niệm của tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng ngữ nghĩa
tiếng Việt [4, tr.103], ông cho rằng: Nghĩa của từ là có thể chia thành hai lớp nghĩa
là lớp nghĩa cấu trúc hóa và lớp nghĩa liên hội. Trong lớp nghĩa cấu trúc bao gồm ý
nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Nếu ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa chung cho
hàng loạt các từ (ý nghĩa hoạt động của các từ: ăn, uống, ngủ, cười, khóc…ý nghĩa
sự vật của các từ: nhà, cây, sách, bút…) thì ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa riêng của
từng từ. Ý nghĩa từ vựng tùy theo các chức năng mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý
nghĩa của từ bao gồm các thành phần ý nghĩa sau đây: ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa
biểu niệm và ý nghĩa biểu thái.
- Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật.
- Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm.
- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái.
Ý nghĩa biểu vật của từ là sự phản ánh sự vật, hiện tượng…trong thực tế
khách quan vào ngôn ngữ, nên sự vật hiện tượng là cơ sở nguồn gốc của ý nghĩa
biểu vật. Nó mang tính võ đoán, quy ước của xã hội, đó là những mẩu, những mảnh
trong những đoạn cắt của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng với thực tế, có tính
khái quát nên không gắn với hoạt động, tính chất cụ thể của sự vật.
15
- Xem thêm -