Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự từ thực...

Tài liệu Nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự từ thực tiễn tỉnh lai châu

.PDF
84
127
50

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ ...........................................................................8 1.1. Khái quát về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự ......................................................8 1.2. Khái quát địa vị pháp lý của Kiểm sát viên khi được phân công tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự ...........................................................................................25 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH LAI CHÂU..............................................................35 2.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự .................................................................................................35 2.2. Thực trạng thực hiện quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự tại tỉnh Lai Châu .....................................................45 Chương 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN KHI THAM GIA PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ ...........................................................65 3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự .................................................................65 3.2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên ............................................................................................................................71 KẾT LUẬN ..............................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự HĐXX : Hội đồng xét xử KSV : Kiểm sát viên KTV : Kiểm tra viên TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTDS : Tố tụng dân sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDCC : Viện kiểm sát nhân dân cấp cao VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng trong tố tụng dân sự. Lịch sử về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND Việt Nam trong tố tụng dân sự gắn liền với các giai đoạn cải cách tư pháp của Nhà nước ta qua các thời kỳ. Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Đối với VKSND, Nghị quyết nêu rõ: "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp". Tiếp đó, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW, trong đó tiếp tục khẳng định:“Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên nhiệm vụ, quyền hạn như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án”. Như vậy, cả hai nghị quyết đã xác định nhiều định hướng quan trọng, toàn diện cho việc xây dựng hệ thống pháp luật và chương trình cải cách tư pháp đến năm 2010, đòi hỏi phải được thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát (VKS) nói chung cũng như vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong TTDS nói riêng. Theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 thì Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp luật hầu hết các vụ việc dân sự. Năm 2004 với việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự đầu tiên, thì chức năng, phạm vi, thẩm quyền của Viện kiểm sát có những thay đổi căn bản. Theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, thì phạm vi tham gia phiên tòa xét xử dân sự của Viện kiểm sát đã bị thu hẹp đáng kể, Kiểm sát viên không tham gia 100% các phiên tòa xét xử dân sự nữa; Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa đối với những vụ án dân sự do Tòa án thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, 1 người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi chưa có điều luật để áp dụng. Thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 cho thấy quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về sự tham gia của Viện kiểm sát, của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập; chưa tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Do đó, năm 2011 Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Việc sửa đổi, bổ sung này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Sau hơn 3 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Trước yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp và trước yêu cầu của việc bảo vệ quyền lợi của xã hội cho thấy các quy định về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát, của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự vẫn còn những hạn chế, bất cập. Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, khi mà trình độ dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, khi có tranh chấp nhiều người dân chưa có điều kiện mời Luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình và đội ngũ Luật sư hiện nay cũng chưa đáp ứng được yêu cầu tham gia tất cả các phiên tòa. Trước các yêu cầu đó và để bảo đảm phù hợp với quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã được ban hành, với nhiều quy định mới về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát; về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên. Tuy nhiên, sau hơn một năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhiều quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát và của Kiểm sát viên bộc lộ những vướng mắc, bất cập. Thực tiễn đó, đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Kiểm sát viên, người đại diện cho Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử vụ án dân sự. Vì vậy, 2 tác giả đã lựa chọn đề tài: "Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự từ thực tiễn tỉnh Lai Châu” để làm Luận văn Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nhiệm vụ, quyền hạn của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự, đây là vấn đề không chỉ được ngành Kiểm sát mà còn được cả xã hội, nhất là các chuyên gia, nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu. Do vậy, đã có nhiều Luận án Tiến sĩ, Luận văn Thạc sĩ, bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án… liên quan đến nội dung về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND, của KSV trong TTDS. Các công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến đề tài nêu trên, phân ra thành hai nhóm như sau: - Nhóm thứ nhất: Các công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong TTDS sự theo yêu cầu cải cách tư pháp như "Đổi mới vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" của tác giả Nguyễn Minh Hằng, sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2008; "Hoàn thiện chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật Tố tụng dân sự", Đề tài khoa học cấp Bộ của Tiến sĩ Trần Văn Trung, năm 2003; Luận văn Thạc sĩ luật học "Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam" của tác giả Võ Thị Phượng, năm 2010; "Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành", "Nhận thức đúng thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật Tố tụng dân sự" của tác giả Khuất Văn Nga, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 09 năm 2004; Luận văn Thạc sĩ luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Phùng Thanh Hà năm 2014..... - Nhóm thứ hai: Nhóm các chuyên đề báo cáo tổng kết, rút kinh nghiệm như "Vị trí, vai trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" của Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 14-16, tháng 7, 8 năm 2008; “Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004” của VKSNDTC, TANDTC; “Người tiến hành tố tụng trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 3 2015” của Nguyễn Vĩnh Hưng, tạp chí khoa học kiểm sát số 4 năm 2017 và nhiều bài viết khác của Lãnh đạo, của các Kiểm sát viên ở VKSNDTC, VKS các địa phương đăng trên tạp chí, trang tin điện tử của các VKS địa phương, của VKSTC trong thời gian gần đây; ... Qua nghiên cứu những công trình, bài viết nêu trên cho thấy, các tác giả mới chỉ tập trung chủ yếu, đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước; các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự, chứ chưa có công trình, bài viết nào đi sâu nghiên cứu riêng về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự. Gần đây, có một số bài viết liên quan đăng trên Tạp chí Kiểm sát, trên các trang Web của VKS các địa phương tuy có đề cập đến vấn đề này, nhưng chủ yếu là dưới dạng phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2015, đây là những tình hình thực tiễn rất có giá trị, nhất là trong điều kiện BLTTDS năm 2015 vừa được Quốc hội ban hành có hiệu lực thi hành từ 01/07/2016 với nhiều quy định mới, do vậy vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên là nguồn tư liệu phong phú, rất có giá trị, giúp tác giả thuận lợi hơn trong nghiên cứu, hoàn thiện đề tài của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự; đánh giá tính có căn cứ và khoa học về thực trạng pháp luật về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự. 4 - Làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên qua một số giai đoạn phát triển của pháp luật tố tụng dân sự, nhất là theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành từ đó xác định những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự trong thời gian tới, góp phần bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án có căn cứ, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự; việc tổ chức thực hiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự trên thực tế và những quy định của pháp luật có liên quan đến các vấn đề nêu trên. Phạm vi nghiên cứu thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự ở VKSND tỉnh Lai Châu. Thời điểm lấy số liệu trong 05 năm, từ 01/12/2012 đến 30/11/2017. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu về thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân ở tỉnh Lai Châu, theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về đổi mới tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát 5 trong điều kiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị và những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa học chuyên ngành khác đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự, từ đó góp phần tiếp tục hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên, gắn với việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự và hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết vụ án dân sự. - Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự. Bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án khách quan, có căn cứ, đúng pháp luật. - Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn, đồng thời có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý. - Đề tài là nguồn tài liệu để phản ánh một số vấn đề từ thực tiễn giúp cho các ngành Tòa án, Viện kiểm sát, Bộ tư pháp nghiên cứu, phối hợp hướng dẫn thực hiện các vấn đề còn vướng mắc, bất cập trong áp dụng, thực hiện BLTTDS trong thời gian tới. Qua đó, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định trong BLTTDS về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên và các quy định về giải quyết vụ án dân sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 6 Chương 1. Những vấn đề chung về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự và nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự. Chương 2. Thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Lai Châu. Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái quát về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự 1.1.1. Bản chất, ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự Tại Điều 102, khoản 1 của Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [21, tr.54]. Điều 2, khoản 2 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định “Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các vụ việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện cá tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết qua tranh tụng ra bản án, quyết định …” [22, tr.7]. Như vậy, chỉ có Tòa án mới được tổ chức phiên tòa, nhân danh nước Nhà nước xét xử và ban hành bản án, quyết định để giải quyết vụ án, vụ việc. Bản chất của phiên tòa giải quyết vụ án dân sự: Xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án nói riêng và của toàn bộ quá trình tố dân sự nói chung để xem xét tính hợp pháp, có căn cứ của các tài liệu, chứng cứ mà các đương sự đã cung cấp theo trình tự, thủ tục TTDS. Bằng việc xét xử sơ thẩm (hoặc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) thông qua quá trình điều tra trực tiếp tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của các bên, Tòa án với tính chất là cơ quan trọng tài kiểm tra lại và đánh giá một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án dân sự để từ đó ra quyết định giải quyết vụ án (bản án hoặc quyết định) một cách công minh, có căn cứ, đúng pháp luật, bảo đảm tính thuyết phục, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự. Ý nghĩa của phiên tòa giải quyết vụ án dân sự: Xét xử vụ án dân sự là một giai đoạn tố tụng dân sự trung tâm và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ chế độ XHCN; bảo vệ công lý; bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và 8 lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các giai đoạn xét xử của Tòa án; giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. 1.1.2. Một số quy định chung về phiên tòa giải quyết vụ án dân sự 1.1.2.1.Một số nguyên tắc cơ bản về xét xử vụ án dân sự a) Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự: Xét xử tập thể và khi xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia là hai nguyên tắc cơ bản, đặc biệt quan trọng trong xét xử vụ án dân sự của Tòa án. Về nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể: Điều 14 BLTTDS năm 2015, quy định “Toà án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” [24, tr.15]. Điều 10 Luật tổ chức TAND năm 2014, cũng quy định “Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Thành phần Hội đồng xét xử ở mỗi cấp xét xử do luật tố tụng quy định” [22, tr.13]. Đây là nguyên tắc hiến định và được thể hiện đầy đủ trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Bản chất của nguyên tắc này thể hiện ở việc bảo đảm tính toàn diện, đầy đủ, khách quan của việc nghiên cứu, giải quyết các vụ án dân sự và bảo đảm tính đúng đắn, công bằng, khách quan của các bản án và quyết định của Tòa án, tránh được tính chủ quan, độc đoán và tùy tiện trong hoạt động xét xử. Theo nguyên tắc này, việc xét xử các vụ án dân sự ở mọi cấp đều do Hội đồng xét xử được thành lập theo quy định của pháp luật thực hiện. Tuy nhiên, theo quy định BLTTDS hiện hành, thì trường hợp xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn chỉ do một Thẩm phán giải quyết. Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trừ trường hợp xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn (Điều 65 BLTTDS). Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân (Điều 63 BLTTDS). Khi xét xử, quyết định theo đa số, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết mọi vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề. Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số, có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu vào hồ sơ vụ án. 9 Về nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự: Khoản 1 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Điều 8 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định “Việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm tham gia theo quy định của luật tố tụng, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” [22, tr.13]. Điều 11 BLTTDS năm 2015, cũng quy định “1. Việc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. 2. Khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án dân sự, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán” [24, tr.13]. Theo BLTTDS, Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia xét xử các vụ án dân sự còn đối với việc dân sự thì Hội thẩm nhân dân không tham gia. Việc tham gia của Hội thẩm nhân dân giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Khi được cử hoặc bầu làm Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm không tách khỏi hoạt động lao động sản xuất của cơ quan, đơn vị mình. Với vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, sự am hiểu về phong tục tập quán địa phương, Hội thẩm nhân dân sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình ủng hộ. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, từ việc đọc hồ sơ vụ án, nghiên cứu chứng cứ, cho đến việc ra quyết định giải quyết mọi vấn đề của vụ án, kể cả về nội dung và thủ tục tố tụng. Mọi vấn đề của vụ án phải được Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Đây là điều quan trọng để Hội thẩm nhân dân thực sự phát huy được vai trò là đại diện cho quần chúng nhân dân của mình. b) Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định phải đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách 10 tư pháp, Điều 103 khoản 5 Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Điều 24 BLTTDS năm 2015 quy định: "1. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này. 2. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này. 3. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định” [24, tr.19]. Từ quy định trên cho thấy: Về thời điểm và các giai đoạn tranh tụng của các đương sự được thực hiện từ khi khởi kiện thụ lý vụ án cho đến khi giải quyết xong vụ án. Đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định. Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự theo quy định của Bộ luật này và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự; Đương sự, 11 người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này. Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, các chứng cứ của vụ án phải được công khai trừ trường hợp không được công khai quy định tại khoản 2 Điều 109 của BLTTDS. Các đương sự đều có quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai). Đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai). Như vậy, nguyên tắc tranh tụng có mối quan hệ khăng khít, hữu cơ với nhiều nguyên tắc quan trọng khác trong tố tụng dân sự như: Nguyên tắc “Tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự”; nguyên tắc “Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự”; nguyên tắc “Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”; nguyên tắc “Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự”; nguyên tắc “Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự” [24, tr.9, 10, 11, 12]... Đồng thời với đó, sự xuất hiện của nguyên tắc tranh tụng đã làm thay đổi nhiều quy định của BLTTDS như: Quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng dân sự; quy định về chứng cứ và chứng minh; quy định về trách nhiệm của Tòa án bảo đảm cho tranh tụng; quy định về thủ tục tố tụng ... Trong đó, sự thay đổi lớn là phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đã được cơ cấu lại theo hướng thực hiện tranh tụng bao gồm thủ tục bắt đầu phiên tòa; thủ tục tranh tụng tại phiên tòa; thủ tục nghị án và tuyên án [24, tr.19]. Theo Điều 247 BLTTDS năm 2015: Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án. Việc tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên 12 tòa không được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến nhưng có quyền yêu cầu họ dừng trình bày những ý kiến không có liên quan đến vụ án dân sự [24, tr.198]. Sau khi nghe xong lời trình bày của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, thứ tự hỏi của từng người được thực hiện như sau: Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hỏi trước; Bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Những người tham gia tố tụng khác; Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân; Kiểm sát viên tham gia phiên tòa (hỏi sau cùng) [24, tr.200]. Để bảo đảm các tài liệu chứng cứ đều được kiểm tra, đánh giá; mọi tình tiết của vụ án đều được các bên tranh tụng làm rõ tại phiên tòa cho nên khi cần phải có thời gian xác minh, thu thập thêm các tài liệu, chứng cứ hoặc vì lý do chính đáng khác thì phiên tòa có thể được tạm ngừng. Căn cứ tạm ngừng phiên tòa bao gồm: Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng; Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử vắng mặt; Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa; Chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại; Các đương sự thống nhất đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để họ tự hòa giải; Cần phải báo cáo Chánh án Tòa án để đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật [24, tr.206]. Tại Điều 260 BLTTDS năm 2015 quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận: Sau khi kết thúc việc hỏi, Hội đồng xét xử chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa. Trình tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện như sau: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện cơ quan, tổ chức trình 13 bày ý kiến. Người có quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn tranh luận, đối đáp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến; Các đương sự đối đáp theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa; Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể yêu cầu các đương sự tranh luận bổ sung về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ giải quyết vụ án. Trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ tự mình trình bày khi tranh luận [24, tr.207]. Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Như vậy, KSV không phải là chủ thể tranh tụng trong tố tụng dân sự mà chỉ là chủ thể thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Tòa án thay mặt nhà nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra công khai tại phiên tòa, nghe ý kiến của các bên tham gia tố tụng để ra quyết định phán xét giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật [24, tr.208]. c) Xét xử trực tiếp, bằng lời nói Điều 225 BLTTDS năm 2015 quy định: “1. Toà án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên tòa; hỏi và nghe trả lời câu hỏi; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; điều hành và nghe tranh luận giữa các đương sự; nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát. 2. Việc xét xử phải bằng lời nói và được tiến hành tại phòng xử án” [24, tr.184]. Theo quy định nêu trên của BLTTDS thì xét xử trực tiếp, bằng lời nói là những nguyên tắc quan trọng của việc tiến hành phiên tòa. Các nguyên tắc này bảo 14 đảm cho việc xét xử chính xác, khách quan; bảo đảm cho Hội đồng xét xử ra bản án, quyết định trên cơ sở xem xét chứng cứ và tranh luận công khai tại phiên tòa. Khi xét xử, Tòa án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án, kiểm tra, xem xét một cách đầy đủ, khách quan mọi chứng cứ, cả chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và chứng cứ, tài liệu mới được trình ra trước phiên tòa, đánh giá đúng một cách toàn diện. Bản án của Tòa án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Chứng cứ chưa được xem xét tại phiên tòa thì không được dùng làm căn cứ để ra bản án. Việc xét xử phải được tiến hành bằng cách hỏi và nghe ý kiến nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người làm chứng, người giám định, xem xét vật chứng, tài liệu xem xét tại chỗ nếu cần thiết và nghe ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự khi tranh luận. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại phiên tòa và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa. Vì vậy, để xét xử chính xác, khách quan vụ án, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định sự có mặt của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng trong những trường hợp pháp luật quy định và việc vắng mặt đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, không trở ngại cho việc xét xử. d) Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự phản ánh tư tưởng pháp lý tiến bộ. Điều 8 BLTTDS năm 2015 quy định: “1. Trong tố tụng dân sự mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án. 2. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự” [24, tr.12]. 15 Theo nguyên tắc này, các đương sự đều có địa vị pháp lý ngang với nhau trong quá trình tố tụng, đều có những quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ do pháp luật quy định về tố tụng dân sự quy định, nếu vi phạm thì đều phải xử lý theo pháp luật. Tòa án không được phân biệt đối xử và cũng không thể dành bất cứ đặc quyền, đặc lợi cho bất cứ một đương sự nào, cho dù họ là ai, là cá nhân, cơ quan, tổ chức … Đồng thời Tòa án còn phải tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ của họ, không được cản trở ngăn cấm họ thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ trong tố tụng dân sự vì chỉ có sự bảo đảm sự bình đẳng thì các đương sự dù là dân tộc nào, nam hay nữ, có tín ngưỡng hay không, trình độ văn hóa đến đâu … mới có thể thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, đều có cơ hội ngang nhau trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, như quyền đưa ra yêu cầu, quyền phản đối yêu cầu, quyền kháng cáo, khiếu nại, xuất trình chứng cứ, tranh luận, quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ… Đồng thời, các đương sự cũng bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các nghĩa vụ tố tụng, như nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, nghĩa vụ tôn trọng Toà án, chấp hành các quyết định của Toà án trong thời gian giải quyết vụ án… Dựa trên cơ sở đó Tòa án mới có thể lắng nghe đầy đủ các ý kiến của các bên một cách khách quan, toàn diện, mới thu thập được đầy đủ chứng cứ tạo cơ sở vững chắc cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng quy định của pháp luật. Về phía Tòa án cần phải khách quan, công tâm không được phân biệt đối xử hay kỳ thị bất kỳ ai khi họ tham tố tụng và phải tạo cơ hội cho họ được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng. Toà án có trách nhiệm giải thích cho các bên đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ, báo trước về hậu quả pháp lý do thực hiện hoặc không thực hiện hành vi tố tụng, giúp đỡ các bên đương sự trong việc thực hiện quyền của mình, tạo mọi điều kiện để việc nghiên cứu chứng cứ được khách quan, toàn diện và đầy đủ, áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật khi giải quyết vụ việc dân sự. 16 e) Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự Điều 5 BLTTDS năm 2015 quy định: “1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. 2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội” [24, tr.10]. Như vậy, nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là nguyên tắc cơ bản của TTDS. Theo đó, các đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, quyết định quyền, lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo cho đương sự thực hiện được quyền tự định đoạt của họ. Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS có quan hệ mật thiết với quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng. Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS xuất phát từ quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung. Xã hội ngày càng phát triển dẫn đến phát sinh ngày càng nhiều quan hệ dân sự và không thể tránh khỏi mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp là một nhu cầu tất yếu và giải quyết tại Tòa án là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp. Xuất phát từ bản chất của các quan hệ pháp luật dân sự là các bên có quyền tự định đoạt và căn cứ nhu cầu giải quyết kịp thời, nhanh chóng các tranh chấp, pháp luật quy định đương sự có quyền tự định đoạt trong TTDS. Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong TTDS, có ý nghĩa: Thứ nhất, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khi tham gia vào các quan hệ dân sự và xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp, các chủ thể có thương lượng, thỏa thuận với nhau để giải quyết hay quyết định việc có khởi kiện hay không khởi kiện ra trước Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án giải quyết vụ án 17 dân sự khi có đơn khởi kiện của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đương sự yêu cầu tức là phụ thuộc vào ý chí của đương sự từ đó đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự. Thứ hai, giúp xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Thứ ba, giúp ổn định trật tự xã hội, giữ vững kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích của nhân dân. Pháp luật TTDS sự ghi nhận và bảo đảm cho các chủ thể trong quan hệ dân sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình đã góp phần làm giảm bớt áp lực giải quyết các tranh chấp của Tòa án, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí và thời gian của Tòa án và của đương sự. f) Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự Điều 21 BLTTDS năm 2015 về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự quy định: “1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. 2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này. 3. Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. 4. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều này.” [24, tr.17]. Trong tố tụng dân sự khá đa dạng, phức tạp, lại dễ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, nên ngoài việc pháp luật phải quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thì cần thiết phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát thích 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan