Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nhân vật nữ trong tiểu thuyết mẫu thượng ngàn của nguyễn xuân khánh....

Tài liệu Nhân vật nữ trong tiểu thuyết mẫu thượng ngàn của nguyễn xuân khánh.

.PDF
67
78
63

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phùng Gia Thế, người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp tôi hoàn thành khóa luận này. Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía thầy cô và các bạn để đề tài nghiên cứu của chúng tôi tiếp tục được hoàn thiện. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2013 Người thực hiện Nguyễn Thị Phương Lan LỜI CAM ĐOAN Khóa luận được hoàn thành bằng sự cố gắng của bản thân dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Phùng Gia Thế. Tôi xin cam đoan: - Khóa luận này là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi. - Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực. - Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất kì công trình nghiên cứu nào từng được công bố. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2013 Người thực hiện Nguyễn Thị Phương Lan MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ...........................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 5 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 6 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6 6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 6 7. Bố cục của khóa luận ..................................................................................... 6 NỘI DUNG ....................................................................................................... 7 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NHÂN VẬT NỮ VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ..................................................................................................... 7 1.1. Khái quát về nhân vật nữ và đặc điểm của nhân vật nữ trong văn học Việt Nam truyền thống và hiện đại .............................................................7 1.2. Một số đặc điểm của nhân vật nữ trong văn xuôi Việt Nam đương đại .....................................................................................................................10 CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH ............................13 2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người và về người phụ nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh ......................................................................13 2.1.1. Quan niệm nghệ thuật mới về con người trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 ..........................................................................................13 2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người và về người phụ nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh ...............................................................16 2.2. Đặc điểm nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh .......................................................................................22 2.2.1. Những người phụ nữ xinh đẹp, đầy sức sống ........................................22 2.2.2. Những người phụ nữ tái sinh sự sống, tâm hồn bằng tính thiện và tình thương yêu ...........................................................................................33 2.2.3. Những người phụ nữ có số phận bất hạnh .............................................38 2.2.4. Những người phụ nữ gìn giữ văn hóa ....................................................41 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH ...................................................................47 3.1. Độc thoại nội tâm ......................................................................................47 3.2. Sử dụng yếu tố huyền ảo...........................................................................52 3.3. Sử dụng ngôn ngữ thân thể .......................................................................54 KẾT LUẬN .....................................................................................................59 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................62 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. “Tất cả mọi sự bí ẩn của thế giới này đều không thể sánh nổi với sự bí ẩn của người phụ nữ” (Vladimir Lobanok). Người phụ nữ - một nửa của nhân loại, là biểu tượng cho đạo đức và vẻ đẹp bền vững của nghệ thuật và cuộc sống. Tìm hiểu về người phụ nữ chính là khám phá vẻ đẹp của nghệ thuật và sự sống của nhân loại. Từ xưa đến nay, nhiều nhà thơ, nhà văn đã viết về người phụ nữ với tất cả tấm lòng yêu thương rộng mở và người phụ nữ được xem như là thước đo của những giá trị mĩ học nhân văn. Họ đi từ cuộc sống vào văn học, trở thành một kiểu hình tượng quan trọng trong văn học Việt Nam. Theo dòng chảy đó, văn học ngày nay viết về người phụ nữ là sự tiếp nối truyền thống văn học dân tộc, góp phần hoàn thiện hơn chân dung người phụ nữ Việt Nam, cũng là sự thể hiện sâu sắc hơn nhận thức về người phụ nữ nói chung. Những năm gần đây, tiểu thuyết được xem là một thể loại phát triển mạnh mẽ nhất của văn học Việt Nam. Đất nước bước vào thời kì đổi mới, mọi mặt của đời sống đã có nhiều biến đổi, đặc biệt nhà văn có sự thay đổi cái nhìn về cuộc sống, thay đổi trong quan niệm nghệ thuật. Cùng với đó, tiểu thuyết Việt Nam đã phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau như tiểu thuyết về thế sự, tiểu thuyết về đề tài chiến tranh, tiểu thuyết về lịch sử phong tục. Có thể nói, trong mỗi hướng đi của mình, tiểu thuyết Việt Nam đều gặt hái được những thành công nhất định. Làm nên những giá trị của tiểu thuyết trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam có thể kể đến những thành công của thể loại tiểu thuyết mang nội dung văn hóa lịch sử. Đây được coi là một trong những hướng đi đáng chú ý của tiểu thuyết đương đại. Thực tế văn chương đã chứng minh, các cuốn tiểu thuyết đề cập đến vấn đề phong tục tập quán, lịch sử, văn hóa thường là những cuốn tiểu thuyết có giá trị lâu bền. Vì vậy, việc kết hợp lịch sử, văn hóa và văn học chắc chắn sẽ trở thành một trong những hướng đi có triển vọng của tiểu thuyết đương đại. 1.2. Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh được trình làng năm 2006 và cùng năm đó đạt giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội. Tác phẩm là sự ấp ủ, lao động miệt mài của nhà văn trong một khoảng thời gian dài. Đó là cuốn tiểu thuyết về lịch sử, về văn hóa phong tục Việt Nam được thể hiện qua cuộc sống và những người dân ở một làng quê bán sơn địa Bắc Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Đồng thời, tác phẩm còn là câu chuyện tình yêu của những người đàn bà Việt trong khung cảnh một làng cổ. Tuyến nhân vật trong tiểu thuyết khá rộng nhưng nổi bật lên là một thế giới nhân vật nữ sống động: đẹp đẽ, bao dung, bất hạnh, đầy chất phồn thực. Phân tích hệ thống nhân vật nữ sẽ là chìa khóa để tìm hiểu thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. Từ đó thấy được phong cách sáng tác của nhà văn. 1.3. Bên cạnh đó, việc lựa chọn đề tài này còn xuất phát từ niềm yêu thích riêng của tác giả đối với việc tìm hiểu nền văn hóa và người phụ nữ Việt Nam với những nét đẹp riêng được thể hiện trong văn học. Theo chúng tôi, việc tiếp cận từ góc độ văn hóa, lịch sử chính là một con đường khá mới mẻ nhưng độc đáo và hấp dẫn để tìm hiểu về hình tượng nhân vật này. Bởi lẽ, nếu đi theo hướng này thì người đọc các thế hệ sau có thể tiếp nhận nền văn hóa Việt và cảm nhận nó từ chính số phận con người, từ những câu chuyện trong đời sống thường ngày của người dân đã được chắt lọc, chọn lựa trong thể loại tiểu thuyết. Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thương Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh” để nghiên cứu. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ngay sau khi xuất hiện, Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, phân tích, đánh giá. Trên nhiều tờ báo đã xuất hiện những nhận xét về việc nhà văn thể hiện vẻ đẹp của nền văn hóa Việt, và về đặc điểm nhân vật nữ và nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn. Nhà văn Châu Diên trong bài “Nguyễn Xuân Khánh và cuộc giành lại bản sắc” trên báo Tuổi trẻ online ra ngày 16/7/2006 cho rằng đây là cuốn tiểu tuyết mang tầm khái quát văn hóa, nhân vật không còn là những nhận vật riêng lẻ mà là cả một cộng đồng. Cuốn tiểu thuyết này đông đúc nhất đẹp nhất, hay nhất, đậm nhất, mê nhất là những nhân vật nữ từ bà Tổ Cô bí ẩn, bà Ba Váy đa tình... cho đến cô đồng Mùi, cô mõ Hoa khốn khổ, cô trinh nữ Nhụ tinh khiết. Hàng chục nhân vật nữ hết sức gần gũi, hiện thực, mơn mởn, sần sùi, dào dạt, trữ tình, thừa mứa, khát khao cho và nhận, nhận và cho đến cả bà Đà của ông Đùng huyền thoại... tất cả tràn trề sinh lực, đầm đìa phồn thực. Cũng ở vấn đề này, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên trong cuộc trả lời phỏng vấn của VTC News đã khẳng định: “Mẫu Thượng Ngàn là nhân vật quần chúng nhưng lại mang tính đại diện tiêu biểu cho dân tộc Việt”; “Đạo Mẫu trong tiểu thuyết vừa là tín ngưỡng, vừa thể hiện tính phồn thực và sự trường tồn của dân tộc Việt”. Cũng trong cuộc phỏng vấn này, Phạm Xuân Nguyên đã đề cập đến vai trò của nhà văn trong việc phản ánh văn hóa “nhà văn rất cần phải làm văn hóa, nói về văn hóa”. Bản thân Nguyễn Xuân Khánh cũng nói điều mà ông muốn thể hiện trong tác phẩm đó chính là nét đẹp của nền văn hóa Việt Nam và ông tận dụng tất cả kinh nghiệm về làng quê, văn hóa của mình để viết. Trên tạp chí Văn hóa Văn nghệ Công an có bài “Nguyễn Xuân Khánh tuổi 74 và cuốn tiểu thuyết mới” của Quỳnh Châu ra ngày 14/9/2006 lý giải về sự giao thoa văn hóa Đông - Tây trong tiểu thuyết: tác giả (Nguyễn Xuân Khánh) muốn chứng minh cuộc giao thoa ấy có tiếp nhận, đào thải và trải nghiệm đớn đau; đồng thời cũng khẳng định một trong những thành công của cuốn tiểu thuyết là xây dựng tâm lý Việt, cách sống và phong tục Việt trong xã hội qua từng thời kì. Khi đọc Hồ Quý Ly, người ta thấy tác giả đã dày công cho những nhân vật đàn ông, đằng sau những đàn ông ấy là bóng dáng những đàn bà làm nên tâm trạng họ thì ở Mẫu Thượng Ngàn lại thấy tác giả chú trọng vào những nhân vật đàn bà. Trên báo Tuổi trẻ ra ngày 12/6/2007, nhà văn Nguyên Ngọc đã nói lên suy nghĩ của mình về cuốn tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn trong bài viết “Một cuốn tiểu thuyết thật hay về nền văn hóa Việt”: Nếu đi tìm một nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết này thì hẳn có thể nói nhân vật chính đó là nền văn hóa Việt, cái thực tại vừa chứa đựng hiện thực vừa rất hư ảo, bền chặt xuyên suốt mà cũng lại biến hóa khôn lường, rất riêng và rất chung, rất bản địa mà cũng rất nhân loại. Tôn giáo bản địa mà nhà văn đề cập tới trong cuốn tiểu thuyết theo Nguyên Ngọc đó là tôn giáo nảy sinh và thấm sâu, âm thầm có lẽ từ thuở mới hình thành của dân tộc, đạo Mẫu rất Việt, rất phương Nam, rất dồi dào, bất tận, bất tử như Đất, như Mẹ, như người Đàn bà. Bài viết có nhan đề “Nguyên lý tính Mẫu trong truyền thống văn học Việt Nam” của Dương Thị Huyền được đăng tải trên trang web http://www.vanhoahoc.vn ngày 12/7/2006 có nhận xét về nhân vật nữ trong Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh: Từ việc thể hiện bản năng mạnh mẽ của người phụ nữ, nhà văn lại một lần nữa phát triển thêm cho hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam. Trong tác phẩm này, người phụ nữ được “tôn giáo hóa” (nhìn nhận người phụ nữ dưới góc độ văn hóa tâm linh mà cụ thể là dưới ánh sáng của tín ngưỡng thờ Mẫu - một tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Có thể nói, đây không chỉ là sự sáng tạo độc đáo của nhà văn mà hơn thế nhà văn còn thể hiện một hướng đi mới cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người phụ nữ trong Mẫu Thượng Ngàn được nhìn từ góc độ tâm linh. Họ vừa mạnh mẽ, vừa dịu dàng, có thể chiến thắng tất cả nhưng lại vẫn cần sự chở che nâng đỡ từ những người đàn ông, từ sức mạnh vô hình nhưng đầy uy lực của Cổ Mẫu. Ngày 15/10/2012, Viện Văn học tổ chức cuộc hội thảo Lịch sử và văn hóa qua tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, với sự tham gia của nhiều nhà văn, nhà phê bình, nghiên cứu văn học như Lại Nguyên Ân, Nguyễn Đăng Điệp, Phạm Toàn, Hoàng Quốc Hải, Bùi Việt Thắng, Phạm Xuân Nguyên... Theo nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp: “Ai đọc tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh cũng nhận thấy trong diễn ngôn nghệ thuật của ông những suy tư bất tận về lịch sử và văn hóa, những chiêm nghiệm sâu sắc về lẽ hưng phế của các triều đại, những biến động của cuộc đời làm xô lệch biết bao số phận cùng cảm thức hướng thiện đã lay thức ở người đọc những đồng cảm sâu sắc”. Tại hội thảo, 25 bản tham luận đã góp phần luận giải, phân tích sự thành công trong tư duy nghệ thuật, cấu trúc tư tưởng và diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Từ những nhận định của các nhà nghiên cứu cũng như từ phía tiếp nhận của người đọc và bản thân nhà văn, chúng ta có thể thấy đối tượng mà nhà văn thể hiện trong tác phẩm đó chính là sức sống mạnh mẽ của nền văn hóa Việt Nam được thể hiện thông qua số phận, cuộc đời của những người phụ nữ trong những năm đầu thế kỉ XX ở miền Bắc Việt Nam. Trên những cơ sở đó, đề tài “Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh” sẽ đi sâu và tìm hiểu thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của ông. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu những điểm độc đáo, mới mẻ về thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Học tập và nắm vững kĩ năng phân tích và nghiên cứu nhân vật nữ trong các tác phẩm văn chương nói chung và trong tiểu thuyết đương đại nói riêng. - Phân tích những đặc điểm cần chú ý đối với nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. - Phân tích những thủ pháp nghệ thuật độc đáo về xây dựng hình tượng nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Với đề tài đã chọn, đối tượng nghiên cứu của khóa luận là thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Tư liệu chúng tôi nghiên cứu là cuốn tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh do Nxb. Phụ nữ ấn hành năm 2006. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận sử dụng chủ yếu những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống. - Phương pháp phân tích tác phẩm và phân tích nhân vật. - Phương pháp thống kê, so sánh. 6. Đóng góp của khóa luận Từ lí thuyết về nhân vật, vận dụng để tìm hiểu đặc điểm thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. Từ đó góp phần hoàn thiện hơn bức tranh người phụ nữ Việt Nam trong văn học. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của khóa luận được triển khai thành ba chương. Cụ thể bao gồm: Chương 1: Khái quát về nhân vật nữ và một số đặc điểm của nhân vật nữ trong văn xuôi Việt Nam đương đại. Chương 2: Đặc điểm nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. Chương 3: Một số thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ NHÂN VẬT NỮ VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÂN VẬT NỮ TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 1.1. Khái quát về nhân vật nữ và đặc điểm của nhân vật nữ trong văn học Việt Nam truyền thống và hiện đại 1.1.1. Khái niệm về nhân vật nữ “Văn học là nhân học” (M. Gorki). Nhiệm vụ cơ bản và mục đích cao nhất của văn học là khám phá, phát hiện, nhận thức về con người thông qua những nhân vật văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, nhân vật văn học là “con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học” [11, tr.235]. Nhân vật là hình thức cơ bản để văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Chức năng của nó là khái quát những quy luật phong phú của cuộc sống con người, từ đó bộc lộ những hiểu biết, quan niệm và những trăn trở, ước mơ của người nghệ sĩ. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để thể hiện cái nhìn của mình về những cá nhân và xã hội nhất định. Nhân vật là công cụ khái quát hiện thực và phương tiện để tác giả hiện thực hóa quan niệm nghệ thuật về con người dưới một hình thức biểu hiện tương ứng. Như vậy, nhân vật đóng vai trò là yếu tố hàng đầu của tác phẩm, là phương diện để nhà văn truyền tải tư tưởng, thể hiện cá tính sáng tạo của mình, đồng thời lại mang quan niệm có tính nghệ thuật của nhà văn về thời đại, đặc biệt là trong các sáng tác thuộc thể loại tự sự. Nhân vật nữ là hình tượng người phụ nữ được miêu tả trong tác phẩm văn học. Đó là một trong những dạng hình tượng nhân vật giàu tính triết luận về thế sự, cuộc đời. 1.1.2. Nhân vật nữ trong văn học Việt Nam truyền thống và hiện đại Phụ nữ từ lâu được xem là biểu tượng của cái đẹp, hiện thân của sự sinh tồn và luân chuyển sự sống. Trong dòng chảy văn học từ cổ chí kim, hình tượng người phụ nữ luôn là một đề tài quen thuộc nhất và dường như phụ nữ là một nguồn cảm hứng vô tận mà văn học muôn đời vẫn chưa khai thác hết. Văn học truyền thống Việt Nam mọi thời đều dụng công khám phá đề tài người phụ nữ. Trong văn học dân gian, nhân vật nữ đại diện cho lí tưởng thẩm mĩ của nhân dân hiện lên trong các câu chuyện cổ tích thường có số phận bi thảm nhưng luôn tỏa sáng những nét đẹp: hiền lành, chăm chỉ, giàu đức hi sinh, giàu lòng nhân ái và cuối cùng chắc chắn sẽ được hưởng hạnh phúc. Người phụ nữ trong ca dao lại mang vẻ đẹp đằm thắm ý nhị, dịu dàng và kín đáo nhưng đồng thời cũng là hiện thân cho những bi kịch, phải gánh chịu số phận bất hạnh, không có quyền tự quyết định cho cuộc đời mình. Đến văn học trung đại đã có biết bao tiếng nói xót xa, thương cảm cho thân phận người phụ nữ bị chà đạp, vùi dập trong xã hội phong kiến. Trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là hình ảnh những người phụ nữ đức hạnh, đẹp người, tốt nết luôn khát khao một cuộc sống bình yên, hạnh phúc nhưng bị những thế lực cường quyền và cả thế lực phong kiến khắc nghiệt xô đẩy đến những cảnh ngộ éo le, ngang trái bất hạnh. Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều là tiếng than dài, là sự đau đớn tấm tức và tâm trạng bế tắc của nàng cung nữ. Còn Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là tiếng kêu thương đến đứt ruột, tiếng kêu xé lòng cho thân phận chìm nổi lênh đênh trong kiếp đoạn trường của nàng Kiều và cho “phận đàn bà” nói chung. Tiếng nói mạnh bạo, dám bày tỏ khát khao được yêu và sống hạnh phúc còn vang lên đầy mạnh mẽ và đó còn là sự kịch liệt phản đối chế độ năm thê bảy thiếp trong xã hội phong kiến “chém cha cái kiếp lấy chồng chung” của Bà Chúa Thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Giai đoạn văn học thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX là thời kì rất đặc biệt bởi sự xuất hiện của các nữ sĩ như: Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Ngọc Hân Công Chúa… trong sáng tác văn chương, nhân vật nữ là trung tâm, là nơi gửi gắm bày tỏ những tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Không có thời kì nào trong lịch sử văn học Việt Nam lại rực rỡ như thời kì này với sự biểu hiện nghệ thuật trong sự khám phá đời sống nội tâm nhiều cung bậc của người phụ nữ. Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 tiếp tục khai thác đề tài về người phụ nữ. Sáng tác của Tự Lực Văn Đoàn, đặc biệt là của Nhất Linh đã xuất hiện hình ảnh những người phụ nữ mới, đòi quyền tự do yêu đương vượt lên mọi lễ giáo phong kiến như Nhung trong Lạnh lùng (Nhất Linh), Loan trong Đoạn tuyệt (Nhất Linh), Tuyết trong Đời mưa gió (Nhất Linh), Trâm trong Nắng thu (Nhất Linh)… Văn học hiện thực phê phán giai đoạn này đi tìm hiểu những bi kịch khác nhau trong cuộc đời của người phụ nữ. Đó là cuộc đời đầy cơ cực, lắm đắng cay của chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Tám Bính trong Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, hay thân phận của một “dị nữ” như Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. Người phụ nữ trong các tiểu thuyết, truyện ngắn của các nhà văn hiện thực hiện lên như một biểu tượng trong văn học về nỗi khổ đau, bất hạnh chồng chất của kiếp người và cuộc đời họ bao giờ cũng kết thúc trong sự tuyệt vọng, bế tắc. Đến văn học giai đoạn 1945 - 1975, nhân vật người phụ nữ tiếp tục được phản ánh và được làm nổi bật trong mối quan hệ với các vấn đề chung của thời đại. Tắm mình trong bầu không khí hào hùng của dân tộc, người phụ nữ góp phần không nhỏ làm nên những chiến thắng vẻ vang. Đó là chị Sứ trong Hòn đất của Anh Đức, chị Út Tịch trong Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu. Có thể thấy, người phụ nữ trong giai đoạn này là con người của cộng đồng, của xã hội, gắn với cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc được soi rọi dưới cái nhìn lí tưởng mang tính sử thi. 1.2. Một số đặc điểm của nhân vật nữ trong văn xuôi Việt Nam đương đại Sau năm 1975, văn học có xu hướng trở về cái đời thường muôn mặt, cảm hứng sử thi nhạt dần thay thế vào đó là cảm hứng thế sự - đời tư. Vấn đề các nhà văn quan tâm không phải là cuộc sống chiến đấu dũng cảm vì dân vì nước của người phụ nữ nữa mà là những lo toan thường nhật, nỗi đau đớn mất mát của họ. Nhân vật nữ xuất hiện đa dạng, phong phú và mỗi nhà văn tìm thấy cho mình một hướng đi riêng khi khai thác đề tài này: Nguyễn Minh Châu tiếp tục khai thác vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ nhưng chú ý nhiều hơn đến đời sống nội tâm của họ như Quỳnh trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Thai trong Cỏ lau; Nguyễn Huy Thiệp khai thác về thiên tính nữ qua một loạt những truyện ngắn: Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần,… Khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội và tư tưởng của con người cũng thay đổi tận gốc rễ. Bởi vậy, trong cách nhìn về cuộc sống, con người và quan niệm nghệ thuật của các nhà văn cũng tất yếu biến đổi. Trong bối cảnh xã hội mới, vai trò, vị trí của người phụ nữ ngày càng được đề cao và khẳng định. Họ tham gia ngày một đông đảo vào tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, y tế, thương mại… trong đó có sáng tác văn chương. Trên diễn đàn văn học, sự xuất hiện đầy ấn tượng của các cây bút nữ với những tập thơ, truyện ngắn hay tiểu thuyết của họ đã thổi một “luồng gió mới” và góp phần tô điểm cho diện mạo nền văn học đương đại, lấy lại thế cân bằng trong sáng tác giữa nam và nữ. Nếu như ở các giai đoạn trước 1930 - 1945 hay 1945 - 1975 ưu thế thuộc về các nhà văn nam như Nam Cao, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn Khải, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu… thì văn học đương đại phần đông gắn với tên tuổi các nhà văn nữ như: Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Lê Minh Khuê, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Đoàn Lê, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu… Những trang viết của họ thể hiện sự quan tâm đến số phận, hạnh phúc và quyền sống của giới mình. Và có lẽ theo quy luật đồng thanh tương ứng, lúc đầu là một vài cây bút nữ viết rồi những cây bút khác qua tác phẩm của những người đi trước tìm thấy ở đó một sự đồng cảm và họ cũng viết để giãi bày làm thành cả một dòng chảy. Ở dòng chảy đó, họ như được tự do phơi mở “cái tôi” của chính mình với một giọng điệu riêng, một cách thức riêng. Họ thẳng thắn đối thoại với những quan niệm cũ về những mẫu hình nữ giới trước đây luôn bị đóng khung trong những đặc điểm dịu dàng, thùy mị, chỉ viết về những chuyện nhỏ nhặt, không có tầm tư tưởng lớn. Họ thể hiện sự thức tỉnh ý thức cá nhân, khát vọng bản thể, khẳng định giá trị sống của chính mình trên diễn đàn văn học nghệ thuật. Khi viết về tình yêu, họ khám phá toàn diện về mọi mặt, mọi cung bậc: ngọt ngào, đắng cay, đau đớn, xót xa, nhẹ dạ cả tin, già dặn, mạnh mẽ, chủ động, từng trải,… tất cả đều là những bộc bạch chân thực nhất của các cây bút nữ viết về giới mình. Hơn nữa, các nữ văn sĩ viết về phái yếu, cũng có nghĩa là họ đã hướng ngòi bút vào chính mình, dù tác giả viết về những người phụ nữ khác thì cái nhìn của họ cũng có phần sâu sắc, triệt để và thấu đáo hơn. Thế giới nhân vật nữ của các nhà văn nữ được xây dựng trên những trang văn thấm đẫm tình cảm, cảm xúc như đang tuôn trào từ trái tim, tâm hồn của họ với giọng điệu khi thì dịu dàng, ấm áp, khi thì xúc động nghẹn ngào… Và tình yêu luôn là đề tài trung tâm trong nhiều sáng tác của các cây bút nữ. Người phụ nữ trong văn học thời kì đổi mới hiện lên với một cá tính mạnh mẽ, có những người hạnh phúc song hầu hết trong số họ là những người bất hạnh và cô đơn. Với tâm hồn nhạy cảm và dễ xúc động, nữ văn sĩ là người dễ nhận ra và dễ khắc sâu những nỗi buồn của người cùng giới hoặc của chính mình. Cũng trong xu hướng đó, các nhà văn nam cũng quan tâm tới số phận của nữ giới. Trong cảm quan của họ, người phụ nữ còn mang trong mình một sức mạnh (nội lực) âm thầm có thể cảm hóa mọi thế lực. Trong những tác phẩm ấy, người phụ nữ hiện lên vẫn dịu dàng, đằm thắm, trữ tình đầy yêu thương. Dù với cuộc sống khổ cực đầy biến động của lịch sử nhưng họ vẫn hiện lên với vẻ đẹp tươi tắn thể hiện nội lực của dân tộc Việt. Qua đây, chúng ta thấy hình tượng người phụ nữ là hình tượng xuyên suốt và nổi bật trong nền văn học Việt Nam, gắn liền với sự vận động trong quan niệm nghệ thuật về con người qua các giai đoạn văn học. Có một đặc điểm là người phụ nữ luôn là hình ảnh tích cực, được nhà văn gửi gắm nhiều tình cảm thương yêu trân trọng: nhẫn nại, đa cảm, thua thiệt và chủ động, đó dường như là nét tiêu biểu của nhân vật nữ trong văn học Việt Nam ở mọi thời. Với tư cách là một nhà văn hóa, Nguyễn Xuân Khánh đã khám phá vẻ đẹp của người phụ nữ trên những phương diện lịch sử, văn hóa, văn học. Trở lên là những giới thuyết vắn tắt về nhân vật và nhân vật nữ trong văn xuôi Việt Nam đương đại. Đây sẽ là những tiền đề - lí luận - lịch sử để chúng tôi tìm hiểu đặc điểm nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. CHƯƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH 2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người và về người phụ nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh 2.1.1. Quan niệm nghệ thuật mới về con người trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 Trong văn chương, con người là đối tượng nhận thức trung tâm, là thước đo cho sự tiến bộ nghệ thuật từ xưa đến nay, là cái đích để văn học hướng tới. Khi đánh giá thành tựu của một nền văn học hay một xu hướng, một tác giả, một giai đoạn văn học chúng ta không thể không quan tâm đến quan niệm nghệ thuật về con người của nền văn học ấy. “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật đó” [32, tr.55]. Quan niệm nghệ thuật về con người tất nhiên cũng mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghệ sĩ, gắn liền với cái nhìn độc đáo đầy tính phát hiện của nghệ sĩ. Trong văn học Việt Nam, Nguyễn Du được đánh giá cao, trước hết là sự ghi nhận chủ nghĩa nhân đạo trong quan niệm nghệ thuật về con người của ông. Đến thời kì hiện đại, nếu được phép dẫn một trường hợp cụ thể không thể không nhắc đến Nam Cao. Tác phẩm của ông là sự nhức nhối về thân phận con người với những ước mơ, hoài bão đấu tranh vật lộn và khát khao vươn lên để sống sao cho Người nhất. Nghiên cứu văn học hiện đại xem toàn bộ sự miêu tả về nhân vật như là một cái biểu đạt, là sự biểu hiện của trình độ cảm nhận về con người, từ đó phân tích nhân vật để tìm hiểu quan niệm về con người trong ý thức sáng tác. Vì vậy, quan niệm nghệ thuật về con người là cơ sở chắc chắn nhất khi nghiên cứu tính độc đáo của sáng tạo nghệ thuật. Tuy nhiên, trong mỗi thời kì, con người được tiếp cận ở những góc độ khác nhau. Chính sự khác nhau đó đã làm nên tính phong phú, đa dạng nhiều màu sắc cho văn chương nhằm hướng đến cái đích là khám phá ngày càng sâu sắc hơn về con người như nó tự cảm thấy trong tự nhiên, xã hội và lịch sử với tất cả sự phong phú tinh tế. Văn học giai đoạn 1945 – 1975 phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt của cuộc chiến tranh vệ quốc. Nó không thể không bị chi phối bởi các quy luật bất thường. Chiến tranh đặt ra vấn đề sống còn của dân tộc lên trên hết, mọi quyền lợi, ứng xử phải nhìn theo quan điểm “địch – ta”, sự thống nhất muôn người trở thành một nguyên tắc tối thượng. Để phục vụ cho những nhiệm vụ chính trị, văn học đã tập trung mọi cố gắng vào việc giáo dục, đào tạo “con người mới”. Cá nhân tự hòa quyện trong cộng đồng, “con người giải quyết mọi bi kịch, mọi vướng mắc cá nhân là hướng về cách mạng và cộng đồng”. Phát hiện con người cộng đồng trong mỗi cá nhân, con người như sản phẩm hoàn hảo của hiện thực cách mạng là cống hiến của văn học với tư cách là một mặt trận tư tưởng. Nhà văn thông qua con người để biểu hiện lịch sử. Con người trở thành phương tiện để khám phá lịch sử. Từ những mối quan hệ cho đến bản ngã của mỗi cá nhân đều được nhìn nhận theo chuẩn mực chung. Nhà văn nhìn con người chủ yếu như một ý thức chính trị vận động hợp quy luật lịch sử. Cảm hứng sử thi và khuynh hướng lãng mạn đã tạo nên những con người đẹp đẽ và hoàn hảo. Trên thực tế, chúng ta không thể phủ nhận sự trưởng thành của văn học từ chống Pháp đến chống Mĩ. Đó là sự thể hiện con người ngày càng trưởng thành, sâu sắc và đầy đặn hơn. Nhưng do chiến tranh kéo dài, nhiều nguyên tắc nhất thời trở thành quy phạm, hạn chế không nhỏ khả năng sáng tạo của văn học, trong đó có quan niệm nghệ thuật về con người. Chiến thắng 30 – 4 – 1975 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bước qua cuộc chiến tranh, dân tộc ta phải đối mặt với biết bao khó khăn của cuộc sống thời hậu chiến. Thực tế ấy đã làm thay đổi nếp nghĩ và những quan niệm trước kia được coi là chuẩn mực, những vấn đề mà người ta có thể gạt ra phía sau để ưu tiên cho cái lớn lao, cao cả của dân tộc thì giờ đây nó thúc ép, đe dọa con người buộc mỗi người phải lưu tâm giải quyết. Những chuẩn mực và quan niệm về giá trị con người cũng được nhìn nhận và đánh giá lại trong bối cảnh cuộc sống đời thường. Nhà văn không thể nhìn nhận con người bằng cảm hứng lãng mạn cách mạng và cảm hứng anh hùng ca như thời kì chiến tranh. Lúc này trong văn chương không thể nhìn nhận con người như “thần thánh nói chuyện với nhau” mà nhà văn phải có quan niệm đầy đủ hơn về hiện thực và con người. Con người được khám phá như một cá thể phức tạp, có số phận riêng, với cả thế giới tinh thần phong phú, đặt trong quan hệ con người với con người, con người với tự nhiên, con người với xã hội. Theo thời gian, hình ảnh con người công dân, con người cộng đồng trong văn học kháng chiến dần nhường chỗ cho những con người bình thường trong cuộc sống. Đây đồng thời cũng là thời kì đột phá của văn xuôi, trong đó tiểu thuyết là một thể loại nghệ thuật giữ vai trò quan trọng trong nền văn học bởi sức mạnh nghệ thuật và tầm bao quát về bề rộng cũng như chiều sâu trong phản ánh hiện thực của nó. Do vậy, trước yêu cầu đổi mới văn học, nhiều cuốn tiểu thuyết ra đời. Những cây bút tiêu biểu cho văn học trước đây như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu… cùng nhiều tác giả xuất hiện như Bảo Ninh, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường… đã khiến cho tiểu thuyết - niềm hi vọng của thế kỉ - tạo ra nhiều phong cách sáng tạo, có giọng điệu riêng. Thời xa vắng của Lê Lựu, Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng… đã chứng tỏ sự chuyển đổi trong tư duy sáng tạo của nhà văn. Nhà văn đã nhận diện hình ảnh con người đích thực với nhiều kiểu dáng đa dạng như sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, con người tâm linh và con người xã hội. Phát hiện con người phức tạp, con người lưỡng diện, con người không nhất quán với mình, có thể nói ở giai đoạn lịch sử mới, các nhà văn đã có những chuyển hướng trong nhận thức, tư duy về bản thể con người. Các nhà tiểu thuyết Việt Nam đã phá vỡ cái nhìn đơn phiến, tĩnh tại để tạo ra cái nhìn phức tạp hơn đa chiều hơn và vì thế sâu sắc hơn. Khắc họa chân dung những con người vừa đời thường, trần thế vừa đẹp đẽ mang đậm chất nhân văn khi nhìn nhận về con người Việt Nam sau 1975. 2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người và về người phụ nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh Quan niệm về con người được xem là toàn bộ cái nhìn và sự miêu tả về con người bằng các biện pháp nghệ thuật. Trong quan niệm nghệ thuật có cái chung của thời đại, của dân tộc và của cả nền văn hóa song lại có vai trò năng động sáng tạo của mỗi cá nhân người nghệ sĩ. Ở các nhà văn, sự hình thành quan niệm nghệ thuật có một vai trò đặc biệt quan trọng trong cá tính sáng tạo, thế giới quan và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. 2.1.2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh Qua những tác phẩm của mình, Nguyễn Xuân Khánh đã cho ta cái nhìn đủ đầy về văn hóa, lịch sử. Do vậy, quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn được xuất phát từ quan niệm về lịch sử trong tiểu thuyết của ông. Tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử vấp phải vấn đề muôn thuở, đó là cần phải giải quyết mâu thuẫn giữa sự thực và hư cấu, lịch sử yêu cầu tính chân thực trong khi văn học cho phép hư cấu. Giải pháp tốt nhất có thể thực hiện để nhà văn giải quyết mối mâu thuẫn giữa sự thật và hư cấu là sự thật của con người, độc giả có quyền không tin nhà văn nhưng sự thật về con người theo logic khách quan thì không thể phủ nhận. Khám phá con người trong
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan