Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền ...

Tài liệu Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế

.PDF
81
157
55

Mô tả:

LUẬN VĂN: Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Định hướng XHCN là một vấn đề được Đảng ta chính thức nêu ra từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991). Suốt từ đó cho tới nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong sự lãnh đạo và quản lý đất nước, nhằm bảo đảm định hướng XHCN công cuộc đổi mới, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Với chủ trương đúng đắn về sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó là nguyên nhân trực tiếp nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ cao. Từ đó đã góp phần nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Song, thực tiễn cũng cho thấy, sự phát triển nền kinh tế ở nước ta bên cạnh những mặt tích cực như đã nêu, đồng thời đã bộc lộ những khuyết tật có nguy cơ chệch hướng XHCN. Nguy cơ đó xuất phát từ những điều kiện khách quan và ngay cả trong nhân tố chủ quan của nước ta. Để bảo đảm định hướng XHCN trong quá trình phát triển nền kinh tế ở giai đoạn tiếp theo, đòi hỏi cần có sự nỗ lực; sự phát huy cao độ vai trò nhân tố chủ quan của Đảng và Nhà nước ta. Vì đây là hai chủ thể quan trọng nhất nhằm bảo đảm giữ vững định hướng XHCN quá trình phát triển nền kinh tế. Bởi vậy, việc nghiên cứu "Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vừa cơ bản vừa cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề vai trò "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan" trong lịch sử đã được các nhà triết học đề cập, nghiên cứu. Ngay trong các tác phẩm của mình các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã đề cập nghiên cứu nhiều về vấn đề đó. Do vị trí và ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, những năm gần đây ở nước ta nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan" đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, như các công trình nghiên cứu sau: - "Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong xây dựng con người mới ở Việt Nam" Luận án PTS của Nguyễn Thế Kiệt; Hà Nội, 1988. - "Quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta" Luận án Thạc sĩ của Chế Công Tâm, Hà Nội, 1993. - "Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" Luận án PTS của Dương Thị Liễu; Hà Nội, 1996. - "Về nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay" Luận án TS của Phạm Ngọc Minh, Hà Nội, 2000. Bên cạnh những công trình chuyên khảo về vấn đề này, như đã nêu trên, các tạp chí "Cộng sản", "Triết học", "Nghiên cứu Lý luận", "Thông tin Lý luận"… Cũng đã xuất hiện nhiều công trình của các tác giả nghiên cứu đề cập tới việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan như: - "Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta" của Dương Phú Hiệp, tạp chí Triết học số 2/1973. - "Vị trí và vai trò của nhân tố chủ quan trong cơ chế tác động của quy luật xã hội" của Phạm Văn Đức, tạp chí Triết học số 3/1989. - "Những yếu tố cơ bản làm tăng cường chất lượng của nhân tố chủ quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội" của Trần Bảo, tạp chí Triết học số 3 tháng 9/1991. - "Xu hướng và các nhân tố bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế nhiều thành phần" của Nguyễn Chí Mỹ, tạp chí Cộng sản số 10/5/1997 v.v... Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đây rất có giá trị , các tác giả nghiên cứu đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong quá trình phát triển xã hội nói chung và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói riêng. Tuy nhiên cho tới nay, vẫn chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu có tính hệ thống vai trò nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Vì vậy, tác giả luận văn mạnh dạn đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu vấn đề này. Với mong muốn có những đóng góp nhất định về phương diện lý luận và thực tiễn, góp phần vào việc xây dựng giải pháp nâng cao chất lượng nhân tố chủ quan, nhằm giữ vững định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Luận văn có mục đích: Trên cơ sở làm rõ vai trò nhân tố chủ quan trong việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta và đánh giá thực trạng của việc phát huy nhân tố chủ quan hiện nay, từ đó nêu ra một số giải pháp nâng cao chất lượng nhân tố chủ quan. Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Thứ nhất: Làm rõ nội dung khái niệm "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan" và vai trò của nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội nói chung và bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta nói riêng. Thứ hai: Khảo sát thực trạng việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan, chỉ ra những bất cập của nó, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao nhân tố chủ quản nhằm bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. 3.2. Giới hạn của luận văn Luận văn chỉ tập trung đi vào phân tích và làm rõ vai trò nhân tố chủ quan của Đảng và Nhà nước ta là hai chủ thể cơ bản và quan trọng nhất trong việc lãnh đạo, quản lý và định hướng nền kinh tế phát triển theo hướng XHCN. 4. Cái mới của luận văn - Góp phần làm rõ vai trò nhân tố chủ quan trong việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò nhân tố chủ quan, nhất là ở địa phương, cơ sở. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các nguyên lý, các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, kế thừa một cách hợp lý các công trình có liên quan. - Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã dùng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phân tích, tổng hợp, lôgic và lịch sử, hệ thống và yếu tố v.v... 6. ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn trước tiên nhằm nâng cao nhận thức cho tác giả. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy bộ môn triết học trong các trường chính trị tỉnh thành. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận các phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 2 chương 4 tiết. Chương I Nhân tố chủ quan và vai trò của nó đối với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay 1.1. Nhân tố chủ quan và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội 1.1.1. Khái niệm: "Nhân tố chủ quan", "Điều kiện khách quan" Khái niệm nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan được hình thành và phát triển trong quá trình nghiên cứu hoạt động thực tiễn của con người. Do vậy, để làm sáng tỏ nội dung của các khái niệm đó, đòi hỏi phải đề cập tới các khái niệm có liên quan tới hoạt động của con người. Đó là những khái niệm: "chủ thể", "khách thể". Khái niệm "chủ thể": trong hoạt động tác động và cải tạo thế giới khách quan, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh khách quan; đồng thời là chủ thể của hoạt động cải tạo hoàn cảnh khách quan, từ đó hình thành nên khái niệm chủ thể. Đây là một khái niệm đã được nhiều nhà triết học quan tâm nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về nội dung của khái niệm này như: Có người cho rằng: "Chủ thể" là con người (cá nhân hoặc nhóm...) tiến hành hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn 59, tr. 92 . Cũng có người hiểu: "chủ thể là con người có ý thức và ý chí, và đối lập với khách thể bên ngoài" 60, tr. 192 . Qua những quan niệm khác nhau trên đây cho thấy: tùy theo cấp độ xem xét, chủ thể có thể là cả loài người, có thể là một nhóm, một giai cấp, một đảng phái... Đang thực hiện một quá trình hoạt động nhằm cải tạo khách thể tương ứng. Kế thừa những cách hiểu trên, trong luận văn này chúng tôi quan niệm: Chủ thể - đó là con người với những cấp độ tồn tại khác khác nhau (cá nhân, nhóm, giai cấp) đã và đang thực hiện sự tác động đến khách thể. Với khái niệm chúng tôi đã nêu trên, cho thấy: Con người là chủ thể, đó là con người thực tiễn, con người hành động, đặc trưng cơ bản nhất là có năng lực hoạt động sáng tạo nhằm cải tạo khách thể (tự nhiên, xã hội). Nét biểu hiện về năng lực sáng tạo của chủ thể đó là việc lựa chọn những hình thức và phương pháp tác động, xây dựng ý chí và quyết tâm trong quá trình tác động vào khách thể, nhằm đạt được mục đích đề ra. Đúng như trước đây Lê Nin đã từng viết: "Khái niệm ấy (bằng con người) là khuynh hướng tự mình thực hiện mình, qua bản thân mình, một tích khách quan trong thế giới khách và tự hoàn thiện (tự thực hiện) mình" 27, tr. 228. Khái niệm "khách thể" và khái niệm "chủ thể" có mối liên hệ hữu cơ và liên quan mật thiết với nhau. Với cách hiểu nội dung khái niệm "chủ thể" như đã nêu trên. Chúng tôi quan niệm về khách thể, đó là: Khách thể là tất cả những gì mà chủ thể hướng vào nhằm nhận thức và cải tạo nó Với cách hiểu và quan niệm như vậy, theo chúng tôi: Khách thể phải được xác định tùy thuộc vào chủ thể tương ứng với nó và do vậy khách thể không phải là toàn bộ hiện thực khách quan, nó chỉ là một bộ phận của hiện thực khách quan (là các sự vật hiện tượng, quá trình ...), các bộ phận đó chịu sự tác động của chủ thể xác định. Nói cách khác, tùy từng cấp độ xác định về chủ thể để chúng ta xác định khách thể. Do hiện thực khách quan hết sức phong phú, từ đó khách thể là những bộ phận của nó cũng rất đa dạng. Có khách thể là những hiện tượng, quá trình thuộc giới tự nhiên; có khách thể là những hiện tượng, quá trình thuộc về lĩnh vực đời sống xã hội. Chẳng hạn, những quan hệ kinh tế, những quan hệ chính trị - xã hội, kể cả những quan hệ tư tưởng cũng là những khách thể của những chủ thể tương ứng 35. Khách thể và chủ thể có liên quan mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau. Không thể nói tới một khách thể cụ thể, nếu không nói tới một chủ thể xác định. Bởi vì, chủ thể và khách thể có mối quan hệ biện chứng với nhau, chúng chỉ tồn tại với tư cách là chủ thể và khách thể khi lấy nhau làm tiền đề. Khách thể tồn tại bên ngoài, không lệ thuộc vào chủ thể song khách thể không đối lập trừu tượng với chủ thể. Vì nó chính là đối tượng mà chủ thể luôn luôn hướng vào cải tạo bằng hoạt động có ý thức của mình. Khi xem xét hoạt động của con người, người ta không chỉ nghiên cứu các khái niệm chủ thể và khách thể; mà còn quan tâm tới khái niệm "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan". Bởi vì các khái niệm điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan được dùng để chỉ mối quan hệ giữa hoạt động có ý thức của con người và hoàn cảnh mà trong đó con người hoạt động. Khái niệm nhân tố chủ quan không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm chủ thể. Hiện nay trên sách, báo, tạp chí nghiên cứu xuất hiện nhiều những quan niệm khác nhau về khái niệm nhân tố chủ quan. Chẳng hạn, trong khi nghiên cứu khái niệm "nhân tố chủ quan", có tác giả đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động có ý thức của con người nói chung. "Nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội là hoạt động có ý thức của những con người, những giai cấp, những chính đảng sáng tạo ra lịch sử " 36, tr. 18. Cũng có tác giả lại giới hạn và đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động tự giác của con người. Như vậy, nhóm quan niệm nêu trên thường nhấn mạnh đặc trưng sáng tạo của ý thức, tư tưởng, nhấn mạnh vai trò của ý thức trong việc phản ánh điều kiện khách quan. Những quan niệm trên đây có nhiều giá trị và tính hợp lý, vì đã chỉ ra vai trò của ý thức, tính tự giác trong hoạt động của con người. Nhưng, nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động có thức của con người; hoặc giới hạn nhân tố chủ quan với hoạt động tự giác của con người, thì theo chúng tôi chưa thật đầy đủ và như vậy dễ dẫn đến tình trạng "chủ quan hóa" hoạt động của con người. Bởi vì, hoạt động của con người không chỉ thuần túy thuộc về nhân tố chủ quan mà còn bị chi phối và quy định của điều kiện khách quan. Ngoài những quan niệm nêu trên, còn có quan niệm đồng nhất nhân tố chủ quan với ý thức của chủ thể hoạt động. Về quan niệm này, A.K.Uleđôp đã nhận xét và phê phán một cách xác đáng, rằng: Nhiều phẩm chất tư tưởng, tâm lý xã hội, đạo đức của các tập đoàn xã hội, của các giai cấp và các tổ chức của nó, của các dân tộc là nằm trong nội dung của nhân tố chủ quan, nhưng sẽ là sai lầm khi cho rằng toàn bộ ý thức xã hội cũng nằm trong đó. Nhân tố chủ quan không phải là ý thức nói chung (cũng hệt như là sự hoạt động), mà là các ý thức đã trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích và phương châm của hoạt động. Nói cách khác là ý thức đã biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của hoạt động của chủ thể 61, tr. 69. Như vậy, theo A.K.Uleđôp nhân tố chủ quan chỉ bao gồm những bộ phận ý thức của chủ thể tham gia vào quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể. Theo chúng tôi, nói tới "nhân tố chủ quan", trước hết chúng ta cần đề cập tới đặc trưng cơ bản của nó là "tính tích cực, tính sáng tạo" của chủ thể hoạt động. Bởi lẽ, các nguyên lý triết học Mác xít chỉ ra rằng, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh nhưng đồng thời là chủ thể của hoàn cảnh đó. Do đó, khi đặt trong mối quan hệ chung nhất, đối diện với giới tự nhiên chúng ta có khái niệm con người. Khi đặt con người (có thể là cả loài người, hoặc một bộ phận, một cá nhân trong trạng thái đang tích cực hoạt động trước một đối tượng cần nhận thức và cải tạo nó theo mục đích nhất định, lúc đó chúng ta có khái niệm chủ thể và đối lập với nó là khách thể. Còn khi xem xét con người - chủ thể tích cực hoạt động trong một hoạt động xác định, với đầy đủ các mặt, các yếu tố, mối quan hệ... Tức khi xem xét con người - chủ thể đó với tất cả các nhân tố tạo thành tính tích cực của chủ thể - các nhân tố vừa là nguyên nhân, vừa là điều kiện của mọi hoạt động tích cực, sáng tạo của chủ thể chúng ta có khái niệm nhân tố chủ quan và đối lập với nó là điều kiện khách quan [43, tr. 58]. Như vậy, "vấn đề nhân tố chủ quan trong lịch sử dù người ta tiếp cận việc giải quyết nó về mặt nào và ở bình diện nào đi nữa cũng chỉ có thể được vạch ra thông qua sự phân tích đặc trưng về chất của những chủ thể lịch sử" 61, tr. 67. Nhưng điều đáng lưu ý, không phải là bản thân các chủ thể lịch sử đó đóng vai trò nhân tố chủ quan, mà những thuộc tính, những phẩm chất, những trạng thái của chủ thể biểu hiện trong hoạt động đóng vai trò nhân tố chủ quan. Những thuộc tính, phẩm chất của chủ thể là nhân tố chủ quan, là những yếu tố cần thiết để tạo ra khả năng tích cực, sáng tạo của chủ thể. Biểu hiện sức mạnh sáng tạo đó của chủ thể phải được thể hiện thông qua hành động thực tiễn cải tạo các khách thể xác định. Tổng hợp toàn bộ những nội dung đó tạo thành khái niệm nhân tố chủ quan. Nhấn mạnh điều đó tác giả V.N Lavrineko cho rằng: Nhân tố chủ quan trong quá trình lịch sử là những khả năng khác nhau của con người mà bằng sự tác động của mình, đã đem lại sự biến đối trong những mặt nhất định của đời sống xã hội. Điều quan trọng nhất cấu thành nhân tố chủ quan là ý thức và nói chung là đời sống tinh thần của con người, những kỹ năng, kỹ xảo và thói quen của họ trong hoạt động sản xuất, kinh nghiệm xã hội, trình độ văn hóa và đồng thời là những phẩm chất ý chí của họ: Tính tổ chức trong hoạt động của con người có một ý nghĩa to lớn 35, tr. 20. Từ những nội dung phân tích trên đây cho thấy, giữa nhân tố chủ quan và chủ thể có sự thống nhất, nhưng không đồng nhất với nhau. Sự thống nhất giữa khái niệm "chủ thể" và "nhân tố chủ quan" được thể hiện ở chỗ: nhân tố chủ quan là thuộc về chủ thể. Còn giữa các khái niệm này có sự khác nhau và tính độc lập tương đối, vì nhân tố chủ quan, là khái niệm để chỉ những yếu tố, đặc trưng cấu thành phẩm chất của chủ thể, được chủ thể huy động và trực tiếp tạo ra năng lực, cũng như động lực của chủ thể nhằm để biến đổi khách thể cụ thể. Với quan niệm như trên, chúng tôi hiểu: Nhân tố chủ quan là những gì thuộc về chủ thể và tham gia trực tiếp vào một hoạt động cụ thể của chủ thể cũng như bản thân sự hoạt động đó. Với quan niệm về khái niệm nhân tố chủ quan nêu trên, theo chúng tôi, cấu trúc của nhân tố chủ quan, bao gồm các nhân tố sau đây: Thứ nhất: ý thức của chủ thể là nhân tố cấu thành nội dung khái niệm nhân tố chủ quan. Song điều đáng lưu ý ở đây, không phải toàn bộ ý thức nói chung của chủ thể là nhân tố chủ quan. ý thức của chủ thể tồn tại với tư cách là yếu tố của nhân tố khách quan là bộ phận ý thức đã trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích và là phương châm của hoạt động, nói cách khác là ý thức đã biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của hoạt động của chủ thể 35, tr. 19. Thứ hai: Nói tới nhân tố chủ quan là nói tới hoạt động có ý thức của chủ thể (con người cụ thể, của giai cấp, của chính đảng ...) để sáng tạo ra lịch sử; là nói tới những hoạt động thực tiễn của họ để giải quyết những nhiệm vụ lịch sử nhất định. Do đó, nhân tố chủ quan không chỉ thuần túy là ý thức của chủ thể mà còn bao gồm cả bản thân quá trình hoạt động đó. Nhấn mạnh vai trò của hoạt động cải tạo thế giới của con người với tư cách là chủ thể, Mác viết: "Tư tưởng căn bản không thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" 32, tr. 187. Từ những nội dung trên đây, chúng tôi cho rằng, cấu thành nhân tố chủ quan còn bao gồm cả quá trình hoạt động cải tạo thực tiễn của chủ thể đối với một khách thể xác định. Thứ ba: Sức mạnh hoạt động thực tiễn của các chủ thể lịch sử - xã hội là sự thống nhất biện chứng giữa sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh thần. Do đó, thuộc về nhân tố chủ quan còn bao gồm cả những phẩm chất, những trạng thái thuộc về năng lực thể chất của chủ thể. Tức là, khi chủ thể được xem xét là con người cụ thể thì đó là phẩm chất, thể lực. Còn khi chủ thể được xem xét với tính cách là một tổ chức, một lực lượng xã hội thì điều đó được xem xét dưới góc độ là tính tổ chức; sự phối kết hợp giữa những bộ phận cấu thành nên tổ chức hay lực lượng xã hội đó. Bởi vì, trong quá trình lịch sử, các chủ thể lịch sử được xem xét tùy theo cấp độ đó là những con người cá biệt với ý thức ý chí và khả năng hoạt động của họ...; mặt khác còn xem xét ở cấp độ đó là những lực lượng xã hội (như giai cấp, đảng phái...). Như chúng ta đều biết, bất cứ một chủ thể lịch sử - xã hội nào, cho dù ở các vị trí và địa vị xã hội khác nhau, trong hoạt động và tồn tại đều gắn liền với một điều kiện khách quan xác định cụ thể. Do vậy, trong mỗi hoạt động của chủ thể, các yếu tố hợp thành điều kiện khách quan rất phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều mặt. Như, các yếu tố, các kết cấu vật chất tồn tại dưới dạng có sẵn trong tự nhiên; các yếu tố vật chất tồn tại dưới dạng xã hội. Những yếu tố có tính vật chất, cùng với các yếu tố tinh thần như tư tưởng, tâm lý, tập quán ... đang tồn tại hiện thực trong xã hội hợp thành một hoàn cảnh để chủ thể tồn tại và hoạt động - đó cũng là điều kiện khách quan. Trong nghiên cứu, khi đề cập tới khái niệm điều kiện khách quan các nhà nghiên cứu cũng đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau và cũng đã đưa ra những quan niệm về cơ bản thống nhất với nhau về khái niệm đó, chẳng hạn: - Những điều kiện khách quan là tất cả những gì tạo nên một hoàn cảnh hiện thực quy định và tác động lên mọi hoạt động của chủ thể, tồn tại không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể hoạt động 4, tr. 19. - Điều kiện khách quan là tổng thể các mặt, các nhân tố tạo nên một hoàn cảnh hiện thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể và tác động vào hoạt động của chủ thể trong hoàn cảnh cụ thể đó 35, tr. 12. - Điều kiện khách quan là những yếu tố tạo nên một hoàn cảnh hiện thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể đang hoạt động ở những thời điểm cụ thể nhất định và có tham gia vào việc quy định kết quả hoạt động của chủ thể 36, tr. 16. Kế thừa những quan niệm đó, chúng tôi hiểu: Điều kiện khách quan là tổng thể các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ tồn tại ở bên ngoài chủ thể, độc lập với chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực, thường xuyên tác động, quy định hoạt động của chủ thể trong mỗi hoạt động xác định. Từ khái niệm điều kiện khách quan như chúng tôi đã nêu trên cho thấy: Điều kiện khách quan đó là hoàn cảnh chủ thể tồn tại và hoạt động, nó quyết định hoạt động của chủ thể. Bởi vì "Bất kỳ một hoạt động nào của chủ thể cũng có thể được thực hiện khi có những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó đóng vai những tiền đề của hoạt động" 61, tr. 71-72. Xét về các yếu tố cấu thành điều kiện khách quan, trước hết phải nói đến những điều kiện vật chất tạo nên một hoàn cảnh hiện thực, độc lập với chủ thể xác định và quy định hoạt động của chủ thể đó. Nếu như các điều kiện vật chất bao giờ cũng là những điều kiện khách quan xét trong mối tương quan chung với ý thức, song điều kiện khách quan được xác định cụ thể lại không phải chỉ là những điều kiện vật chất mà còn bao gồm cả những yếu tố thuộc lĩnh vực ý thức, tư tưởng. Những hiện tượng tinh thần, ý thức tồn tại khách quan đối với một chủ thể cụ thể, ảnh hưởng đến hoạt động của chủ thể, đó cũng là yếu tố cấu thành điều kiện khách quan. Như vậy những yếu tố vật chất và tinh thần tư tưởng tồn tại khách quan với chủ thể cụ thể, cấu thành hoàn cảnh và tác động đến hoạt động của chủ thế đó đều là những bộ phận cấu thành điều kiện khách quan. Nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Theo quan điểm mác xít, nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó điều kiện khách quan là tính thứ nhất, nó quy định nhân tố chủ quan. Vai trò này của điều kiện khách quan được thể hiện trên các mặt sau đây: Một là: Hoạt động của chủ thể là quá trình thực hiện mục đích nhằm để thỏa mãn nhu cầu. Vai trò quy định của điều kiện khách quan đối với nhân tố chủ quan thể hiện ở chỗ, mục đích, mục tiêu chủ thể đặt ra phải xuất phát từ những điều kiện và khả năng của hiện thực. Đối với con người nói chung, đối với một chủ thể xác định nói riêng nào đó không phải là họ muốn làm gì, mà họ có thể làm gì. Do đó, chỉ những mục tiêu nào của chủ thể xuất phát từ khả năng của hiện thực, của điều kiện khách quan thì hoạt động của chủ thể mới có khả năng thành công. Khẳng định điều đó, Lênin đã từng viết: "Thật ra, mục đích của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế giới khách quan làm tiền đề" 27, tr. 201. Hai là: Điều kiện khách quan quy định hoạt động thực tiễn của chủ thể. Tức là, phương thức hoạt động thực tiễn của chủ thể nó bị quy định bởi điều kiện, hoàn cảnh khách quan. Nói về điều này, Mác viết: Nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở qua trình hình thành 33, tr. 16. Từ luận điểm của Mác cho thấy điều kiện khách quan là yếu tố chi phối và quyết định đến phương tiện và phương pháp hành động của chủ thể. Ba là: Điều kiện khách quan quy định sự phát triển của nhân tố chủ quan. Điều đó cũng có nghĩa, tùy ở điều kiện khách quan mà đòi hỏi chủ thể hoạt động cải tạo điều kiện đó phải có những phẩm chất tương ứng. Khi điều kiện khách quan đã thay đổi thì nhân tố chủ quan cũng phải thay đổi theo cho phù hợp với sự đòi hỏi của điều kiện khách quan mới. Tuy bị điều kiện khách quan quy định, nhưng nhân tố chủ quan không phải thụ động hoàn toàn, mà nó có tính tích cực; tính độc lập tương đối của nó. Vai trò tích cực và sự tác động sáng tạo trở lại của nhân tố chủ quan đối với điều kiện khách quan, đó là: Dựa trên năng lực nhận thức của mình, chủ thể xem xét, đánh giá điều kiện khách quan, từ đó chủ thể đặt ra phương hướng, phương thức để thực hiện nhiệm vụ đã đặt ra. Ngoài ra, nhân tố chủ quan, bằng hoạt động thực tiễn, chủ thể đã cải tạo điều kiện, hoàn cảnh khách quan; tạo ra những điều kiện khách quan thuận lợi cho hoạt động của mình. Thực chất vai trò nhân tố chủ quan ở đây, là sự phát hiện ra những khả năng khách quan, trên cơ sở những điều kiện, phương tiện vật chất vốn có của hoàn cảnh khách quan để biến đổi hoàn cảnh theo quy luật vận động vốn có của nó. 1.1.2. Vai trò nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội Lịch sử xã hội là lịch sử của con người, do con người. Hành động làm nên lịch sử xã hội đầu tiên của con người, đó là con người tiến hành cải tạo thế giới tự nhiên nhằm đáp ứng những nhu cầu của mình. Khẳng định điều đó, trước đây Lênin đã từng chỉ ra: "Thế giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình" [28, tr. 229]. Chính bằng hoạt động cải tạo tự nhiên, con người đã xác lập nên mối quan hệ khách quan giữa con người với con người trong việc cải tạo tự nhiên, từ đó tạo ra các quan hệ xã hội của con người và tạo thành xã hội. Do đó "xã hội với tính cách là hệ thống là tổng thể những hình thức hoạt động khác nhau của con người, các quan hệ xã hội" [61, tr.106]. Xã hội ra đời không ngừng vận động và phát triển, quá trình phát triển đó bao giờ cũng sự thống nhất biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan, giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Trong sự tác động lẫn nhau giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, điều kiện khách quan bao giờ cũng giữa vai trò quyết định. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa, nhân tố chủ quan hoàn toàn thụ động và lệ thuộc vào điều kiện khách quan mà nó có thể chuyển được các điều kiện khách quan thành nội dung hoạt động tự do sáng tạo của mình. Chính vì vậy nhân tố chủ quan có vai trò to lớn trong tiến trình phát triển của lịch sử [35, tr. 24]. Vai trò nhân tố chủ quan đối với quá trình phát triển của xã hội biểu hiện ở chỗ, bằng hoạt động có ý thức; bằng tính tích cực và tự giác của mình các chủ thể lịch sử nhận thức những điều kiện khách quan; quy luật khách quan của xã hội, từ đó điều chỉnh các điều kiện khách quan, vận dụng các quy luật khách quan theo yêu cầu và mục đích của chủ thể [57, tr. 95]. Lịch sử đã chứng minh, sự kết hợp giữa điều kiện khách quan đã chín muồi và nhân tố chủ quan được phát huy cao độ sẽ gây tác động mạnh mẽ, có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của xã hội, nhất là việc phát huy vai trò tích cực, tự giác, vai trò chủ động sáng tạo của nhân tố chủ quan. Nhấn mạnh và khẳng định điều đó, trước đây khi phân tích về điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội, V.I.Lênin đã chỉ ra nhân tố chủ quan trở thành khâu quyết định để một cuộc cách mạng xã hội nổ ra và đi đến thành công. Người đã viết: Không phải tình thế cách mạng nào cũng làm nổ ra cách mạng, mà chỉ có trong trường hợp là cùng với tất cả những thay đổi khách quan nói trên, lại còn có thêm một thay đổi chủ quan, tức là giai cấp cách mạng có khả năng phát động hành động cách mạng có tính chất quần chúng khá mạnh mẽ đập tan (hoặc lật đổ) chính phủ cũ, là chính phủ, ngay cả trong thời kỳ có những cuộc khủng hoảng, cũng sẽ không bao giờ "đổ" nếu không đẩy cho nó "ngã" [27, tr. 264]. Quan điểm trên đây của V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, để cách mạng nổ ra và đi đến thành công đòi hỏi phải có sự nỗ lực của nhân tố chủ quan. Đó là tính tự giác, sự giác ngộ về tư tưởng, ý chí, nghị lực cách mạng... của giai cấp làm cách mạng. Nếu thiếu sự biến đổi, sự nỗ lực chủ quan thì cách mạng chỉ là một khả năng mà thôi. Quá trình vận động, phát triển của xã hội luôn tuân theo những quy luật khách quan vốn có của nó. Các quy luật khách quan không thể do bất kỳ người nào sáng tạo ra. Nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện của những điều kiện khách quan nhất định. Khi các điều kiện khách quan mất đi, tiêu diệt đi, thì đồng thời các quy luật tương ứng cũng mất hiệu lực, không còn tồn tại nữa. Điều đó hoàn toàn đúng với cả tự nhiên cũng như trong thời sống xã hội. Bởi vì, tuy trong xã hội sự hình thành hay biến đổi của những điều kiện khách quan trong đời sống xã hội do hoạt động của con người tạo ra, nhưng quá trình hoạt động của con người là một quá trình khách quan. Nói cách khác, tùy theo các điều kiện khách quan hiện đang tồn tại, con người bước vào những quan hệ tất yếu, không phụ thuộc vào ý chí và ý thức của họ; những quan hệ ấy biểu hiện các quy luật khách quan của xã hội tương ứng với những điều kiện khách quan ấy. Ví dụ, trong đời sống xã hội, trong điều kiện còn tồn tại một số người này có tư liệu sản xuất, còn một số người khác thì hoàn toàn không có (hoặc có không đáng kể) và đồng thời được tự do về mặt pháp luật, thì hai loại người ấy nhấn định có quan hệ với nhau với tính cách là nhà tư bản và công nhân làm thuê. Do vậy, tất yếu quy luật giá trị thặng dư thực hiện trong những quan hệ ấy. Từ những nội dung trên đây chỉ ra, quy luật khách quan trong sự phát triển của xã hội không phải hoàn toàn bất biến, nó sẽ bị thay đổi mức độ phát huy tác dụng của nó khi điều kiện khách quan bị thay đổi. Vì vậy vai trò nhân tố chủ quan trong sự phát triển của xã hội là ở chỗ, nhân tố chủ quan biết vận dụng những điều kiện khách quan này, để xóa bỏ điều kiện khách quan khách theo những quan hệ tất yếu, vốn có trong sự phát triển của hiện thực khách quan. Từ đó làm mất hiệu lực của một quy luật khách quan nhất định làm cho quy luật khách quan mới phát huy tác dụng. Tức là căn cứ vào lợi ích của thực tiễn, chủ thể có thể đẩy mạnh, hoặc ngược lại kìm hãm tác dụng của một quy luật nào đó hay của cả một loạt quy luật. Điều đó cũng có nghĩa, trong quá trình hoạt động thực tiễn của các chủ thể lịch sử, bằng năng lực chủ quan của mình đã nẩy ra những phương pháp nhấn định về việc sử dụng, áp dụng những quy luật khách quan. Khi thay đổi những điều kiện khách quan, thì có thể hướng dẫn, thay đổi hoặc ngăn ngừa sự phát huy tác dụng của các quy luật. Sự vận động và phát triển của xã hội biểu hiện trên những nấc thang của nó, tương xứng với mỗi nấc thang phát triển là một chế độ kinh tế - xã hội. Trong mỗi chế kinh tế - xã hội cùng tồn tại và phát huy tác dụng của nhiều quy luật khách quan, trong đó vai trò phát huy tác dụng của các quy luật khách quan đối với chế độ kinh tế - xã hội đó không phải là ngang nhau. Ngoài ra, trong đời sống xã hội, quy luật xã hội bao giờ cũng tác động lẫn nhau với quy luật tự nhiên. Quy luật của tự nhiên ảnh hưởng đến xã hội thông qua tác dụng của chính quy luật xã hội. Như vậy, vai trò nhân tố chủ quan còn được thể hiện ở chỗ, dựa trên năng lực nhận thức các quy luật khách quan (tự nhiên - xã hội), các chủ thể điều chỉnh một cách tự giác sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật khách quan, làm cho các quy luật phát huy tác dụng có lợi nhất đối với chủ thể. Nhân tố chủ quan biết vận dụng sự liên hệ lẫn nhau của các quy luật có thể tăng cường tác dụng của mỗi quy luật bằng cách tạo ra những điều kiện khách quan làm cho sự thích ứng phát huy tác dụng tổng hợp của các quy luật khách quan đó. Sự vận động và phát triển của hiện thực xã hội luôn có rất nhiều khả năng xảy ra. Những khả năng khách quan cho quá trình phát triển phụ thuộc vào những điều kiện khách quan của nó, sở dĩ những điều kiện này hoặc những điều kiện khác tạo ra những khả năng nhất định chính là do sự quy định của những quy luật khách quan tồn tại trong đời sống xã hội. Nó biểu hiện mối liên hệ hợp quy luật giữa các điều kiện với những hiện tượng mà khả năng của những hiện tượng này là do các điều kiện đó tạo ra. Do vậy vai trò nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội chính là quá trình, các chủ thể lịch sử lựa chọn và hiện thực hóa các khả năng phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử; phù hợp với yêu cầu và lợi ích của mình. Muốn vậy, điều đặc biệt quan trọng là người ta phải hiểu được khả năng khách quan này nay khả năng khách quan khác đến mức như thế nào để sử dụng nó, người ta có muốn sử dụng nó không, ý chí và lòng quyết tâm thực hiện nó như thế nào v.v... Như vậy, trong việc thực hiện những khả năng phát triển của xã hội, ngoài những điều kiện khách quan, cái có ý nghĩa to lớn là vai trò nhân tố chủ quan, là yếu tố có ý thức, có mục đích khi sử dụng những điều kiện khách quan cần thiết để biến khả năng thành hiện thực. Các chủ thể lịch sử bằng những phẩm chất vốn có của mình - nhân tố chủ quan, tìm ra con đường, những biện pháp, phương tiện tối ưu hiện thực hóa khả năng, thúc đẩy nhanh quá trình lịch sử. Nhấn mạnh điều đó, trước đây cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết: Trong hoàn cảnh lịch sử nhất định bao giờ cũng có thể có nhiều khả năng tiến lên. Và sự vật tiến lên theo khả năng này hay khả năng khác còn tùy thuộc vào ý định của con người. Cũng như để đạt được mục đích nhất định, không phải chỉ có một con đường mà có thể có nhiều con đường, giống như đi đến một điểm trung tâm, người ta có thể đi từ trên xuống, hoặc từ dưới lên, từ tả qua hay từ hữu lại. Đi theo con đường nào, cái đó do con người quyết định [8, tr. 116]. Vai trò nhân tố chủ quan đối với sự phát triển của xã hội đó là, trong tiến trình hoạt động của mình, các chủ thể bảo đảm một cách tự giác và có mục đích cho các quy luật khách quan, những khả năng khách quan phát huy tác dụng và được hiện thực hóa theo một chiều hướng nhất định. Quá trình phát triển của xã hội phải xuất phát, dựa trên những điều kiện khách quan, nhưng những điều kiện khách quan chỉ thực sự trở thành nhân tố động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội khi có được sự phát huy vai trò to lớn của nhân tố chủ quan. 1.2. Vai trò nhân tố chủ quan trong việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta Từ một nền kinh tế thuần nhất về thành phần và chế độ sở hữu chuyển qua kinh tế nhiều thành phần và đa dạng sở hữu; Từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển quan cơ chế thị trường; Từ một nền kinh tế đóng cửa chuyển qua nền kinh tế mở cửa với bên ngoài - Đó là sự chuyển hướng lớn lao, một sự thay đổi sâu sắc trong xây dựng nền kinh tế ở nước ta. Nhưng toàn bộ sự chuyển hướng đó, không phải là chúng ta đã thay đổi mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và thực hiện suốt mấy thập kỷ qua. Sự thay đổi đó, chỉ là sự thay đổi về biện pháp; về bước đi để chúng ta càng có khả năng sớm đến với mục tiêu XHCN. 1.2.1. Phát triển theo hướng XHCN - một khả năng khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay Cách mạng XHCN tháng Mười năm 1917 thành công đã mở ra một thời đại mới: thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Ngày nay, tuy CNXH đang lâm vào một thời kỳ khủng hoảng, thoái trào, nhiều mô hình CNXH hiện thực đã bị đổ vỡ. Nhưng không phải vì thế mà tính chất của thời đại đã thay đổi. Khẳng định điều đó, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta cho rằng: "Loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội" [13, tr. 76]. Nền kinh tế còn nghèo so với thế giới và khu vực. Vì vậy, cũng phải thấy rằng, chúng ta lựa chọn con đường phát triển của đất nước theo con đường XHCN trong dòng chảy lịch sử tự nhiên, với những quy luật vốn có của nó, là sự lựa chọn đúng đắn, nhưng hết sức khó khăn. Biện chứng của cuộc sống đã tạo ra một thời đại mới, với những khả năng mới, để các nước lạc hậu có thể tiến lên CNXH nhưng đấy là con đường đồng nghĩa với khó khăn, phức tạp. Muốn quá độ lên CNXH, trước hết phải có lực lượng sản xuất phát triển. Đất nước ta có thể quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, đó là xu hướng và khả năng khách quan của thời kỳ lịch sử hiện nay. Nhưng chúng ta không thể bỏ qua những tiền đề kinh tế, kỹ thuật, văn hóa, xã hội cần thiết cho sự quá độ đó. Cái thiếu hụt lớn của nước ta là lực lượng sản xuất chưa phát triển. Với trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát triển không đồng đều chúng ta không thể thiết lập tràn lan quan hệ sản xuất XHCN. Vì vậy đà phát triển lực lượng sản xuất, tạo tiền đề vật chất và thuận lợi cho CNXH chúng ta phải thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần. Chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mới phù hợp với thực trạng trình độ thực tế của lực lượng sản xuất ở nước ta; chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chúng ta mới có khả năng huy động được mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật; mới có khả năng tạo thêm công ăn việc làm và phát huy nguồn lao động dồi dào ở nước ta để đẩy nhanh sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế [37, tr.35]. Như vậy, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần là nhu cầu khách quan và phù hợp với quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN đối với nước ta. Đó là con đường để tạo ra tiền đề kinh tế kỹ thuật cần thiết cho sự quá độ lên CNXH. Vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay là, nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường liệu có thể phát triển theo định hướng XHCN được hay không? Đây không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề thực tiễn nóng bỏng. Thực tiễn hàng ngày, hàng giờ đang đòi hỏi chúng ta phải lý giải và khẳng định được trên thực tế xu hướng phát triển đó. Nghiên cứu những điều kiện khách quan (trong và ngoài nước), cho đến nay chúng ta có căn cứ khẳng định rằng định hướng XHCN nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là một xu hướng khách quan, một khả năng khách quan có đầy triển vọng. Trước hết những điều kiện khách quan quốc tế: Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nó đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, với đặc điểm cơ bản so với thời kỳ trước đây đó là trí tuệ đóng vai trò là trung tâm. Các thành tựu, các phát minh khoa học đã nhanh chóng được ứng dụng vào quá trình sản xuất; vào quá trình đổi mới công nghệ. Do vậy, khoa học đã mở ra khả năng to lớn cho phép con người, các quốc gia dân tộc, bằng ứng dụng những quy trình công nghệ hiện đại, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nâng trình độ phát triển quá trình sản xuất của xã hội lên một trình độ mới về chất. Bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của nền sản xuất xã hội thể hiện ở chỗ, nó đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới bước vào một thời kỳ phát triển cao chưa từng có, sự phát triển đó được thực hiện trên tất cả các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Trong đó, nhất là yếu tố người lao động. Đội ngũ người lao động ngày nay đòi hỏi phải có hàm lượng trí tuệ cao; có chuyên môn cơ bản. Sự chuyển hóa về chất của lực lượng sản xuất kéo theo nó hàng loạt các chuyển biến khác về lao động sản xuất của con người ngay cả trong sản xuất cũng như khâu tổ chức và quản lý nền sản xuất. Từ đó, tạo ra những phương hướng, cách thức mới cho mọi quốc gia trong việc lựa chọn con đường phát triển kinh tế của mình, nhất là việc lựa chọn cách thức khai thác các nguồn lực cho phát triển kinh tế. Trong đó nguồn lực người lao động được xác định là một trong các nguồn lực quan trọng. Có thể nói, với tốc độ phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, do đó mở ra một thời cơ lớn cho các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) có thể sử dụng; lợi dụng nó nhằm để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Vì, nếu biết tận dụng đúng đắn những thành tựu của khoa học - công nghệ thì chỉ trong khoảng thời gian ngắn có thể chuyển từ nước lạc hậu trở thành nước công nghiệp phát triển, và như vậy rút ngắn được khoảng cách so với các nước phát triển. Chính những thành quả của cách mạng khoa học - công nghệ mang lại và sự tác động của nó đã thúc đẩy quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới. Xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các quốc gia, dân tộc trở nên tất yếu khách quan. Bởi vậy, ngay ở các nước tư bản phát triển, giai cấp tư sản đã có những bước điều chỉnh lớn về
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan