Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận phú nhuận, thành phố ...

Tài liệu Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận phú nhuận, thành phố hồ chí minh

.PDF
80
53
61

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU .....................................................................................7 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu ..........................................................................................................................7 1.2. Các đặc điểm của nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu .......................12 1.3. Các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu .............................................................................................................................19 Chương 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH........................................................................................................................29 2.1. Khái quát tình hình tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................................................29 2.2. Cơ cấu của tình hình tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận ........31 2.3. Thực trạng các đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận .................................................................................................33 2.4. Thực trạng những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận ......................................................43 Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN PHÚ NHUẬN TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI ...................................................................................57 3.1. Dự báo tình hình tội xâm phạm sở hữu và đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận ......................................................57 3.2. Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận từ khía cạnh nhân thân ngƣời phạm tội .........................................................60 KẾT LUẬN ..............................................................................................................72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng HSST : Hình sự sơ thẩm TAND : Tòa án nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh XPSH : Xâm phạm sở hữu DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Thống kê so sánh tình hình các tội XPSH với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn quận Phú Nhuận giai đoạn 2013-2017 Bảng 2.2. Thống kê so sánh tình hình các tội XPSH trên địa bàn quận Phú Nhuận với địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2013-2017 Bảng 2.3. Cơ cấu theo tội danh của tình hình tội XPSH trên địa bàn quận Phú Nhuận, giai đoạn 2013-2017 Bảng 2.4. Thực trạng theo giới tính của nhân thân người phạm tội XPSH trên địa bàn quận Phú Nhuận giai đoạn 2013-2017 Bảng 2.5. Thực trạng theo độ tuổi của nhân thân người phạm tội XPSH trên địa bàn quận Phú Nhuận giai đoạn 2013-2017 Bảng 2.6. Thực trạng về trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội XPSH trên địa bàn quận Phú Nhuận 2013-2017 Bảng 2.7. Thực trạng về nghề nghiệp của nhân thân người phạm tội XPSH trên địa bàn quận Phú Nhuận 2013-2017 Bảng 2.8. Thực trạng về nơi cư trú của nhân thân người phạm tội XPSH trên địa bàn quận Phú Nhuận 2013-2017 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quận Phú Nhuận đƣợc thành lập theo Nghị quyết ngày 09/5/1975 của Ban chấp hành Đảng bộ Đảng lao động Việt Nam thành phố Sài Gòn - Gia Định. Xã Phú Nhuận cũ đƣợc tách ra khỏi quận Tân Bình để thành lập quận Phú Nhuận trực thuộc thành phố Sài Gòn - Gia Định. Ngày 02/7/1976, Quốc hội nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên Thành phố Sài GònGia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận Phú Nhuận trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Quận Phú Nhuận là một quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh. Phía Đông giáp với quận Bình Thạnh, phía Tây giáp với quận Tân Bình, phía Nam giáp với Quận 1 và Quận 3, phía Bắc giáp với quận Gò Vấp. Toàn quận có 15 phƣờng trực thuộc: từ phƣờng 1 đến phƣờng 17 (ngoại trừ không có phƣờng 6 và 16). Diện tích toàn quận khoảng 4,88 km2, với dân số khoảng 182.477 nhân khẩu, bao gồm nhiều dân tộc khác nhau nhƣng chủ yếu là dân tộc Kinh, Hoa, Khơ me… Tôn giáo có Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Cao đài…. Quận Phú Nhuận nằm ở hƣớng Tây Bắc của thành phố, là nơi có vị trí giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt quan trọng. Đƣờng Nguyễn Văn Trỗi và đƣờng Hoàng Văn Thụ là những trục đƣờng chính, là cửa ngõ ra vào sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Vì là quận trung tâm, nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù diện tích nhỏ nhƣng mật độ dân số rất cao (37.393 ngƣời/km2), cƣ dân tập trung làm ăn sinh sống ở đây nhiều. Cơ cấu kinh tế của quận Phú Nhuận phát triển theo xu hƣớng dịch vụ thƣơng mại, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Các loại hình dịch vụ cao cấp nhƣ tài chính, tín dụng, dịch vụ du lịch… phát triển mạnh. Hầu hết, đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời dân trên địa bàn quận ngày càng đƣợc nâng cao. Bên cạnh những yếu tố tích cực, những thành tựu đạt đƣợc thì mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng cũng gây khó khăn trong công tác quản lý nhà nƣớc về an ninh trật tự, tình hình tội phạm trên địa bàn dân cƣ diễn biến hết sức phức tạp nhƣ: trộm cắp tài sản, cƣớp giật tài sản… vẫn còn xảy ra nhiều, tính chất và mức độ ngày càng nguy 1 hiểm, phƣơng thức thủ đoạn tinh vi. Hậu quả mà tội phạm gây ra đã ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, đến cuộc sống bình yên của quần chúng nhân dân, đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn quận. Trong 05 năm qua (2013-2017) trên địa bàn quận Phú Nhuận, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) đã khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử 585 vụ án với 854 bị cáo. Trong đó, các tội phạm về xâm phạm sở hữu có 353 vụ chiếm tỷ lệ lớn (60,34% trong tổng số tội phạm trên địa bàn quận) với 455 bị cáo (chiếm 53,28%). Hằng năm, các tội xâm phạm sở hữu vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các vụ án, các bị cáo mà Tòa án đƣa ra xét xử. Để cụ thể hóa các chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, những quy định của pháp luật, các chiến lƣợc, kế hoạch của Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm, trong thời gian qua các cấp chính quyền ở quận Phú Nhuận đã tích cực, chủ động triển khai thực hiện nhiều giải pháp để đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tình hình tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Tuy nhiên, các giải pháp này vẫn chƣa đạt hiệu quả cao nhƣ mong muốn. Tình hình tội xâm phạm sở hữu vẫn có diễn biến phức tạp, các đối tƣợng thực hiện hành vi phạm tội ngày càng thể hiện sự manh động, táo bạo, liều lĩnh. Để công tác phòng ngừa tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận đạt hiệu quả cao nhất, thì một trong những vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng đó là nghiên cứu chuyên sâu về nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu. Bởi lẽ, việc nghiên cứu này có vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội, lý giải đƣợc các nguyên nhân làm phát sinh tội phạm, các yếu tố tác động hình thành nhân thân ngƣời phạm tội, trên cơ sở đó giúp cho việc đề ra các giải pháp phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận đạt hiệu quả, khoa học và có tính thực thi cao. Xuất phát từ lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu đƣợc thực hiện liên quan đến nhân thân ngƣời phạm tội đã công bố, tiêu biểu nhƣ: 2 - Luận án Tiến sĩ Luật học: Nhân thân người phạm tội trong trong luật hình sự Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thủy, năm 2005; - Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Kiên Giang của Hồ Thanh Lam (2016), Học viện khoa học xã hội; - Luận văn thạc sĩ Luật học: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn quận Bình Tân của Lê Thành Công (2016), Học viện khoa học xã hội. - Luận văn Thạc sĩ luật học: "Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” của Lƣu Thị Hằng (2017), Học viện Khoa học xã hội; - Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước của Nguyễn Thanh Tuấn (2017), Học viện khoa học xã hội; - Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh của Lê Ngô Phƣơng Thanh (2017), Học viện khoa học xã hội; - Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh của Phan Thị Phƣơng Thảo (2017), Học viện khoa học xã hội; - Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh của Lê Đình Toàn (2017), Học viện khoa học xã hội; Ngoài ra còn có các bài viết đƣợc đăng trên các tạp chí nhƣ: Tạp chí Nghề luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, Tạp chí Tòa án… có nội dung liên quan đến nhân thân ngƣời phạm tội trong tội phạm học. Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nhân thân ngƣời phạm tội, bao gồm khái niệm nhân thân ngƣời phạm tội, phân biệt khái niệm nhân thân ngƣời phạm tội với một số khái niệm khác có liên quan, các đặc điểm của nhân thân ngƣời phạm tội, vai trò của nhân thân ngƣời phạm tội trong cơ chế hành vi phạm. Trong đó, có những luận văn đã làm rõ các đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội trên một số địa bàn nhƣ địa bàn quận Bình Tân, Quận 7, 3 Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Kiên Giang, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu… Tuy nhiên, chƣa có đề tài nào nghiên cứu về nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, đề tài Nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh” mà tác giả đã chọn làm luận văn không trùng với bất kỳ công trình khoa học nào đã đƣợc công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu các đặc điểm nhân thân của ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận, làm sáng tỏ các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân ở ngƣời phạm tội, luận văn hƣớng đến mục đích đƣa ra các giải pháp phòng ngừa đối với các tội xâm phạm sở hữu trong thời gian tới ở địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện đƣợc mục đích nêu trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất: Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu; Thứ hai: Phân tích làm rõ thực trạng nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2013 2017; Thứ ba: Dự báo và đề xuất các giải pháp phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu từ khía cạnh nhân thân ngƣời phạm tội trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu dƣới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. - Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. - Phạm vi về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2017. Để nghiên cứu về nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận, tác giả dựa trên các số liệu thống kê xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận giai đoạn 2013 - 2017, cũng nhƣ trên cơ sở kết quả nghiên cứu 120 bản án xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận giai đoạn 2013 - 2017 đƣợc thu thập đầy đủ. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Để hoàn thành việc nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu đặc thù của tội phạm học, cụ thể nhƣ: - Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả sƣu tầm, hệ thống các văn bản pháp lý, các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu. Trên cơ sở đó phân tích làm rõ các vấn đề lý luận về nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu. - Phƣơng pháp thống kê hình sự: Qua việc thu thập các tài liệu, số liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, tác giả xây dựng các bảng theo các tiêu chí và điền, sắp xếp các số liệu một cách khoa học phục vụ việc phân tích, so sánh, tổng hợp rút ra từ các nhận xét, đánh giá, các vấn đề có tính quy luật nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận. - Phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: Thông qua nghiên cứu các hồ sơ, tài liệu, số liệu, tác giả phân tích, so sánh, tổng hợp tìm các quy luật, các hạn 5 chế, khó khăn... đƣa ra các dự báo để làm cơ sở đề xuất các giải pháp phòng ngừa tình hình tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nuận từ khía cạnh nhân thân ngƣời phạm tội. - Phƣơng pháp nghiên cứu điển hình: Tác giả phân tích một số vụ án xâm phạm sở hữu điển hình, từ đó đƣa ra những đánh giá chính xác và giải pháp phòng ngừa thiết thực đối với tình hình tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận từ khía cạnh nhân thân ngƣời phạm tội. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1.Ý nghĩa lý luận Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Những biện pháp phòng ngừa đƣa ra trong đề tài rút ra đƣợc từ đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu có thể đƣợc sử dụng trong thực tiễn công tác phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng và tội phạm nói chung trên địa bàn quận Phú Nhuận trong thời gian tới. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập nghiên cứu tội phạm học và các vấn đề liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của luận văn có kết cấu gồm 3 chƣơng. Cụ thể nhƣ sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu. Chương 2: Thực trạng nhân thân ngƣời phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Dự báo và giải pháp phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân ngƣời phạm tội. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu 1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu Nhân thân là một khái niệm đặc thù, chỉ sử dụng khi nói về bản chất của con ngƣời. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin thì nhân thân con ngƣời chính là một phạm trù xã hội lịch sử, nó là sản phẩm của một thời đại nhất định, đƣợc quy định bởi các điều kiện lịch sử cụ thể của hiện thực xã hội. Mỗi một thời đại khác nhau sản sinh ra những mẫu ngƣời không giống nhau, song dù ở thời đại nào thì bản chất của con ngƣời luôn luôn là tổng hòa những mối quan hệ xã hội [11, tr. 101]. Trong bất kỳ xã hội nào con ngƣời không bao giờ sống riêng lẻ, tách mình ra khỏi xã hội mà luôn quan hệ với nhau trong quá trình lao động sản xuất cũng nhƣ trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Tất cả các đặc điểm tâm, sinh lý cùng những biểu hiện trong các quan hệ xã hội của con ngƣời, thể hiện bản chất đặc trƣng của một con ngƣời sẽ hợp thành nhân thân của con ngƣời đó. Nhân thân con ngƣời là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con ngƣời tham gia vào tất cả các mối quan hệ xã hội. Đó là các đặc điểm, dấu hiệu sinh học, nhân khẩu học, các đặc điểm về xã hội học, đạo đức, tâm lý. Nói đến nhân thân là nói đến con ngƣời với tính cách là một thành viên của xã hội, một thực thể xã hội cũng nhƣ một con ngƣời tham gia vào những quan hệ xã hội. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, “Con người là một sản phẩm của tự nhiên và xã hội, là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội”. Con ngƣời do tự nhiên sinh ra nên trƣớc hết nó mang các đặc tính tự nhiên, đặc tính sinh vật học. Đặc điểm sinh học trong con ngƣời quy định sự hình thành những hiện tƣợng và quá trình tâm lý của họ. Bất kỳ ngƣời nào cũng có những nhu cầu mang tính sinh học, mang bản tính xã hội. Sự thống nhất của hai đặc tính này hình thành nên nhân thân con ngƣời, trong đó đặc tính xã hội giữ vai trò quyết định. Nói cách 7 khác, một con ngƣời cụ thể đƣợc thể hiện thông qua tất cả những đặc điểm của cá nhân thuộc ba nhóm: sinh học, tâm lý và xã hội tạo nên bản chất con ngƣời. Do vậy, có thể khẳng định, tổng hợp tất cả những đặc điểm cơ bản cho phép xác định bản chất xã hội của một con ngƣời cụ thể đƣợc gọi là nhân thân của con ngƣời đó [45, tr.95]. Ngƣời phạm tội đƣợc hiểu là ngƣời thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm [38, tr.149]. Tội phạm bao giờ cũng đƣợc thực hiện bởi một con ngƣời cụ thể. Đặc trƣng của ngƣời phạm tội là thực hiện hành vi mang tính nguy hiểm cho xã hội. Nhân thân ngƣời phạm tội sẽ có những khác biệt, những đặc điểm riêng mà ngƣời không phạm tội không có. Những đặc điểm nhân thân của con ngƣời đƣợc hình thành và phát triển trong xã hội theo cả hai hƣớng: tốt và xấu. Chính do sự tồn tại đồng thời của hai hƣớng này mà có ngƣời trở thành ngƣời phạm tội còn ngƣời khác thì không. Những đặc điểm thuộc về nhân thân con ngƣời - sinh học, tâm lý, xã hội - nếu gặp những điều kiện, hoàn cảnh không thuận lợi của quá trình hình thành nhân cách sẽ trở thành những đặc điểm nhân thân xấu, những đặc điểm nhân thân xấu này khi gặp những tình huống bên ngoài thuận lợi sẽ dễ làm phát sinh hành vi phạm tội [23, tr.10]. Một số quan điểm của các nhà khoa học luật gia nƣớc ta đƣa ra khái niệm về nhân thân ngƣời phạm tội, cụ thể nhƣ sau: - Theo GS. TS Võ Khánh Vinh: “Nhân thân người phạm tội tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự quy định là tội phạm được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó”. - Theo GS. TS Đỗ Ngọc Quang: “Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, những dấu hiệu, mối quan hệ xã hội về một con người chứa đựng phẩm chất cá nhân tiêu cực trong nhân cách dẫn đến hành vi phạm tội”. - Theo TS Lý Văn Quyền: “Nhân thân người phạm tội được hiểu là nhân thân người có lỗi trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm đoán và trừng phạt”. 8 - Theo TS Nguyễn Mạnh Kháng: “Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc tính, các dấu hiệu thể hiện bản chất của con người mà trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định và dưới tác động của chính các điều kiện, hoàn cảnh đó động cơ phạm tội nảy sinh”. - Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa: “Nhân thân người phạm tội trong Luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa trong việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ”. - Theo PGS.TS Kiều Đình Thụ: “Nhân thân người phạm tội là tổng hợp tất cả những khía cạnh xã hội đặc trưng của người phạm tội tạo thành cá nhân, có ý nghĩa giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự”. Trên cơ sở khái niệm nhân thân ngƣời phạm tội của một số nhà khoa học, có thể đƣa ra khái niệm chung về nhân thân ngƣời phạm tội: là tổng hợp những đặc điểm sinh học, tâm lý và xã hội của ngƣời phạm tội, các đặc điểm này kết hợp với các điều kiện hoàn cảnh khách quan bên ngoài dẫn con ngƣời đó đến việc thực hiện hành vi phạm tội [38, tr.150]. Trên cơ sở khái niệm nhân thân ngƣời phạm tội, có thể đƣa ra khái niệm nhân thân ngƣời phạm tội XPSH nhƣ sau: Nhân thân người phạm tội XPSH là tổng hợp những đặc điểm sinh học, tâm lý và xã hội của người phạm tội XPSH, những đặc điểm này kết hợp với điều kiện hoàn cảnh khách quan bên ngoài dẫn con người đó đến việc thực hiện hành vi phạm tội XPSH được quy định tại chương XVI của BLHS 2015. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu Ở mức độ khái quát của Tội phạm học, không phải ngẫu nhiên mà nhân thân của ngƣời phạm tội trở thành khách thể nghiên cứu có tầm quan trọng. Nghiên cứu về nhân thân ngƣời phạm tội có ý nghĩa to lớn cho công cuộc phòng ngừa tội phạm trong xã hội. Trong phạm vi luận văn này, tác giả sẽ đề cập đến ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội XPSH nhƣ sau: Thứ nhất, nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội XPSH tạo cơ sở cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tội phạm. 9 Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm đƣợc hiểu là mối quan hệ tƣơng tác giữa những nhân tố chủ quan của con ngƣời (đặc điểm tâm, sinh lý, thói quen, tính cách…) với các yếu tố thuộc môi trƣờng bên ngoài làm phát sinh tội phạm XPSH. Những yếu tố thuộc mặt chủ quan là những sai lệch về nhu cầu, nhất là cách thức để thỏa mãn nhu cầu sẽ là động cơ thúc đẩy việc thực hiện hành vi phạm tội. Yếu tố chủ quan cũng có thể là do ý thức pháp luật kém, không tôn trọng pháp luật, không thừa nhận giá trị xã hội đích thực của pháp luật. Mặt khách quan bên ngoài là những tình huống, hoàn cảnh bên ngoài thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm, có thể là hoàn cảnh kéo dài hay một sự kiện có tính nhất thời. Các nguyên nhân và điều kiện trong sự tác động lẫn nhau đã tham gia vào quá trình hình thành đặc điểm tâm lý, đạo đức của cá nhân, quyết định động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm. Không phải con ngƣời nào sinh ra cũng thực hiện tội phạm, hay nói cách khác là trở thành ngƣời phạm tội. Mà do những nguyên nhân, điều kiện khác nhau tác động dẫn đến con ngƣời trở thành ngƣời phạm tội. Chính vì vậy, nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội sẽ cho thấy rõ những điều kiện, hoàn cảnh tiêu cực từ môi trƣờng tác động thế nào đến sự hình thành nhân cách, đạo đức, đến quá trình động cơ hóa hành vi phạm tội. Nói cách khác, nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội sẽ cho phép xác định đƣợc nguyên nhân phát sinh tội phạm. Thứ hai, nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội XPSH có ý nghĩa rất lớn trong việc định tội, định khung và quyết định hình phạt một cách chính xác, thuyết phục. Qua việc nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội, chúng ta đánh giá đƣợc tính chất nguy hiểm cho xã hội của ngƣời phạm tội, khả năng giáo dục, cải tạo của ngƣời phạm tội để có thể đƣa ra hình phạt tƣơng ứng. Mặc dù nhân thân ngƣời phạm tội XPSH không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm nhƣng trong quá trình xác định trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập, nghiên cứu đầy đủ và chính xác những đặc điểm riêng biệt này để giúp cho việc định tội, định khung và quyết định hình phạt đúng quy định pháp luật, không bỏ lọt 10 tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội. Bộ luật tố tụng hình sự quy định khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, bắt buộc các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) phải chứng minh làm rõ đƣợc những đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo. Các đặc điểm về nhân thân bị can, bị cáo phải đƣợc thu thập, phản ánh trong hồ sơ điều tra, bản cáo trạng, bản án và các giấy tờ kèm theo hồ sơ vụ án [23, tr.16]. Khoản 1 Điều 50 của BLHS 2015 cũng quy định nhân thân ngƣời phạm tội là một trong các yếu tố buộc phải cân nhắc khi Tòa án quyết định hình phạt, nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố và xét xử đúng ngƣời, đúng tội và đúng pháp luật, đảm bảo mục đích phòng ngừa của hình phạt đƣợc áp dụng. Thứ ba, nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội XPSH có ý nghĩa quan trọng trong dự báo và phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội XPSH nói riêng. Qua nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội XPSH, giúp nhận thức đƣợc các yếu tố nhân thân đặc trƣng, mang tính chất quyết định, ảnh hƣởng đến việc phạm tội của các đối tƣợng, nhận thức đƣợc căn nguyên dẫn đến việc hình thành các yếu tố nhân thân này, kết hợp với xu hƣớng phát triển kinh tế, xã hội của địa bàn, từ đó đƣa ra dự báo về tình hình loại tội phạm trong thời gian tới. Trên cơ sở dự báo đó, đề xuất các biện pháp phòng ngừa đối với các tội XPSH có độ chính xác cao và kịp thời, khắc phục hoặc hạn chế những điều kiện có thể dẫn đến việc phát sinh các tội XPSH. Thứ tư, nghiên cứu nhân thân ngƣời phạm tội XPSH có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các biện pháp giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội XPSH một cách hiệu quả. Pháp luật hình sự Việt Nam luôn đề cao tính nhân đạo. Nhân đạo là một nguyên tắc đặc trƣng đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự. Hình phạt cũng nhƣ các biện pháp tác động khác chỉ đƣợc áp dụng đến mức độ cần cho sự cải tạo và giáo dục chứ không nhằm mục đích nào khác [41, tr.153]. Để đảm bảo nguyên tắc này thì việc nghiên cứu đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội nói chung cũng nhƣ nhân thân ngƣời phạm tội XPSH nói riêng có vai trò rất quan trọng trong việc lựa chọn các hình thức, phƣơng pháp giáo dục, cải tạo, quản lý ngƣời phạm tội XPSH phù hợp và mang lại hiệu quả cao nhất nhằm giảm bớt hoặc loại trừ các đặc điểm nhân thân xấu, là yếu tố quan trọng làm phát sinh tội phạm. Đồng thời, góp phần hình 11 thành các đặc điểm nhân thân tốt, cải tạo, giáo dục họ thành công dân có ích cho xã hội. Việc giáo dục cải tạo tốt cũng giúp quá trình tái hòa nhập cộng đồng của ngƣời phạm tội trở nên dễ dàng hơn, trở nên có ích cho xã hội và cho chính bản thân ngƣời phạm tội. 1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu Nhân thân ngƣời phạm tội là tổng thể các yếu tố, các đặc điểm, dấu hiệu riêng biệt thể hiện bản chất xã hội của ngƣời phạm tội. Mỗi đặc điểm, dấu hiệu lại có hình thức biểu hiện khác nhau nhƣng có mối quan hệ qua lại, gắn bó, tác động lẫn nhau. Nhân thân ngƣời phạm tội nói chung có những đặc điểm đặc thù trong sự phân biệt với ngƣời không phạm tội. Riêng đối với nhân thân ngƣời phạm tội XPSH lại có những đặc điểm riêng không chỉ để phân biệt với ngƣời không phạm tội mà còn phân biệt với các loại tội phạm khác đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự. 1.2.1. Các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu Nghiên cứu các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu của nhân thân ngƣời phạm tội XPSH nghĩa là nghiên cứu các đặc trƣng về độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, nơi cƣ trú… của ngƣời phạm tội. 1.2.1.1. Đặc điểm về độ tuổi Nghiên cứu về đặc điểm độ tuổi của ngƣời phạm tội cho chúng ta biết về mức độ tích cực phạm tội” và các đặc điểm về hành vi chống đối xã hội của những ngƣời thuộc những lứa tuổi khác nhau, về đặc điểm của thành phần lứa tuổi của những nhóm ngƣời tội phạm khác nhau. Điều đó cũng rất cần thiết cho việc kế hoạch hóa và tác động phòng ngừa tình hình tội phạm [50, tr.133]. Độ tuổi là một đặc điểm có mối quan hệ hữu cơ với việc phát triển và hình thành nhân cách trong đặc điểm nhân thân của ngƣời phạm tội. Nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi trong nhân thân ngƣời phạm tội XPSH sẽ giúp chúng ta xác định đƣợc lứa tuổi nào phạm tội XPSH nhiều nhất, lứa tuổi nào phạm tội ít nhất. Từ đó, đƣa ra biện pháp phòng ngừa cho phù hợp. Độ tuổi có ảnh hƣởng đáng kể đến việc thực hiện hành vi phạm tội bởi vì nó liên quan đến nhận thức và lý trí của con ngƣời. Trong nghiên cứu tội phạm học, có nhiều cách chia độ tuổi. Tuy nhiên, cách phổ 12 biến nhất mà trong luận văn sử dụng là chia ngƣời phạm tội XPSH thành 04 nhóm: nhóm dƣới 18 tuổi (ngƣời chƣa thành niên); nhóm từ đủ 18 đến dƣới 30 tuổi; nhóm từ đủ 30 đến dƣới 45 tuổi và nhóm từ đủ 45 tuổi trở lên. Nhóm tội XPSH là nhóm tội mà ngƣời phạm tội rất đa dạng về độ tuổi và mỗi độ tuổi có những đặc điểm đặc trƣng về sự phát triển thể chất, tinh thần, tâm sinh lý, hiểu biết xã hội… Tóm lại, nghiên cứu về độ tuổi của ngƣời phạm tội XPSH sẽ giúp cho việc xây dựng các giải pháp phòng ngừa tội phạm XPSH có hiệu quả hơn. 1.2.1.2. Đặc điểm về giới tính Khi nghiên cứu đặc điểm giới tính của ngƣời phạm tội, tội phạm học tập trung xác định hai vấn đề: tỷ lệ phạm tội của nam giới và nữ giới thực hiện và đặc trƣng của giới tính có ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến cơ chế hành vi phạm tội. Nghiên cứu đặc điểm giới tính của ngƣời phạm tội XPSH giúp chúng ta xác định đƣợc ngƣời thực hiện hành vi phạm tội là nam hay nữ, qua đó cho thấy tình hình các tội XPSH theo từng giới. Nghiên cứu số liệu về cơ cấu giới tính của ngƣời phạm tội cho thấy rằng nam giới chiếm số lƣợng tuyệt đối lớn trong tổng số những ngƣời phạm tội. Đối với một số tội XPSH phần lớn do nam giới thực hiện, nhƣ: tội cƣớp tài sản, tội cƣớp giật tài sản, trộm cắp tài sản… Nam giới có một số đặc điểm tâm sinh lý là dễ bị tác động, ảnh hƣởng của môi trƣờng và điều kiện sống, dễ bị tiêm nhiễm những thói hƣ tật xấu, liều lĩnh hơn so với nữ giới. Những đặc điểm đó có liên quan với các điều kiện giáo dục, với các đặc điểm về chuẩn mực hành vi và hoạt động sống, với tính chất của các quan hệ lao động, gia đình, lối sống và những quan hệ khác của nam giới và nữ giới [50, tr.132]. Việc xác định đƣợc ảnh hƣởng của giới tính sẽ có nhiều ý nghĩa trong đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm XPSH trong thời gian tới. 1.2.1.3. Đặc điểm về trình độ học vấn Trình độ học vấn là một yếu tố chi phối rất lớn đến quá trình hình thành nhân cách của cá nhân khi cá nhân đó tham gia vào quan hệ xã hội, ảnh hƣởng đến khả năng ứng xử của con ngƣời trong các mối quan hệ xã hội nói chung và hành vi phạm tội nói riêng. Mức độ ảnh hƣởng của trình độ học vấn đối với từng loại tội, 13 từng nhóm tội cũng khác nhau. Có những nhóm tội đòi hỏi phải có trình độ học vấn nhất định mới thực hiện đƣợc hành vi phạm tội, chẳng hạn nhƣ nhóm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông, nhóm tội phạm tham nhũng… Đối với nhóm tội XPSH, ngƣời phạm tội không cần phải có trình độ học vấn cao mới có thể thực hiện đƣợc hành vi phạm tội. Nghiên cứu về nhân thân ngƣời phạm tội XPSH cho thấy: Đa số những ngƣời phạm tội XPSH thƣờng có trình độ văn hóa thấp, ứng với mỗi tội XPSH khác nhau thì ngƣời phạm tội cũng có trình độ học vấn khác nhau. Từ đó, dẫn đến nhận thức chƣa đúng hoặc chƣa đủ về các quy tắc đạo đức, các quy tắc xã hội và ảnh hƣởng tới tâm lý, lối sống của họ. Căn cứ vào trình độ học vấn, ngƣời phạm tội XPSH có thể đƣợc chia thành 05 nhóm: ngƣời không biết chữ hoặc có trình độ tiểu học; ngƣời có trình độ trung học cơ sở; ngƣời có trình độ trung học phổ thông; ngƣời có trình độ trung cấp, cao đẳng và ngƣời có trình độ đại học trở lên. 1.2.1.4. Đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp Nghiên cứu các đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp của ngƣời thực hiện hành vi phạm tội cho chúng ta biết đƣợc ở những điều kiện và trình độ nào tội phạm đƣợc thực hiện. Một ngƣời có nghề nghiệp ổn định, tạo ra thu nhập ổn định thì sẽ thỏa mãn đƣợc phần lớn các nhu cầu thiết yếu của bản thân, do đó ít hình thành đặc điểm nhân thân tiêu cực. Thực tiễn nghiên cứu tội phạm học trong thời gian qua cho thấy: Phần lớn ngƣời phạm tội XPSH là những ngƣời không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định. Đặc điểm địa vị xã hội và nghề nghiệp cũng có mối quan hệ mật thiết với việc hình thành và phát triển nhân cách con ngƣời. Qua nghiên cứu địa vị xã hội và nghiệp sẽ cho biết đƣợc nhóm ngƣời làm việc ở những ngành, lĩnh vực nào trong xã hội dễ thực hiện tội phạm và loại tội phạm họ thực hiện [48, tr.145]. Mức độ ảnh hƣởng của hai đặc điểm địa vị xã hội và nghề nghiệp đối với việc thực hiện tội XPSH cũng có sự khác nhau: địa vị xã hội có ảnh hƣởng đến hành vi phạm tội nhƣng mức độ không nhiều, trong khi đó đặc điểm nghề nghiệp lại có ảnh hƣởng khá lớn. Dựa vào đặc điểm địa vị xã hội, có thể chia ngƣời phạm tội XPSH thành 14 các nhóm: công nhân, nông dân, học sinh, viên chức… Dựa vào đặc điểm nghề nghiệp, có thể chia thành 03 nhóm: ngƣời không nghề nghiệp; ngƣời có nghề nghiệp nhƣng không ổn định và ngƣời có nghề nghiệp ổn định. 1.2.1.5. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình là môi trƣờng đầu tiên có ảnh hƣởng rất quan trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học đƣợc cách cƣ xử với những ngƣời xung quanh và xã hội. Gia đình là nơi gần gũi, gắn bó nhất của mỗi con ngƣời. Do vậy, hoàn cảnh gia đình có ảnh hƣởng rất lớn đến việc hình thành các đặc điểm nhân cách của con ngƣời nói chung và của ngƣời phạm tội nói riêng. Hoàn cảnh gia đình và sự thay đổi hoàn cảnh đó ở ngƣời phạm tội cũng ảnh hƣởng đến sự hình thành các đặc điểm cá nhân, và ở một mức độ nhất định chúng cũng ảnh hƣởng đến tính định hƣớng và tính vững chắc của hành vi phạm tội [48, tr.146]. Hoàn cảnh gia đình có ảnh hƣởng rất lớn đến việc hình thành những phẩm chất tâm lý tiêu cực của con ngƣời, dẫn đến họ sẽ có tính chống đối xã hội, có những hành vi đi ngƣợc với các chuẩn mực xã hội. Chính yếu tố gia đình trong đa số trƣờng hợp đã kích thích tính tích cực của mỗi thành viên, đồng thời gia đình giữ vai trò kiểm sát, giám sát hành vi của những thành viên trong gia đình, hạn chế đến mức tối đa các hiện tƣợng tiêu cực phát sinh trong mỗi con ngƣời. Nghiên cứu hoàn cảnh gia đình trong nhân thân ngƣời phạm tội XPSH là nghiên cứu ở các khía cạnh: quan hệ gia đình, đạo đức-lối sống, hòan cảnh kinh tế gia đình có ảnh hƣởng, tác động đến ngƣời phạm tội nhƣ thế nào. Gia đình là nơi nuôi dƣỡng các giá trị của hạnh phúc. Sự hạnh phúc của gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân của xã hội, của các thành viên trong gia đình. Mối quan hệ thƣơng yêu, xử sự văn minh, nhân ái giữa các thành viên trong gia đình có ý nghĩa rất lớn tới việc kiểm soát hành vi, định hƣớng hành vi của mỗi ngƣời, giúp hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những ngƣời sống trong một gia đình hạnh phúc, êm ấm, thuận hòa thì tỷ lệ phạm tội của họ ít hơn những gia đình bị khiếm khuyết (cha mẹ ly hôn), gia đình có thành viên thƣờng xuyên vi phạm pháp luật hoặc cuộc sống gia 15 đình luôn căng thẳng, mất đoàn kết, không hạnh phúc. Qua đó cho thấy sức mạnh tác động của gia đình có ảnh hƣởng rất lớn đến sự hình thành tính định hƣớng của hành vi phạm tội. Dựa vào đặc điểm quan hệ gia đình, ngƣời phạm tội XPSH có thể chia thành 04 nhóm: ngƣời chƣa kết hôn; ngƣời đã kết hôn; gia đình có cơ cấu hoàn thiện và gia đình bị khiếm khuyết. Yếu tố kinh tế của mỗi gia đình nhƣ: mức thu nhập, điều kiện sống… cũng có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội XPSH. Gia đình có điều kiện kinh tế đầy đủ, đáp ứng đƣợc những nhu cầu thiết yếu cần thiết cho cuộc sống các thành viên thì động cơ phạm tội XPSH thấp, còn với những gia đình kinh tế khó khăn, thu nhập bấp bênh, có nhiều thành viên trong gia đình ở độ tuổi lao động nhƣng không có công ăn việc làm, sự quan tâm giữa các thành viên với nhau không có… dễ tác động lên suy nghĩ tâm lý tiêu cực của con ngƣời. Đa số ngƣời thực hiện hành vi phạm tội XPSH đều nhằm thỏa mãn nhu cầu lợi ích vật chất cho bản thân. Dựa vào đặc điểm hoàn cảnh kinh tế gia đình, ngƣời phạm tội XPSH đƣợc chia thành 02 nhóm: ngƣời phạm tội sống trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế thuận lợi và ngƣời phạm tội sống trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế không thuận lợi. 1.2.1.6. Đặc điểm về nơi cư trú Nơi cƣ trú của ngƣời phạm tội là nơi mà ngƣời đó thƣờng trú hoặc tạm trú, hay nói cách khác đó là nơi ngƣời phạm tội sinh sống. Nơi cƣ trú có những đặc điểm riêng về kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán, đạo đức, thuần phong mỹ tục… cũng có những tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội nói chung và nhân thân ngƣời phạm tội XPSH nói riêng. Ngƣời có nơi cƣ trú rõ ràng và ổn định trong một thời gian dài thƣờng là những ngƣời có công ăn việc làm thu nhập ổn định cho nên họ ít hình thành các thói hƣ tật xấu, các đặc điểm nhân thân tiêu cực. Đƣợc sống ổn định trong một môi trƣờng lành mạnh, an ninh tốt, khu phố văn hóa, tình làng nghĩa xóm luôn đƣợc đề cao thì động cơ, mục đích phạm tội XPSH rất thấp. Ngƣợc lại, sống trong môi trƣờng mà có nhiều tệ nạn xã hội, nạn thất nghiệp nhiều, thu nhập không ổn định, xung quanh có nhiều ngƣời vi 16 phạm pháp luật… thì nguy cơ phạm tội XPSH khá cao. Dựa vào nơi cƣ trú, có thể chia ngƣời phạm tội XPSH thành 03 nhóm: ngƣời không có nơi cƣ trú (sống lang thang), ngƣời có nơi cƣ trú không ổn định và ngƣời có nơi cƣ trú ổn định. 1.2.2. Các đặc điểm về đạo đức - tâm lý Những đặc điểm đạo đức - tâm lý đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành động cơ và trong sự lựa chọn phƣơng án hành vi phạm tội trong những tình huống nhất định [50, tr.136]. Những đặc điểm đạo đức - tâm lý của nhân thân ngƣời phạm tội XPSH bao gồm quan niệm, quan điểm về đạo đức, về giá trị xã hội và các đặc điểm tâm lý nhƣ nhu cầu, thói quen, sở thích, nguyện vọng... Quá trình hình thành nhân thân ngƣời phạm tội XPSH còn chịu ảnh hƣởng của những yếu tố mang tính đạo đức, tâm lý. Nghĩa là thái độ của cá nhân đối với các giá trị xã hội, tƣ tƣởng tham lam, ích kỷ, nhu cầu, các sở thích, ham muốn... 1.2.2.1. Đặc điểm đạo đức Con ngƣời tồn tại trong xã hội, mỗi cá nhân là một thành tố của xã hội. Mỗi con ngƣời đều sống trong các mối quan hệ xã hội nhất định. Do vậy, quan niệm, quan điểm đối với các giá trị đạo đức xã hội và pháp luật cũng khác nhau. Điều này cho thấy tại sao trong một hoàn cảnh nhất định, ngƣời này phạm tội còn ngƣời khác thì không. Những ngƣời phạm tội XPSH phần lớn là những ngƣời có cái nhìn tiêu cực, coi trọng lợi ích vật chất, hám lợi, đặt lợi ích cá nhân của mình là trên hết. Họ coi thƣờng pháp luật, coi thƣờng các chuẩn mực xã hội để chỉ biết sống cho bản thân, thỏa mãn những ham muốn, đua đòi, thích hƣởng thụ nhƣng lại không muốn bỏ công sức lao động chân chính của mình. 1.2.2.2. Đặc điểm về tâm lý Những đặc điểm tâm lý cá nhân của ngƣời phạm tội XPSH thể hiện ở nhu cầu, sở thích, thói quen, sự đam mê, tình cảm, xúc cảm… Những đặc điểm này đều tồn tại ở bất kỳ ngƣời nào trong xã hội. Mỗi ngƣời đều có những nhu cầu, sở thích, thói quen khác nhau, có thể là nhu cầu thói quen lành mạnh, cũng có thể là nhu cầu, sở thích, thói quen tiêu cực. Những ngƣời phạm tội XPSH thƣờng có nhu cầu, sở thích, thói quen tiêu cực, không lành mạnh nhƣ thích ăn ngon, mặc đẹp, thích thể 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan