Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở việt nam ...

Tài liệu Nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở việt nam

.PDF
109
6
74

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIấN Lí LUẬN CHÍNH TRỊ VŨ KIấN CƯỜNG NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2007 1 BẢNG QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CNH-HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNKT: Công nhân kỹ thuật GS: Giáo sư KH-CN: Khoa học - công nghệ PTCS: Phổ thông cơ sở PGS: Phó giáo sư THCN: Trung học chuyên nghiệp THCS: Trung học cơ sở THPT: Trung học phổ thông 3 MỤC LỤC Mở đầu .............................................................................................................. 3 Chƣơng 1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu về nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ............................................................................... 3 1.1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu của nó đối với nguồn nhân lực................ 3 1.1.1. Một số quan niệm khác nhau về kinh tế tri thức ........................................ 3 1.1.2. Yêu cầu của kinh tế tri thức đối với phát triển nguồn nhân lực ............... 12 1.2. Đặc điểm và nội dung phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ........................................................................................................ 15 1.2.1. Đặc điểm của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam . 16 1.2.2. Nội dung ................................................................................................. 17 1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức của một số nước ............................................................................................ 19 1.3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc .................................................................... 19 1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc................................................................. 23 1.3.3. Một số bài học rút ra cho Việt Nam ........................................................ 27 Chƣơng 2. Tình hình nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam thời gian qua ........................................................................ 29 2.1. Tình hình phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam thời gian qua .................................................................................. 29 2.1.1. Tình hình phát triển năng lực thể chất, phẩm chất văn hóa tinh thần của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay .................................................. 29 2.1.2. Thực trạng giáo dục và đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực có trình độ ở Việt Nam thời gian qua ..................................................... 34 2.1.3. Tình hình phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực có trình độ ở Việt Nam thời gian qua........................................................................................... 47 4 2.2. Nhận xét chung.......................................................................................... 51 2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân ........................................................... 51 2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân ................................................. 54 2.2.3. Những vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam ..................................................................................... 57 Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 ............ 64 3.1. Phương hướng, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ................................... 64 3.1.1. Phát triển nguồn nhân lực phải đảm bảo đáp ứng tốt nhất những yêu cầu đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hướng tới kinh tế tri thức ........................................................................................ 64 3.1.2. Phát triển tập trung tri thức cho đội ngũ lao động đặc biệt chú trọng nhân lực cho những ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành sản xuất có hàm lượng tri thức cao............................................................................ 65 3.2. Các giải phát phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam ................................................................................................ 69 3.2.1. Các giải pháp tạo cơ sở môi trường thuận lợi cho việc phát triển nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam .......................................... 69 3.2.2. Giải pháp trực tiếp phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam ..................................................................................... 76 Kết luận........................................................................................................... 96 Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 98 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ đã làm cho thế giới có những đổi thay to lớn, ngày càng ngành sản xuất sử dụng công nghệ tiên tiến, có hàm lượng tri thức cao như: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng, công nghệ vật liệu mới… Tri thức đã trở thành yếu tố có vai trò ngày càng quan trọng. Đây là một bước ngoặt lịch sử: nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Trong kinh tế tri thức, yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế là tri thức và tiềm năng, nguồn tạo ra tri thức. Nguồn nhân lực có trình độ, có hàm lượng chất xám cao không ngừng học hỏi, sáng tạo chính là chủ thể của tiềm năng tri thức. Hiện nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia để thu hút, chiếm hữu, khai thác nguồn lực trí tuệ. Trong cuộc tranh đua đó, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam mặc dù có ít ưu thế hơn so với các nước phát triển nhưng cũng có nhiều cơ hội vươn lên, rút ngắn sự chênh lệch về khoảng cách phát triển với các nước nếu biết nắm bắt, khai thác các thành tựu của khoa học công nghệ, của tri thức nhân loại để phát huy nội lực, tăng cường sức mạnh quốc gia. Nhận thức rõ điều đó, Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “…tranh thủ ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức” [9]. Điều đó thực hiện được hay không phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng nguồn chủ yếu vào chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Nguồn nhân lực đó phải có những phẩm chất như thế nào? Vai trò của nguồn nhân lực đó trong kinh tế tri thức thể hiện ra sao? Để có thể tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức phải có điều kiện, tiền đề then chốt nào? Chuẩn bị nguồn nhân lực để phát triển kinh tế 6 tri thức cần có những bước gì?... những câu hỏi đó đang thật sự là những vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, thấu đáo nhất là trong điều kiện nước ta đang thực hiện công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá và từng bước phát triển kinh tế tri thức. Với mong muốn góp phần nhỏ và làm rõ những vấn đề trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Kinh tế chính trị của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề phát triển nguồn nhân lực con người để phát triển kinh tế tri thức là một vấn đề đang rất được quan tâm. Có một số công trình khoa học, cuốn sách, bài viết xoay quanh đề tài này như: - Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ tri thức Việt Nam. Đề tài khoa học cấp bộ năm 2004, do TS. Đoàn Văn Khái chủ nhiệm đề tài. - Phát triển kinh tế tri thức rút ngắn quá trình trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta, GS. TS. Đặng Hữu. Đề tài KX 02.03, H.2003. - Thời đại kinh tế tri thức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. - Trí tuệ, nguồn lực vô tận của sự phát triển xã hội của tác giả Phạm Thị Ngọc Trâm, Tạp chí Triết học, số 1/1993. - Kinh tế tri thức và con đường hội nhập của chúng ta, Tạp chí Xã hội học tháng 2/1999 của Phan Đình Diệu. - Kinh tế tri thức: xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 do Ngô Quý Tùng chủ biên. - Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra cho giáo dục và đào tạo nước ta. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 của tác giả Nghiêm Đình Vỳ. - Để tri thức trẻ tiến vào kinh tế tri thức, Tạp chí Cộng sản, số 178/2002 của Nguyễn Hoàng Hải. 7 - Động lực cho kinh tế tri thức, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 6/2003 của Đặng Hữu. Các công trình, bài viết kể trên đã đưa ra những khái niệm cụ thể, phản ánh tình hình, xu hướng phát triển, những thành công cũng như những tồn tại, bất cập của nguồn nhân lực phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam thời gian qua. Tuy vậy kinh tế tri thức và phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức đối với Việt Nam là một lĩnh vực mới trẻ. Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, các quan điểm, chính sách, xu hướng phát triển cũng như những bất cập và các vấn đề đặt ra trong sự phát triển của nguồn nhân lực, của kinh tế tri thức có nhiều thay đổi trong tình hình mới mà các công trình, bài viết trên không thể phản ánh hết được. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này một cách có hệ thống, đưa ra những định hướng, giải pháp phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay là hết sức cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực trong kinh tế tri thức và thực trạng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức hiện nay ở Việt Nam, luận văn đưa ra những định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. * Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nói trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau: + Thứ nhất, phân tích, hệ thống và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về nguồn nhân lực, về kinh tế tri thức, nội dungvà những vấn đề đặt ra đối với phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức. 8 + Thứ hai, phân tích đánh giá đúng tình hình nguồn nhân lực hiện nay về quy mô, chất lượng và tác động của nó đối với quá trình phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. + Thứ ba, xác định phương hướng, giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực trong vai trò để phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam trên phương diện Kinh tế chính trị. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những lý luận phổ biến hiện nay về nguồn nhân lực, về kinh tế tri thức gắn với những đặc điểm, tình hình hiện nay của nguồn nhân lực Việt Nam, mối quan hệ giữa chúng và dựa trên những đòi hỏi bức thiết của xu thế phát triển kinh tế tri thức. - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, luận văn chú trọng sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp biện chứng và các phương pháp khác như các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, hệ thống hoá để làm rõ thêm những vấn đề cần phải phân tích. 6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn Trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và kinh tế tri thức, luận văn khắc hoạ vai trò của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức như là một đặc trưng mới, một chức năng mới của nguồn nhân lực. Và từ đó, luận văn đề ra một số định hướng, giải pháp mới trong tiến trình đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung của luận văn gồm ba chương: 9 Chương 1: Kinh tế tri thức và những yêu cầu về nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức. Chương 2: Tình hình nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam thời gian qua. Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010. 10 Chƣơng 1 KINH TẾ TRI THỨC VÀ NHỮNG YấU CẦU VỀ NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC 1.1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu của nó đối với nguồn nhân lực 1.1.1. Một số quan niệm khác nhau về kinh tế tri thức Theo quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển đi lên. Các nền kinh tế lạc hậu, thấp kém trước đó được thay bởi những nền kinh tế đi sau đạt trình độ phát triển cao hơn. Khởi đầu, kinh tế tự nhiên, săn bắt hái lượm đã được thay bằng nền kinh tế nông nghiệp. Và đến lượt kinh tế nông nghiệp cũng trở nên lạc hậu nhường chỗ cho nền kinh tế đại công nghiệp với quy mô, năng suất vượt trội. Và có một số quan điểm cho rằng sau kinh tế công nghiệp là xã hội hậu công nghiệp Ngay từ năm 1973, D.Bell nhà xã hội học Mỹ đã đưa ra khái niệm “xã hội hậu công nghiệp”. Năm 1980 A.Top-phơ-lơ bàn luận về kinh tế hậu công nghiệp. Năm 1982 G. Nei-dơ-bet nhà kinh tế học ngươì Mỹ đưa ra khái niệm “kinh tế thông tin”. Năm 1986 các nhà kinh tế học Anh đưa ra khái niệm “kinh tế kỹ thuật cao”. Đến năm 1990, lần đầu tiên Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm “kinh tế tri thức”. Trong tất cả các khái niệm trên tri thức đều được khẳng định có một vai trò đặc biệt quan trong. Năm 1995, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế tri thức”. Thuật ngữ “kinh tế tri thức” xuất phát từ cụm từ tiếng Anh: “knowledge economy”, bên cạnh đó còn một số thuật ngữ khác cũng được sử dụng nhưng ít phổ biến hơn. Trong đó, thuật ngữ nền kinh tế dựa trên tri thức (knowledge based economy) có mức độ phản ánh rộng rãi hơn, gần với “kinh tế tri thức” hơn. 11 Mặt khác, từ kinh tế tri thức nhưng theo những phương diện tiếp cận khác nhau mà có nhiều khái niệm khác như: kinh tế tri thức là nền kinh tế mới nhất, mới nên người ta cũng gọi là nền kinh tế mới (new economy); kinh tế tri thức đặc biệt coi trọng việc học tập nên có người gọi là nền kinh tế học hỏi (learnring economy); kinh tế tri thức coi trọng thông tin, cần nhiều thông tin, sử dụng kỹ thuật số nên còn có những thuật ngữ nền kinh tế mạng (digital economy), xã hội thông tin (information society)… Kể từ đó kinh tế tri thức được quan tâm bàn luận rất nhiều trong giới nghiên cứu ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam. Kinh tế tri thức được ghi nhận, nhắc đến, bàn luận trong nhiều hội thảo khoa học, bài viết, cuốn sách, và cả trong văn kiện Đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam. Vậy, kinh tế tri thức là gì? “Nền kinh tế tri thức” hay khái niệm “kinh tế tri thức” là đối tượng nghiên cứu còn khá mới mẻ không những ở Việt Nam mà còn với cả thế giới. Nó có vai trò đặc biệt nên được giới nghiên cứu chú ý bàn luận. Có nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau về nền kinh tế tri thức, còn có quan điểm cho rằng hiện nay chưa xuất hiện cái gọi là kinh tế tri thức. Vì thế, đặt vấn đề nghiên cứu, tiếp cận là chưa cần thiết. Có quan điểm cho rằng: kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó tin học và công nghệ thông tin phát triển sâu rộng. Quan điểm khác thì lý giải rằng: đó là nền kinh tế mà công nghệ sinh học giữ vai trò chủ đạo. Hay có một quan điểm khác giải thích: kinh tế tri thức là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở một nền văn hoá tiên tiến và ở đó người dân hưởng thụ với trình độ cao. Trên đây chỉ là những cách hiểu khác nhau về nền kinh tế tri thức, nó chưa chỉ ra được những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức. Những ý kiến phản biện như của tác giả Lê Huy Thục cho rằng: trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay việc một quốc gia sử dụng công nghệ sinh học, tin học hoá hay cả hai một cách sâu rộng trong sản xuất nông nghiệp nhưng chỉ có thế thì chưa thể coi là đã có được kinh tế tri thức. Còn có những nền kinh tế có tài nguyên phong phú, được thiên nhiên 12 ưu đãi, chỉ cần bán nguyên liệu thô cũng trở nên giàu có, khắp nơi người dân đều có điều kiện sử dụng những hàm lượng tri thức, chất xám trong các sản phẩm thô rất thấp nên nền kinh tế như vậy không được coi là kinh tế tri thức (hoặc là tiếp cận được với kinh tế tri thức). Các quan điểm trên chưa chính xác bởi đã đồng nhất nền kinh tế sử dụng công nghệ cao với nền kinh tế tri thức; tri thức về khoa học công nghệ đã tách ra khỏi tri thức rộng lớn của con người cũng như tách rời khoa học, công nghệ ra khỏi môi trường kinh tế, văn hoá và xã hội nói chung. Có một định nghĩa khác khái quát hơn của tác giả Nguyễn Ngọc Thành: “kinh tế tri thức là hình thái phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng hoá tư bản, trong đó, công thức hoạt động cơ bản:Tiền-hàng-tiền được thay thế bằng công thức Tiền - tri thức - tiền” [22]. Định nghĩa này có điều mới là chỉ ra được vai trò quan trọng của tri thức trong nền kinh tế mới song ở đây nó mới chỉ đề cập đến tri thức trong môi trường kinh doanh với tri thức là một dạng hàng hoá cao cấp, dùng tiền mua đem về sử dụng để kiếm được lợi nhuận lớn hơn số tiền ban đầu bỏ ra. Định nghĩa này chưa bao quát được vấn đề bởi tri thức không chỉ tác động đến môi trường kinh tế mà trong nền kinh tế tri thức, tri thức còn nằm trong sự tương tác với môi trường văn hoá, xã hội, giáo dục… Năm 1996, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra một định nghĩa đơn giản nhưng bao quát về kinh tế tri thức trong báo cáo có tên: “Kinh tế dựa trên tri thức”. Theo đó, “kinh tế tri thức là một nền kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức” hoặc “kinh tế tri thức là kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò then chốt đối vối sự phát triển loài người”. Định nghĩa này có tính khái quát cao, khắc phục hạn chế của nhiều định nghĩa kể trên; nó vừa cho thấy vị trí, vai trò của tri thức trong nền kinh tế tri thức vừa chỉ ra được mối quan hệ giữa tri thức và quá trình phát triển kinh tế xã hội của loài người. Đồng thời định nghĩa này đã cho thấy vai trò, tầm quan trọng của 13 nguồn nhân lực cụ thể là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh tế tri thức. Trước đây khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển nền kinh tế tự nhiên còn thống trị thì sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tài nguyên thiên nhiên được ưu đãi và lực lượng lao động thủ công. Quốc gia nào không sở hữu được nhân tố đó thì không thể có điều kiện để phát triển kinh tế. Ngày nay, thời kỳ bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ, có những nước nghèo hoặc thậm chí rất nghèo về tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao động không đông song lại đạt được tốc độ phát triển kinh tế rất cao trong nhiều thập kỷ, trở thành những quốc gia có nền kinh tế phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore… Nhân tố quyết định cho sự thành công đó chính là nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong khi các quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên khai thác ngày càng cạn kiệt nguồn lực tự nhiên của mình thì nguồn nhân lực chất lượng cao lại càng có điều kiện phát triển mạnh. Với ưu thế rõ rệt của mình trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nguồn nhân lực được rất nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Nguồn nhân lực là một khái niệm phức tạp, trong quá trình vận động và phát triển nó chịu sự tác động của những qui luật sinh tử tự nhiên và những qui luật xã hội. Bởi vậy, khái niệm nguồn nhân lực được tiếp nhận dưới nhiều góc độ. Thứ nhất, theo thuyết lao động xã hội, gần gũi với đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị thì nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho nền sản xuất xã hội, cung cấp nguồn nhân lực con người cho sự phát triển. Như vậy, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư của quốc gia. Hoặc nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, bao gồm tất cả các cá nhân trong độ tuổi lao động tham gia vào quá trình lao động được sử dụng trong quá trình lao động. 14 Thứ hai, theo cách tiếp cận của môn kinh tế học phát triển thì nguồn nhân lực là nguồn lực tạo động lực cho sự phát triển. Nền kinh tế tăng trưởng phát triển hay không phụ thuộc chủ yếu vào việc cung ứng nguồn nhân lực theo yêu cầu của nền kinh tế. Thứ ba, theo thuyết về vốn con người thì nhân tố con người trong nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất, đứng trước các nguồn lực vật chất khác. Bởi vậy, việc đầu tư cho nguồn nhân lực theo thuyết này là rất quan trọng. Nhà kinh tế học người Mỹ đạt giải Nobel năm 1992, Gang Baken cho rằng: không có một khoản đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực. Theo một nghiên cứu được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố thì khi đầu tư vào các ngành sản xuất vật chất tỷ lệ thu hồứi vốn chỉ đạt 13% tổng vốn đầu tư trong khi đầu tư cho giáo dục tiểu học, tỷ lệ thu hồi vốn đạt 24%, giáo dục trung học là 17%, giáo dục cao đẳng đại học là 14%. Tổng vốn đầu tư cho kinh nghiệm phát triển của những quốc gia có tốc độ phát triển thần kỳ thời gian qua cho thấy: chìa khoá cho sự thành công vượt bậc đó không phải là nguồn lực tự nhiên, nguồn lực tài chính hay các nguồn lực vật chất khác mà chính là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Do vậy, việc đầu tư để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng đang ngày càng được thế giới quan tâm. Tất nhiên. Bên cạnh nguồn nhân lực, cũng cần phải đầu tư vào các nguồn vốn vật chất tương ứng. Thứ tư, theo quan niệm của Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) thì nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực bao gồm năng lực thể chất và năng lực trí tuệ của con người được huy động vào quá trình sản xuất. Nguồn năng lực đó của con người gộp thành nguồn nội lực quan trọng hàng đầu của mọi quốc gia. Những quốc gia có dân số đông sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, tạo ra động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia mình. 15 Thứ năm, ở Việt Nam theo quan điểm được sử dụng rộng rãi thì nguồn nhân lực là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, trí tuệ và sức khoẻ, năng lực phẩm chất, tác phong làm việc. Như vậy, có nhiều quan điểm cách nhìn nhận khác nhau về nguồn nhân lực trong đó những quan điểm gần gũi với Việt Nam đều nhấn mạnh tới năng lực lao động, năng lực làm việc hay là năng lực thể chất, tinh thần và trí tuệ tồn tại trong mỗi con người của lực lượng lao động xã hội. Chất lượng của nguồn nhân lực vì thế sẽ phụ thuộc vào năng lực thể chất và năng lực tinh thần của lực lượng lao động. Phát triển nguồn nhân lực, bên cạnh quan tâm phát triển số lượng chính là việc phát triển khả năng của năng lực thể chất, năng lực tinh thần, năng lực trí tuệ của toàn bộ lực lượng lao động xã hội. 1.1.2. Yêu cầu của kinh tế tri thức đối với phát triển nguồn nhân lực 1.1.2.1. Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đây là một trong những yêu cầu quan trọng cần phải chú ý khi phát triển nguồn nhân lực bởi vì ngay từ khi thực hiện tiến trình CNH-HĐH rút ngắn cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỉ trọng của ngành nông nghiệp. Theo đó, tỉ lệ lao động làm việc trong những ngành này cũng phải có sự thay đổi tương ứng. Tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm trong sự so sánh tương đối với công nghiệp và dịch vụ thì số lượng lao động có thể giảm nhưng do sự tiến bộ của khoa học công nghệ lượng giá trị của nông nghiệp tạo ra có thể còn lớn hơn, sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao hơn, sức cạnh tranh tốt hơn. Muốn được như vậy, đương nhiên lao động ngành nông nghiệp phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn, nhiều trí tuệ hơn. Tương tự, lao động nhóm ngành công nghiệp, dịch vụ cũng phải tăng lên về số lượng và chất lượng mới có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 16 Đây chính là một trong những yêu cầu quan trọng đối với việc phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức bởi nếu quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực không tương thích về số lượng và chất lượng so với yêu cầu về nhân lực của nền kinh tế sẽ dẫn tới những hậu quả lâu dài cho đất nước. Nguồn nhân lực có trình độ được đào tạo không đủ, không đáp ứng được yêu cầu phát triển thì sẽ không khai thác, sử dụng được hết các nguồn lực vật chất của xã hội, tiềm năng phát triển không được giải phóng gây ra sự lãng phí, hạn chế sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngược lại, nếu như công tác dự báo nhu cầu nhân lực không chính xác, đào tạo vượt quá nhu cầu về lao động sẽ gây lãng phí cho nguồn lực của xã hội trong điều kiện nguồn nhân sách dành cho giáo dục đào tạo còn nhiều hạn chế như hiện nay. Ngoài ra, nguồn nhân lực đã qua đào tạo mà không có việc làm có thể dẫn tới một số tác động tiêu cực khác cho xã hội. Chính vì vậy, phát triển nguồn nhân lực phải gắn liền với công tác dự báo chính xác , theo kịp với yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1.1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin Từ những năm cuối của thế kỷ XX, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, làm thay đổi và xuất hiện những ngành nghề mới, cách thức tư duy quản lý mới. Các sản phẩm của công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công nghệ thông tin đã làm xoá mờ các khoảng cách về địa lý, thời gian làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra nhanh chóng, chính xác và hiệu quả hơn. Trong bối cảnh đó, dù muốn hay không người lao động, nhất là lao động có trình độ chuyên môn cao đều phải chịu sự ảnh hưởng của công nghệ thông tin; phải tiếp xúc và sử dụng các sản phẩm, kỹ thuật của công nghệ thông tin. Điều đó đòi hỏi đội ngũ nhân lực phải được đào tạo đến một trình độ chuyên 17 môn nhất định để có thể khai thác các thành tựu của công nghệ hiện đại một cách có hiệu quả. Đây chính là một trong những yêu cầu quan trọng mà việc phát triển mà nguồn nhân lực phải hướng đến. 1.1.2.3. Phát triển nguồn nhân lực phải đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ đã làm mờ đi các biên giới quốc gia. Lao động, các nguồn vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến hiện đại có thể dễ dàng tiếp cận với các quốc gia, các chủ thể của hoạt động sản xuất kinh doanh hơn bao giờ hết. Quá trình đó đòi hỏi phải có một lực lượng đông đảo nhân lực có trình độ tay nghề chuyên môn cao, có kỹ năng tiếp nhận, xử lý và ứng dụng tri thức, công nghệ mới cũng như khả năng hoà nhập vào môi trường làm việc quốc tế. Sự mở rộng của thị trường lao động đã mở ra nhiều cơ hội lựa chọn cho người lao động. Chủ sử dụng lao động của họ có thể là các doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam hoặc tại bất kỳ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào trên thế giới. Mỗi năm Việt Nam xuất khẩu hàng chục ngàn lao động và chuyên gia đi làm việc tại các quốc gia, hầu hết có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam và họ nhận được mức lương cao hơn so với cùng vị trí làm việc tại Việt Nam. Nguồn ngoại tệ gửi về nước hàng năm lên tới hàng tỷ USD. Đội ngũ lao động này còn được tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến để khi trở về nước họ trở thành những lao động lành nghề đóng góp năng lực trí tuệ vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế đòi hỏi người lao động, nâng cao được sức cạnh tranh của mình từ học vấn, trình độ chuyên môn, tác phong đến phẩm chất đạo đức, lối sống công nghiệp mới có thể tìm được vị trí xứng đáng. Lao động Việt Nam khi ra làm việc ở nước ngoài thường được đánh giá cao ở khả năng nhanh 18 nhẹn, dễ thích nghi, cần cù chịu khó nhưng còn thiếu tác phong công nghiệp, tính kỷ luật và kỹ năng sử dụng ngoại ngữ yếu. Đối với lao động trong nước thì hiện nay được đánh giá là còn thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề; Bộ phận đã qua đào tạo thì lại chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc thực tế. Còn với nhóm nhân lực trí tuệ như các nhà quản lý cao cấp, kỹ sư công nghệ thông tin thì được coi là thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Điều đó đã dẫn tới một thực tế có nhiều chủ doanh nghiệp phải đưa nhân lực cao cấp từ nước ngoài vào Việt Nam làm việc. Tình hình nêu trên đòi hỏi công tác phát triển nguồn nhân lực để tiếp cận, phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam phải được đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng hiện nay. 1.2. Đặc điểm và nội dung phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức 1.2.1 Đặc điểm của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam Thứ nhất, nguồn nhân lực phải được đào tạo với trình độ chuyên môn nhất định, có phẩm chất trí tuệ. Đây được coi là đặc điểm nổi bật nhất của nguồn nhân lực phục vụ cho tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Bởi có trải qua quá trình đào tạo, có phẩm chất trí tuệ thì mới có khả năng sáng tạo, áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật để sáng chế ra các công nghệ, sản phẩm mới. Nguồn nhân lực phải có khả năng thu thập, xử lý thông tin, có sự nhạy bén, thực sự làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Ngoài ra nguồn nhân lực đó phải có khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghệ nghiệp, có kỹ năng lao động giỏi thể hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo chuyên môn như câu ca dao “Một nghề cho chín còn hơn chín nghề” đã khẳng định. Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi người lao động làm việc ở vị trí nào cũng phải tinh thông nghiệp vụ: Người đầu bếp thì phải nấu ăn ngon, thầy thuốc thì phải giỏi trị bệnh, người công nhân thì phải giỏi ngành nghề… 19 Điều đó càng thể hiện rõ trong điều kiện hiện nay khi chúng ta tiến hành sự nghiệp CNH-HĐH với sự phân công lao động ngày càng sâu sắc và sự chuyên môn hoá ngày càng cao của người lao động. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, sự chuyển dịch lao động quốc tế cũng như công nghệ kỹ thuật hiện đại dẫn tới sự cạnh tranh quốc tế giữa những người lao động để giành được những vị trí làm việc tốt. Bởi vậy người lao động phải có khả năng làm việc thực tế, phải có khả năng xử lý các vấn đề phát sinh trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và của cách mạng khoa học công nghệ; người lao động còn phải có năng lực tham gia hoạch định chính sách đưa ra giải pháp và tổ chức thực hiện quản lý sản xuất kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường và phân công lao động quốc tế. Những khả năng đó chỉ có thể có từ nguồn nhân lực có tri thức, có trí tuệ và đã được đào tạo. Như vậy, nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức phải là nguồn nhân lực có trí tuệ, có tri thức khoa học và được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật. Thứ hai, nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức có tính quốc tế hoá cao. Từ khi công nghệ thông tin phát triển bùng nổ, nhất là với sự phát triển của Internet, đã làm cho không gian, thời gian không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu đã bị rút ngắn, thu hẹp khoảng cách. Các nhân tố tri thức, công nghệ, vốn, lao động…không còn bị bó hẹp trong biên giới một quốc gia làm cho hoạt động kinh tế mang tính toàn cầu. Sự chuyển dịch lao động quốc tế cũng như công nghệ kỹ thuật hiện đại ngày càng mạnh mẽ dẫn tới sự cạnh tranh quốc tế giữa những người lao động. Điều đó bắt buộc người lao động phải học tập, trang bị kiến thức kỹ năng về chuyên môn, kỹ năng sử dụng ngoại ngữ mới có thể đáp ứng được yêu câù trong tình hình hiện nay. Thứ ba, đặc điểm quan trọng của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức là có tính sáng tạo cao. 20 Sáng tạo là một đặc điểm quan trọng và nổi bật của nguồn nhân lực hiện đại. Sáng tạo là cơ sở để phát triển lực lượng sản xuất của xã hội đồng thời cũng là động lực cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế để thông qua đó kinh tế phát triển. Cho dù ở bất kỳ hình thái kinh tế nào thì sự sáng tạo của người lao động đều có vị trí đặc biệt quan trọng. Đối với kinh tế tri thức thì sức sáng tạo của nguồn nhân lực lại càng được coi trọng và sáng tạo có thể được coi như một tiêu chí để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, đánh giá sự phát triển cuả kinh tế tri thức. Nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo mới có thể đưa ra các phương pháp, cách thức mới để giải quyết một vấn đề cũ hay đưa ra một vấn đề mới, giải pháp mới. Trong thực tế, năng lực sáng tạo của nguồn nhân lực có thể được thể hiện qua các cải tiến, các giải pháp hữu ích hay phát minh ra sản phẩm mới, dịch vụ hay công nghệ quản lý mới. Trong kinh tế tri thức, KH-CN có tốc độ phát triển và thay thế rất cao, sản phẩm có vòng đời ngắn, thậm chí công nghệ phát minh sáng chế cũng có vòng đời ngắn. Phát triển nguồn nhân lực nếu như không có nguồn nhân lực sáng tạo thì không những không sáng tạo ra được công nghệ, sản phẩm mới mà còn không làm chủ được những công nghệ, kỹ thuật trung bình của xã hội và như vậy sẽ dần đào thải ra khỏi đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao. Như vậy, sáng tạo là yếu tố, đặc điểm không thể thiếu được của nguồn nhân lực và có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công cũng như trình độ phát triển của kinh tế tri thức. 1.2.2. Nội dung - Phát triển nguồn nhân lực để phát triển nguồn tri thức Thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển vượt bậc cùng với làn sóng toàn cầu hoá đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử: nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn quá độ từ nền kinh tế dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật là đại công 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan