LUẬN VĂN:
Nguồn gốc, đặc điểm của đạo Cao
Đài, ảnh hưởng của nó đối với đời
sống tinh thần ở Tây Ninh
1
Mở Đầu
1. Tính Cấp Thiết Của Đề Tài
Tôn giáo hiện là một vấn đề phức tạp nhưng lại rất nhạy cảm trong mỗi nước và
trên thế giới.Việc giải quyết đúng đắn vấn đề tôn giáo là yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu
dài của sự nghiệp phát triển đất nước.
Cao Đài là một tôn giáo rất trẻ, xuất hiện vào đầu thế kỷ XX (1926) tại Nam
Bộ. Ngay những ngày đầu thành lập, tôn giáo này đã lôi cuốn ồ ạt hàng vạn người, sau
đó trở thành một trong những tôn giáo lớn ở Việt Nam. Tính đến năm 1975, chưa đầy
nửa thế kỷ đã thu nạp gần 3 triệu tín đồ. Đây được xem là hiện tượng xã hội đặc biệt thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử ở Việt Nam. Là một tôn
giáo địa phương nhưng Cao Đài có bộ máy hành chính đạo khá chặt chẽ và hoàn chỉnh
như bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Lịch sử giáo hội tuy ngắn ngủi, song có
thời kỳ lại cấu kết với đế quốc phản động để chống phá cách mạng. Bảy thập kỷ trôi qua
với bao chuyển biến lớn lao của thời cuộc, đạo Cao Đài cũng biến động phức tạp. Vì
vậy việc nghiên cứu tôn giáo Cao Đài, trong đó việc tìm hiểu ảnh hưởng của nó đối với
đời sống tinh thần trong nhân dân, đặc biệt đối với đồng bào có đạo là đề tài có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn cấp bách.
Dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo làm cơ sở lý luận, lấy phép biện chứng duy vật làm phương pháp phân tích, kết hợp
giữa phương pháp lôgíc và lịch sử để diễn đạt, luận văn cố gắng trình bày lịch sử hình
thành và phát triển, những biểu hiện và xu hướng biến đổi của đạo Cao Đài, đặc biệt
phân tích ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh hiện nay.
Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề tôn giáo Cao Đài,
góp phần xây dựng và phát triển đời sống tinh thần của nhân dân một cách phong phú
lành mạnh.
2
2. Tình Hình NGHIÊN Cứu Đề Tài
Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này ở nhiều khía
cạnh khác nhau. Có thể dẫn ra: Ông Trần Văn Giàu với tác phẩm "Sự phát triển của tư
tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945" (KHXH
4/1975); Nguyễn Thành Danh viết về "Sự thật của một giáo phẩm", xí nghiệp in Hoàng
Lê Kha - Tây Ninh năm (1978); Giáo sư Trần Quang Vinh "Lịch sử của đạo Cao Đài
(1926-1937)"; Lê Anh Dũng "Lịch sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn (1920-1926)";
Nguyễn Chí Mỳ "Tôn giáo và hiện thực - một số những vấn đề đặt ra hiện nay", Tạp chí
Triết học (số 2-1998); Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn "Đạo Cao Đài một khách thể một thế
ứng xử", (30/10/1993); Hiến Chương Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa thánh Tây Ninh
(1997); "Một số tôn giáo lớn ở Việt Nam", Ban Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội (1995);
"Những vấn đề tôn giáo hiện nay", Viện nghiên cứu tôn giáo, NXB KHXH (1994);
"Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng", NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội (1994); Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn "Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài" NXB
KHXH (1995); cùng một số luận văn về tôn giáo Cao Đài như: Nguyễn Văn Ron:
"Bước đầu tìm hiểu một số biểu hiện đặc thù của đạo Cao Đài" (1995); Võ Văn Phuông
"Đạo Cao Đài và quá trình đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của giáo phái
Cao Đài Tây Ninh trong giai đoạn cách mạng hiện nay" (1995); Lê Ngọc Hòa "Lễ hội
Cao Đài Tây Ninh (1997)"...
Những công trình đó đã đề cập nhiều khía cạnh quan trọng của các yếu tố về
tôn giáo nói chung và Cao Đài nói riêng. Tuy nhiên thực trạng luôn đặt ra nhiều vấn đề
và trên thực tế chưa có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu đạo Cao Đài dưới góc độ triết
học. Đó là sự bỏ ngỏ của chúng ta về nhận thức, khi thực tế những tín đồ Cao Đài ở
miền Nam có đến hơn
2 triệu người. Vì vậy đề tài này muốn góp một tiếng nói nhỏ vào sự nghiên cứu
đạo Cao Đài dưới góc độ triết học.
3
3. Mục Đích Nhiệm Vụ NGHIÊN Cứu Của Luận VĂN
Mục đích: Trên cơ sở làm sáng tỏ nguồn gốc, đặc điểm của đạo Cao Đài, luận
văn phân tích những ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh.
Từ mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Trình bày nguồn gốc và đặc điểm của đạo Cao Đài.
- Phân tích ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp để xây dựng đời sống tinh thần ở Tây Ninh liên quan
đến ảnh hưởng của đạo Cao Đài.
4. CƠ Sở Lý Luận Và PHƯƠNG Pháp NGHIÊN Cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm về tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam nhất là
trong các văn kiện đại hội VI, VII, VIII, các Nghị định văn bản của Chính phủ về tôn giáo
để phân tích những vấn đề đặt ra.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó
đặc biệt chú trọng phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp lịch sử
4
với lôgíc.
5. Đối Tượng Phạm VI NGHIÊN Cứu
Đây là một công trình nghiên cứu về tôn giáo Cao Đài Tây Ninh, dưới góc độ
triết học. Đạo Cao Đài có mặt ở nhiều địa phương nhưng tập trung nhất vẫn là ở Tây
Ninh. Do vậy đề tài nghiên cứu giới hạn ở Cao Đài Tây Ninh. Sự khảo sát cũng chủ yếu
là những ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần trong nhân dân tỉnh Tây
Ninh.
6. Đóng Góp Của Luận VĂN
- Đóng góp về mặt khoa học: Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm sự hình
thành phát triển và những đặc điểm của đạo Cao Đài.
- Bước đầu phân tích đánh giá những ảnh hưởng của đạo Cao Đài với đời sống
tinh thần ở Tây Ninh, từ đó đề xuất một số giải pháp để xây dựng, phát triển đời sống
tinh thần của nhân dân ở địa phương.
* ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập
triết học nhất là chuyên đề về tôn giáo. Luận văn cũng sẽ bổ ích cho những nhà hoạch
định chủ trương chính sách đối với công tác tôn giáo, nhất là đạo Cao Đài.
7. Kết cấu Của Luận VĂN
5
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.
6
Chương 1
Lịch Sử Hình Thành Phát Triển
Và Những Đặc Điểm Của Đạo CAO Đài
Từ giữa thế kỷ XIX cho đến nay, không riêng gì ở Việt Nam, trên thế giới xuất
hiện nhiều thứ đạo cùng với sự tiếp tục tồn tại các tôn giáo cũ, hàng loạt các giáo phái
mới ra đời. Nhiều phong trào xã hội, chính trị xuất hiện mang màu sắc tôn giáo. Theo
thống kê, chỉ riêng trong thế kỷ XX, trên thế giới có trên ba, bốn ngàn hiện tượng tôn
giáo lớn nhỏ ra đời nhưng số trụ lại được với thời gian không nhiều chỉ khoảng hơn
chục đạo tồn tại với số tín đồ khiêm tốn, phần đông là từ các tôn giáo khác tách ra.
Những tôn giáo đó đều có chung một đặc điểm là: phải dựa vào các tôn giáo truyền
thống ở nơi xuất phát, biến đổi ít nhiều về mặt giáo lý và nghi thức, dưới nhãn hiệu cải
cách, canh tân, thêm hoặc bớt những yếu tố trong điều kiện xu thế giao lưu văn hóa
được mở rộng. Các đạo giáo mới đó tìm ra được mục đích hấp dẫn bằng nhiều vẻ: cả về
tôn giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa..., trước hết với quần chúng tại chỗ, sau đó mới phát
triển ra bên ngoài. Những tôn giáo đứng được phụ thuộc nhiều vào bản thân (nội dung,
hình thức), vào các nhân vật sáng lập và nhất là đáp ứng được tâm lý xã hội của quần
chúng tín đồ. ở đó quần chúng thấy được một cái gì hấp dẫn (tuy có thể nhiều hay ít) so
với các tôn giáo cùng thời. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi tắt là đạo Cao Đài, một tôn
giáo rất trẻ xuất hiện vào đầu thế kỷ XX trên mảnh đất Nam Bộ, đã tồn tại và phát triển
được do đáp ứng được những nhu cầu này, do đã tìm ra được một lực thu hút, một cung
cách thích hợp tâm linh tôn giáo của những người nông dân tứ xứ Nam Bộ, trong đó có Tây
Ninh.
1.1. Hoàn Cảnh KINH Tế Xã Hội Với Sự Hình Thành Và Phát Triển Của
Đạo CAO Đài
7
Sự xuất hiện của một tôn giáo mới hay một hiện tượng tôn giáo không bao giờ
là điều ngẫu nhiên, mà nó được qui định bởi một bối cảnh lịch sử nhất định nhằm đáp
ứng nhu cầu tâm lý, tín ngưỡng của một bộ phận cộng đồng dân cư, cộng đồng lãnh thổ
trước khi trở thành phổ biến. Chính vì thế, đạo Cao Đài cũng như các tôn giáo khác chỉ
là hình thái ý thức xã hội ra đời gắn liền với quá trình phát triển của xã hội. Suy cho
cùng sự ra đời, phát triển và mất đi của một tôn giáo là do sự phát triển của điều kiện
kinh tế - chính trị - xã hội nhất định. Muốn tìm nguồn gốc ra đời của tôn giáo nào phải
tìm ngay ở "thế giới trần tục" chứ không phải ở đấng siêu nhiên nào. Khoa học mác xít
kiên quyết bác bỏ những lời khẳng định thiếu khoa học của những nhà thần học rằng:
tôn giáo ra đời do ý định của đấng siêu nhiên nào đó. Ăngghen nói: "Bất cứ tôn giáo nào
cũng đều chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc người ta những sức mạnh ở bên ngoài chi
phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh mà trong đó có sức mạnh ở thế
gian mang hình thức siêu thế gian" [1, 547-549]. Luận điểm trên giúp cho ta hướng
nghiên cứu vào điều kiện kinh tế - chính trị - tư tưởng cho sự xuất hiện tôn giáo nói
chung và đạo Cao Đài nói riêng. Nói cách khác, sự xuất hiện và phát triển của đạo Cao
Đài có thể lý giải bằng chính môi trường sinh ra nó.
Hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Pháp là nước thắng trận song cũng là nước
bị tổn thất nặng nề nhất, lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Để hàn gắn vết
thương chiến tranh, đế quốc Pháp ra sức bóc lột thuộc địa ở Đông Dương nơi có thể đáp
ứng được những đòi hỏi của thị trường thế giới lúc bấy giờ. Trong đó Việt Nam là một
trong những trọng điểm của chính sách bóc lột ấy, trở thành miếng mồi ngon cho bọn tư
bản tài chính Pháp. Tình hình đó dẫn đến những biến đổi lớn về chính trị, kinh tế, xã hội
nước ta thời bấy giờ.
Vào những năm cuối của thế kỷ XIX và khoảng 20 năm đầu của thế kỷ XX, xã
hội Việt Nam là xã hội thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp. Khác với Trung
8
bộ, Bắc bộ, Nam Bộ là nơi thực dân Pháp áp đặt quyền cai trị trực tiếp với một bộ máy
giúp việc người Việt. Trong lĩnh vực nông nghiệp, thực dân Pháp không xóa bỏ địa chủ
phong kiến mà duy trì dung dưỡng để biến chúng thành tên lính xung kích trong việc
cướp ruộng đất của nông dân và bóc lột sức lao động của nhân dân ta. Chúng đầu tư và
mở rộng một số xí nghiệp công thương nghiệp sẵn có, đặc biệt là mở ra những đồn điền
cao su ở vùng đất đỏ Nam kỳ và Cao Miên, chiếm đoạt hàng loạt mẫu ruộng, đất rừng,
đồng cỏ, cùng với nó là thi hành chế độ mộ phu cực kỳ tàn bạo.
Chính sách thuế khóa nặng nề, hàng trăm thứ thuế bất công được đặt ra, các độc
quyền rượu, thuốc phiện, muối, vừa thâm độc vừa tàn ác, vừa đem lại nhiều lợi nhuận cho
ngân khố thực dân Pháp, vừa đầu độc dân ta về thể xác lẫn tinh thần. Chính sách thuế nặng
nề, cộng với nạn cho vay nặng lãi mà thủ phạm chính là ngân hàng Đông Dương của chủ
nghĩa tư bản tài chính Pháp đã bao trùm lên làng quê Việt Nam như một bệnh dịch khủng
khiếp.
Nông dân mất đất, một số ít vào nhà máy, xí nghiệp hầm mỏ đồn điền của Pháp
và của một số tư bản Việt Nam để bán sức lao động trở thành người công nhân, còn đại
đa số trở thành những tá điền bán sức lao động ngay trên mảnh đất của chính mình
trước đây, hoặc lang thang vất vưởng không có việc làm.
Tất cả các giai cấp trong xã hội Việt Nam lúc đó tuy mức độ khác nhau, hoặc ít
hoặc nhiều có mâu thuẫn với thực dân Pháp. Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ này là mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân và địa
chủ. Nhưng mâu thuẫn nổi lên, mâu thuẫn chủ yếu vẫn là giữa toàn thể nhân dân Việt
Nam với bọn đế quốc xâm lược Pháp.
Tình hình ấy đã đưa cuộc đấu tranh của tầng lớp nhân dân nhất là ở Nam Bộ
chống thực dân Pháp ngày càng quyết liệt. Tuy nhiên, do hạn chế của giai cấp mình,
nông dân không thể tự giải phóng được. Lúc đó lại chưa có sự lãnh đạo dìu dắt của
9
Đảng cộng sản - một chính Đảng của giai cấp vô sản, do vậy, cuộc đấu tranh của nhân
dân lần lượt bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Bế tắc trong cuộc sống và bế tắc trong
đấu tranh chống thực dân Pháp càng thúc đẩy số đông quần chúng tìm đến tôn giáo,
trong đó đạo Cao Đài, những mong được sự an ủi che chở, do tôn giáo này khi mới xuất
hiện ít nhiều mang tính phản kháng xã hội đương thời.
Một vấn đề tư tưởng quan trọng dẫn đến sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài
là sự khủng hoảng, suy thoái của các tôn giáo, đạo lý đương thời. Nhân dân Nam Bộ có
nhu cầu tín ngưỡng rất lớn. Khi đạo Cao Đài chưa ra đời, số đông nhân dân theo đạo
Phật, đạo Nho và một số ít theo đạo Công giáo. Nhưng đến giai đoạn này, những tôn
giáo ấy mất dần uy tín vì chậm thích nghi với sự phát triển của xã hội. Đạo Công giáo
lúc đó dưới mắt của người Nam Bộ, gắn liền với sự xâm lược của thực dân Pháp, nên bị
nghi ngờ, thậm chí khinh ghét. Đạo Nho là một học thuyết đạo đức, chính trị chỉ phù
hợp với chế độ quân chủ nông nghiệp, đến nay không còn thích hợp với nhân dân Nam
Bộ đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự phát triển của công nghiệp và xu
hướng Âu hóa (do Pháp áp dụng ở Nam kỳ chế độ thuộc địa trực trị). Đạo Phật tiểu thừa
tại chỗ với phương châm "Tự độ, tự tha" chỉ giải thoát cho ai xuất gia tu hành, khó hòa
nhập với phong tục, lối sống của người Nam Bộ. Đạo Phật Đại thừa bị suy vị từ mấy thế
kỷ trước, nay lại chia rẽ thêm nhiều tông phái, nhất là sự xâm nhập các yếu tố mê tín dị
đoan của đạo Lão. Đạo thờ cúng tổ tiên trong đó có đạo ông bà, tuy gần gũi nhưng chưa
đủ thỏa mãn tâm linh tôn giáo... Nói tóm lại, sự suy sụp của các tôn giáo và đạo lý
đương thời đã tạo ra khoảng trống về tư tưởng tín ngưỡng, tạo điều kiện cho đạo Cao
Đài ra đời và phát triển.
Tham gia trực tiếp vào việc hình thành đạo Cao Đài còn có tục cầu hồn, cầu tiên
và nhất là tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" (Phật, Lão, Nho) vốn có ở nước ta từ lâu
đời. Đặc biệt, từ đầu năm 1920, phong trào "Thần linh học" một hình thức mê tín của
các nước phương Tây, tương tự như tục cầu hồn, cầu tiên, đã thâm nhập vào Nam Bộ,
được đông đảo tầng lớp trung lưu: tư sản, địa chủ, tiểu tư sản, công chức đón nhận. Nó
nhanh chóng hòa nhập với tục cầu tiên, trở thành phong trào "cầu cơ" - "chấp bút" (gọi
10
tắt là cơ bút) phát triển khá sôi nổi trong những năm 1924 - 1925 - 1926 ở vùng Sài Gòn,
Gia Định, Cần Thơ, Mỹ Tho, Tân An... dẫn đến việc ra đời đạo Cao Đài.
Có thể nói sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài ở Nam Bộ vào những năm
đầu thế kỷ XX là do tổng hợp những nguyên nhân. Đó là: sự bế tắc của nhân dân trong
cuộc sống; đấu tranh chống thực dân Pháp thất bại do chưa có đường lối chính trị đúng
đắn soi đường; sự thoái hóa của các tôn giáo đương thời và truyền thống "tam giáo đồng
nguyên". Cộng vào đó, là tục cầu hồn, cầu tiên và sự thâm nhập của tâm linh học... Nếu
không có những nguyên nhân trên thì một nhóm tư sản, địa chủ, tiểu tư sản, công chức
Pháp - những người sáng lập đạo Cao Đài cũng không thể ra đời và phát triển được.
Nhìn chung, đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh lịch sử nhất định và phát triển
mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư Nam Bộ dưới chiêu bài hòa bình, tự do, dân chủ. Cơ
sở của đạo Cao Đài là người nông dân yêu nước, trong khi hạt nhân lãnh đạo lại là
những tri thức công chức, do Pháp đào tạo và làm việc cho Pháp, cho nên định hướng
của từng chi phái chịu ảnh hưởng khá mạnh tinh thần yêu nước hay mưu cầu danh lợi cá
nhân của hạt nhân lãnh đạo. Về mặt tín đồ, theo số liệu Ban Dân vận Trung ương đến
năm 1975 số tín đồ Cao Đài đã lên đến 3 triệu người. Lực lượng đông đảo tín đồ là quần
chúng nông dân lao động yêu nước, họ vào đạo vì nhiều lý do khác nhau, có thể vì mê
tín, vì lầm lạc, vì mâu thuẫn giai cấp, vì lợi ích riêng tư, hoặc bị cưỡng ép phải "nhập
môn". Bản chất của tín đồ là tốt, mong muốn độc lập, tự do, hạnh phúc. Người tín đồ
Cao Đài gắn bó với đạo vì tư tưởng đoàn kết tương trợ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau
trong sản xuất và trong sinh hoạt xã hội. Song, trong quá trình theo đạo họ bị đầu độc
bằng giáo lý mơ hồ, phản động, bằng luận điệu chống cộng, bị quyến rũ bằng lợi ích vật
chất, bị khống chế, kìm kẹp bởi bộ máy hành chính đạo và ngụy quân, ngụy quyền. Vì
thế nhiều người, đôi khi họ nhìn cách mạng, một cách sai lệch, lẫn lộn giữa bạn và thù.
Một vấn đề quan trọng là đạo Cao Đài dù phát triển khá nhanh và mạnh nhưng không
phải tuyệt đại đa số nhân dân một khu vực hành chính nào đó đều là tín đồ Cao Đài.
Ngay tỉnh Tây Ninh, tín đồ Cao Đài chỉ chiếm dưới 50% dân số (thống kê tín đồ Cao
Đài các tỉnh Nam Bộ năm 1943, 1966, 1993 cũng cho thấy tình hình như thế). Phát triển
11
ra miền Trung và miền Bắc Việt Nam thì kết quả không cao lắm vì bối cảnh ra đời của
đạo Cao Đài liên quan chặt chẽ đến cư dân Nam Bộ. Tình hình trên cùng nội dung của
giáo lý Cao Đài trong bước đầu xây dựng chưa được trọn vẹn, nếu không có sự thay đổi
sẽ không còn sức thuyết phục, nếu trình độ dân trí được nâng cao, nhất là khi những yếu
tố công nghiệp và khoa học kỹ thuật len dần vào nông thôn. Đó là điều cần suy nghĩ về
tương lai của đạo Cao Đài [46, 145].
1.2. Những Đặc Điểm của Đạo CAO Đài
Ra đời năm 1926 đến nay đạo Cao Đài vẫn tồn tại như một tôn giáo ở Việt Nam
và được Nhà nước công nhận. Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh, Trung ương của phái Cao
Đài Phổ Độ do Phạm Công Tắc, Lê Văn Trung và Cao Hoài Sang lãnh đạo là nơi sinh
hoạt mạnh mẽ nhất của đạo Cao Đài, với sự tập trung tín đồ cao nhất và là chi gốc từ đó
phân tách ra hầu hết các hệ phái khác. Vì vậy, có thể nói Cao Đài Tây Ninh mang tính
tiêu biểu cho những đặc điểm sinh hoạt tôn giáo của đạo Cao Đài, vì hầu hết các hệ phái
đều xây dựng giáo hội theo Pháp chánh truyền - Tân luật được xây dựng từ những năm
đầu thành lập đạo.
1.2.1. Những nét tương đồng và khác biệt của đạo Cao Đài đối với các tôn
giáo khác
- Xét về nguồn gốc: đạo Cao Đài ra đời cũng giống như các tôn giáo lớn khác là
đều bắt nguồn từ hiện thực xã hội. Đạo Phật ra đời ở ấn Độ bắt nguồn từ những trào lưu
tư tưởng chống lại chế độ đẳng cấp và đạo Bà La môn; Đạo Công Giáo ra đời khoảng
thế kỷ thứ IV - II (trước công nguyên), do những mâu thuẫn cơ bản, sâu sắc và quyết
liệt giữa chủ nô và nô lệ. Nó đã bùng nổ thành các cuộc khởi nghĩa vũ trang mang tính
quần chúng rộng rãi chống lại các giai cấp chủ nô và quân xâm lược không chỉ ở những
vùng bị chinh phục mà ngay cả chính quốc. Tuy nhiên, đế quốc La Mã lúc đó còn rất
mạnh đã nhanh chóng đàn áp các cuộc khởi nghĩa một cách dã man tàn bạo. Trong tâm
12
trạng mệt mỏi và tuyệt vọng, quần chúng lao khổ trông chờ vào sự giúp đỡ của lực
lượng siêu nhiên, một vị thần hay một đấng cứu thế để đánh đổ đế quốc La Mã, giải
phóng dân tộc xây dựng một vương quốc của sự công bằng. Tôn giáo ra đời trong hoàn
cảnh như thế. Đối với đạo Cao Đài cũng xuất phát từ hoàn cảnh chính trị xã hội, nhưng
nguyên nhân ra đời của đạo Cao Đài là một vấn đề còn có cách nhìn nhận khác nhau.
Theo thống kê của Fayne Su san Werner trong giới sáng lập Cao Đài có 39% là địa chủ;
37% là tiểu tư sản; 8% là kỳ hào; 16% là các nhân vật hoạt động tôn giáo [34, 2].
Như vậy trong chừng mực nhất định cũng có thể so sánh sự ra đời của Đạo Cao
Đài với đạo Ki tô sơ kỳ -phong trào của nô lệ và các dân tộc Phương Đông chống lại sự
xâm lược của Đế quốc La Mã thời Cổ đại. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa đạo Ki tô và
đạo Cao Đài. Đạo Ki tô do những người nô lệ khởi xướng, còn đạo Cao Đài do những
tầng lớp trên (tư sản, địa chủ, tiểu tư sản) chủ trương.
- Xét về tính chất chính trị: Các tôn giáo theo mức độ đều mang bản sắc hoặc
ảnh hưởng ít nhiều tính chất chính trị sâu sắc, nhưng đối với đạo Cao Đài màu sắc chính
trị lại nổi bật. Biểu hiện trước hết đạo Cao Đài là sản phẩm của giai cấp địa chủ và tư
sản. Với tổ chức này họ đầu cơ chính trị, lợi dụng sự bế tắc của nhân dân Nam Bộ trong
cuộc đấu tranh yêu nước, để qui tụ lực lượng thực hiện ý đồ giành quyền lãnh đạo chính
trị trong những năm 20 của thế kỷ XX này, còn tôn giáo chỉ là cái vỏ bên ngoài. Cụ thể
là những người thành lập và cầm đầu đạo Cao Đài đã ngày càng đi sâu vào hoạt động
chính trị. Họ thành lập quân đội và luôn hướng về phía cải lương, muốn biến Cao Đài
thành quốc đạo với mục tiêu là thiết lập chế độ quân chủ ở Việt Nam. Với xu hướng đó
mặc dù là một tôn giáo, nhưng những người cầm đầu Cao Đài đã xây dựng hội thánh
với cả bộ máy có tổ chức từ Trung ương đến địa phương giống như một kiểu Nhà nước
quân chủ lập hiến hoàn chỉnh. Bộ máy này có phân biệt nhiệm vụ, chức năng, quyền
hạn của từng cơ quan, cũng như thứ bậc của từng chức sắc, rõ ràng tỷ mỷ với ý đồ là khi
giành chính quyền, họ sẽ dùng bộ máy hành chính đạo thay cho bộ máy Nhà nước.
Trong quá trình hình thành và phát triển Cao Đài có hàng loạt các tổ chức chính trị như:
"Việt Nam Phục Quốc" "Liên tôn chống cộng", "Hòa bình chung sống", "Mặt trận thống
13
nhất toàn lực quốc gia", và hàng loạt các tổ chức chính trị khác kể cả việc thành lập
quân đội Cao Đài. Điều đó thể hiện rõ tính chất chính trị của đạo Cao Đài hết sức rõ nét.
Nét tiêu biểu nhất của tính chất chính trị của đạo Cao Đài trong quá trình hoạt động là
vọng ngoại và chống cộng sản.
- Xét về đặc điểm giáo lý và sự thờ phụng: Giáo lý đạo cao Đài không có hệ
thống các tín điều có chiều sâu dựa trên những cơ sở triết học, thần học như những tôn
giáo khác. Những điều đạo Cao Đài coi là giáo lý bao gồm những khái niệm về "tam
giáo", "ngũ chi", "Cao Đài". "Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ",... chỉ là sự vay mượn,
kết hợp giáo lý tôn giáo, tín ngưỡng Cổ, Kim, Đông, Tây (phần này sẽ trình bày rõ hơn
trong phần đặc điểm về giáo lý và sự thờ phụng).
- Xét mối quan hệ giữa đạo Cao Đài với các tôn giáo khác trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh:
Với lịch sử hình thành phức tạp, nhiều cộng đồng dân cư, Tây ninh tồn tại nhiều
tín ngưỡng dân gian và sự tồn tại, phát triển của 4 tôn giáo lớn: Ki tô giáo, Phật giáo,
Hồi giáo và Cao Đài. Các tôn giáo đều có đối tượng tín đồ riêng, những cơ sở thờ phụng
riêng được Nhà nước công nhận và hoạt động theo luật đạo, theo chính sách tôn giáo
của Nhà nước.Thế nhưng không thể phủ nhận vai trò chủ đạo của đạo Cao Đài trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh với số lượng tín đồ đông đảo, thánh đường lộng lẫy nguy nga, và
trung tâm của một tôn giáo bản địa. Mối quan hệ giữa đạo Cao Đài với các tôn giáo
khác trên cùng địa bàn do vậy cũng hết sức phức tạp thể hiện ở những điểm sau đây:
Với tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" hay "Tam kỳ phổ độ" trên điện thờ của
đạo Cao Đài có mặt đấng thiêng liêng của các tôn giáo khác. Có những ngày lễ hội tôn
giáo Cao Đài cũng như ngày kỷ niệm các tôn giáo khác như: Vía Đức phật thích ca
(ngày 15 tháng 4),và Đức Jesus chirst (ngày 25 tháng 12). Tuy nhiên các tôn giáo vẫn
giữ khoảng cách với đạo Cao Đài vì ngay từ những ngày đầu thành lập, Cao Đài đã
14
muốn tạo dựng một tôn giáo bao trùm lên toàn thể các tôn giáo khác và đã thật sự lấn át
các tôn giáo đương thời ở Tây Ninh.
Với đạo Phật, đạo Cao Đài có nhiều va chạm, ngay từ những ngày khai đạo. Lợi
dụng suy yếu của Phật giáo, đạo Cao Đài tự xưng là Phật giáo canh tân, lấy thế của các
quan lại hào lý không những chiếm tín đồ mà còn cả chùa chiền của đạo Phật, gây nên
sự bất mãn của các nhà sư, các nhà Phật học. Việc ra mắt đạo Cao Đài tại chùa Từ Lâm
- một cơ sở của Phật giáo là một minh họa rõ nét tình hình này (mặc dù sau đó nhà chùa
đã đòi lại và đạo Cao Đài phải tiến hành xây dựng Đền Thánh tạm ở Long Thành).
Với đạo Thiên chúa, Cao Đài cũng không gây được sự hòa hợp, vì tín đồ Ki tô
giáo luôn coi chúa Ki tô là hơn hết trong khi đó họ cảm thấy chúa của mình trong Cao
Đài lại chiếm địa vị khá khiêm tốn. Họ chỉ cảm thấy tự hào vì có sự đóng góp của đạo
mình cho một tôn giáo mới ra đời chứ không muốn chuyển đạo sang Cao Đài.
Mặc dù không công khai nhưng trong sinh hoạt đạo, bằng hình thức sinh hoạt
cộng đồng, sự giúp đỡ cộng đồng những người ngoại đạo (không tôn giáo hoặc tín đồ
tôn giáo khác), Cao Đài đang ráo riết thực hiện ý đồ lôi kéo thu hút tín đồ các tôn giáo
khác về phía mình, và đây chính là mối quan hệ tế nhị, phức tạp nhất giữa Cao Đài với
các tôn giáo khác trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
1.2.2. Đặc điểm về thế giới quan, nhân sinh quan
- Quan điểm thế giới quan của Cao Đài tập trung ở đoạn giáo lý sau: Nhất thái
cực (tức là một đấng tối cao vô hình hay là trời) sinh ra lưỡng nghi (âm và dương).
Lưỡng nghi sinh ra tứ tượng (bốn hiện tượng tự nhiên là: nắng, mưa, sáng, tối). Tứ
tượng sinh ra ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Ngũ hành sinh bát quái (càn, khảm,
chấn, cấn, tốn, ly, khôn, đoài). Bát quái sinh sinh hóa hóa thành thế giới muôn vật muôn
loài. (Tức vật chất, thảo mộc, côn trùng, cầm thú, thần thánh, tiên, phật...) sinh sinh, hóa
15
hóa lưu hành trong tam thiên thế giới (ba ngàn thế giới) và lục thập bát địa cầu (68 địa
cầu). Tất cả sự vật đều có linh hồn, từ thú vật hồn đến nhân hồn, thần, thánh, tiên, phật
hồn".
Cũng như các tôn giáo khác, đạo Cao Đài tin vào cái siêu tự nhiên, cái không
phục tùng những quy luật khách quan thoát khỏi mối liên hệ phụ thuộc nhân quả.
Không chỉ thế mà "Đức Chí Tôn" còn xóa bỏ và tạo ra những quy luật tự nhiên như:
mưa, gió, sấm, chớp, sáng, tối... sáng tạo ra nhiều điều mầu nhiệm " huyền bí". Theo
quan điểm của chủ nghĩa vô thần khoa học và triết học mác xít thì thế giới tồn tại vô tận
và đa dạng, song nó lại thống nhất ở tính vật chất. Không có thế giới thiên đường địa
ngục, nơi cư trú của thánh thần, ma quỷ nào cả. Cùng một đối tượng phản ánh là thế
giới hiện thực, nhưng khoa học và tôn giáo đối lập nhau: khoa học phấn đấu phản ánh
ngày càng gần với những gì đang tồn tại, ngược lại tôn giáo phản ánh sai lệch, méo
mó,biến dạng đi. Những lực lượng trần gian bình thường lại mang hình thức phi trần
gian.
Sự thừa nhận lực lượng nào đó tạo ra và điều khiển thế giới là nội dung chủ yếu
của thế giới quan tôn giáo. Thế giới này là do "Đức Chí Tôn" dùng thanh khí, mà tạo ra loài
người và đất, biến thành vạn vật. Vì Đức Chí Tôn là chúa tể vạn loài "có quyền năng vô đối",
"Thống ngự vạn linh" [18, 41]. Đạo Cao Đài rõ ràng là giải thích sự hình thành thế giới
theo quan điểm duy tâm. Điều khác nhau cơ bản nữa giữa tôn giáo và khoa học Mác Lênin là tôn giáo giải thích sai lầm về nguyên nhân nỗi khổ và đề ra phương pháp sai
lệch tiêu cực. Nếu đạo Ki tô qui nguyên nhân nỗi đau khổ bất hạnh của con người vào
tội tổ tông, "Đạo Phật coi đời là "bể khổ" do "tham, sân, si" và thuyết "luân hồi" thì đạo
Cao Đài quan niệm nguyên nhân nỗi khổ đau của chúng sanh là do "loài người tiến hóa
tăng lực mà sinh ra tự đắc tự tôn", chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho
"đệ nhị xác thân và tinh thần, và do tâm lý tập quán của các nước, của các sắc dân chi phối
nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau mà tranh tranh đấu đấu không ngừng [6, 75], vì thế mà bị
"đọa đày" gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế giới. Muốn thoát khỏi đau khổ, xây dựng
một cuộc sống hạnh phúc không phải là đấu tranh xóa bỏ chế độ bóc lột mà phải luyện
16
đệ nhị xác thân cho đầy đủ sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để
chấm dứt cái oan nghiệt ấy... cứu vớt quần sanh thoát khỏi vòng địa lạc hoàn toàn. Quan
điểm đó không chỉ nhồi nhét cho con người một hệ thống quan niệm phản khoa học, mà
còn giáo dục người ta tư tưởng coi thường mọi cái trên trần gian thế tục coi như nơi "ăn
gởi ở nhờ" do đó mọi vấn đề xã hội đều lùi vào hàng thứ yếu, đẩy con người vào tình
trạng thụ động về mặt xã hội.
Đạo Cao Đài ra đời còn có sự hoàn thiện và đóng góp rất đắc lực của công cụ
đàn cơ. Đàn cơ, về bản chất là công cụ hoạt động tín ngưỡng tôn giáo (ở cả phương
Đông và phương Tây), nhằm mục đích xin (cầu) thần linh ban cho con người những
điều mong muốn hoặc biết được sự vận động biến hóa mầu nhiệm (cơ). Vì thế gọi là
cầu cơ.
Đối với quá trình ra đời và hoàn thiện của đạo Cao Đài, đàn cơ có vai trò hết
sức đắc lực mà như một số nhà nghiên cứu đã nhận xét: đối với Cao Đài giáo, đàn cơ là
sự thiêng liêng, huyền diệu và là linh hồn của đạo, dựa vào cầu cơ để xây dựng cả một
hệ thống giáo lý, giáo luật tổ chức và phong các chức sắc của đạo - so với các tôn giáo
khác đó là một đặc điểm đặc sắc của đạo Cao Đài.
Đàn cơ mà đạo Cao Đài sử dụng thuộc loại đàn cơ gốc Trung Hoa. ở Trung
Quốc, nó được xếp vào hệ tín ngưỡng dân gian, xuất hiện sớm và có một quá trình phát
triển lâu dài gắn với tên tuổi các vị thần linh như Tử Cô, Lý Bạch... Ban đầu, đàn cơ
được sử dụng để xem việc nông tang, xem việc thi cử, công danh, tiền đồ, vận hạn, xin
thuốc chữa bệnh và cả trong việc thi ca xướng họa
Thời Minh -Thanh (Trung quốc), đàn cơ phát triển khá mạnh, thậm chí còn được
dùng trong cả đời sống chính trị cung đình. Khi các tốp Minh - Hương phương bạt sang
Nam Bộ Việt Nam, họ đã lập ra nhiều đàn cơ, chính Ngô Văn Chiêu, một trong những
17
người đầu tiên sáng lập đạo Cao Đài, ngay từ đầu năm 1902 đã biết cầu cơ để xin thuốc
chữa bệnh cho mẹ của mình (ở đàn cơ Minh Thiện - Thủ Dầu Một).
Cùng với tính chất ấy, ở Phương Tây từ lâu đã có bàn xây theo thông linh học
(Spirutisme) và rồi người Việt Nam, nhất là các công chức làm cho Pháp nhanh chóng
tiếp cận. Song, so với đàn Trung Quốc bàn xây thông linh học phương Tây tỏ ra bất tiện
hơn (theo suy nghĩ của người Việt Nam). Đó cũng là điều lý giải tại sao bốn ông Cao
Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang (là những người khai
đạo) đang sử dụng bàn xây thông linh học phương Tây lại chuyển sang đàn cơ Trung
Quốc. Lúc đó, sự gặp gỡ giao lưu của những người vốn sử dụng hai loại đàn cơ khác
nhau ấy đã không loại trừ nhau mà cùng thống nhất mục đích sử dụng đàn cơ nhằm làm
ra đời một tôn giáo mới: Đạo Cao Đài.
Là những người thuộc tầng lớp trên của xã hội, những người sáng lập đạo Cao
Đài trong quá trình sử dụng đàn cơ chắc chắn biết rõ về thực chất của đàn cơ. Đó chính
là tính chất hư hư thực thực của nó, chính Phạm Công Tắc (sau này là Hộ pháp đã có
dịp đánh giá: "Cơ bút có đủ quyền tạo đạo, nhưng cũng có quyền diệt đạo", còn ông Lê
Văn Trung (người giữ chức quyền giáo Tông) đã nói: "Hãy cẩn thận về cơ bút, đạo khai
nhờ cơ bút, đạo thiêng liêng quyền diệu do cơ bút, đến khi nền đạo bị chia rẽ
nhiều chi phái cũng do cơ bút, nếu đạo bị đả phá khinh thường cũng tại cơ bút"
[28, 185].
Đối với người lao động, dân trí thấp lại đang bị bần cùng về kinh tế, bế tắc về
chính trị và tinh thần thì khó mà nhận được cái chân, cái giả của đàn cơ. Song bất luận
ai, kẻ biết ít, người biết nhiều, kẻ chưa biết, người đã biết... tất cả điều có niềm tin nhất
định vào kết quả của đàn cơ - rằng đó là sự hiệp thông của con người với các đấng
thiêng liêng, là lời phán bảo của Đức Chí Tôn - Ngọc đế Cao Đài và của các bậc thần
tiên khác. Sự hiệp thông nhân - thần ấy là một cơ sở cho sự ra đời của mỗi tôn giáo.
18
Do bị lừa bịp nên "Cơ bút" được đông đảo tín đồ tin tưởng. Nhưng thời gian
vẫn là ánh sáng soi đường cho sự thật, bản chất của nó cứ bộc lộ dần ra, khiến cho nhiều
người nghi ngờ, biết bao câu hỏi đặt ra xung quanh cơ bút vì " cơ bút" vẫn là hư hư,
thiệt thiệt, vì mọi việc chi mà có tính phàm của con người hùn vốn vào đó thì điều hư
nhiều, thiệt ít... [25, 239].
Trong khi đó thì người ta cũng thấy Tòa thánh Tây Ninh chỉ dành độc quyền
tiếp xúc với thầy cho một vài nhân vật cao cấp có khả năng lãnh đạo chính trị, tư tưởng
của đạo như: Cao Quỳnh Diêu, Phạm Công Tắc - được đấng Chí Tôn phong là: "Tá cơ
tiên hạt đạo sĩ" và "Hộ giá tiên đồng tá cơ đạo sĩ". Thực chất "các người cầu cơ đều là
quan chức thuộc các phòng của Phủ Thống đốc". Điều đó cũng nói lên rằng cơ bút là
phương tiện công cụ, là vũ khí sắc bén được bao bọc bởi cái vỏ "Linh thiêng, Huyền
Diệu" của một số chức sắc chóp bu, họ dùng để xây dựng đạo, tập hợp lực lượng và khi
cần còn dùng để phế truất những kẻ không ăn cánh hoặc đề bạt cất nhắc, và sắp xếp
nhân sự trong hàng ngũ chức sắc Cao Đài. "Phải chăng nhóm Trương Hữu Đức - Phạm
Tấn Đãi lợi dụng cơ bút, mượn quyền thiêng liêng tối cao, sát phạt hạ nhóm Trần Quang
Vinh" [3, 25] và việc giáng cơ phong cấp cho hai tỉnh trưởng ngụy là Nguyễn Văn Nhã
và Nguyễn Phát Đạt từ cấp hiền tài vượt 3 cấp lên chánh phối sư... là sự vận động ngầm
của tay sai đế quốc, do sự sắp xếp trước [3, 15].
Trong sách "Thẩm án đại đạo", một đạo hữu Cao Đài tố cáo rằng: "cơ bút là
một điều quan trọng nhất của đạo, đạo nên hư, cũng do cơ bút. Mấy vạn nhân sinh sống
chết cũng do cơ bút, cơ bút chẳng phải là món đồ chơi mà ở Tây Ninh cơ bút chỉ về tay
Diêu. Hễ buồn thì phò loan chấp bút, khi thì vịnh ngâm thơ phú, khi thì hỏi chuyện nọ
kia, rồi dần dần chẳng biết vị tiên nào về, xem rõ văn thì đều là văn của Diêu... Nếu theo
hội thánh Tây Ninh bây giờ thì nhân sinh phải chết dưới tay Diêu".
19
Thực chất cơ bút là công cụ lừa bịp, giả dối, phản động phục vụ cho mục đích
chính trị nhất định của giới lãnh đạo Cao Đài, là hình thức mê tín dị đoan mà đạo Cao
Đài dùng để củng cố và phát triển nên đạo khi quần chúng chưa giác ngộ cách mạng.
Vì thế sau này khi đàn cơ đã hoàn thành sứ mạng xây dựng và hoàn thiện một
hệ thống giáo lý, giáo luật và tổ chức của đạo thì đương nhiên cũng cần chấm dứt. Việc
kết thúc cầu cơ của đạo Cao Đài cũng là một việc- thiết nghĩ - đã được nâng đến tầm
nghệ thuật khi những người nắm trọng trách Cao Đài lúc đó đã sử dụng triệt để lời "phán
bảo" của Đức Chí Tôn. Đó là, trong buổi cầu cơ ngày 1-6-1927 Đức Chí Tôn đã giáng cơ
rằng: "Đến cuối kỳ tháng 6 này thì phải ngưng hết bút truyền đạo". Vì thế, Tòa thánh thôi
không dùng hoặc dùng không rộng rãi cơ bút nữa. Và ngày 6 - 7 -1976 Tòa thánh tiếp tục
tuyên bố không dùng cơ bút nữa, đó là tuyên bố mang ý nghĩa tích cực, phù hợp với đạo,
với đời. Việc phong chức sắc của đạo Cao Đài, theo tinh thần đại hội đại biểu Cao Đài
Tây Ninh ngày 5 - 4 -1997 thì từ nay áp dụng theo điều lệ cầu phong, cầu thăng theo
luật công cử thay cho hình thức cầu cơ.
- Quan điểm nhân sinh quan đạo Cao Đài cho rằng con người có phần xác và
phần hồn, con người sau khi chết linh hồn còn tồn tại. Nếu có công đức sẽ về sống sung
sướng nơi Bạch Ngọc kinh (thiên đường). Nếu có tội thì vướng mãi trong vòng luân hồi
sinh tử. Đạo Cao Đài đã khuyên mọi người "Xả phú cầu bần" "Xả thân cầu đạo", tu
hành để diệt dục để được "phổ độ".
Đạo Cao Đài cho rằng con người sanh ra ở tại thế và chịu khổ não ở tại thế này,
rồi chết cũng ở tại thế này. Và khi chết thì con người sẽ ra sao ?
Về điều này Thầy (Phạm Công Tắc) đã dạy rằng: cả kiếp luân hồi thay đổi từ
trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu
chuyển kiếp ngàn năm, muôn muôn lần, mới đến địa vị nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế
20
- Xem thêm -