Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong truyện ngắn nguyễn huy thiệp...

Tài liệu Ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong truyện ngắn nguyễn huy thiệp

.DOC
115
622
97

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Về tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp – các công trình nghiên cứu chưa nhiều, đặc biệt là dưới góc độ ngôn ngữ. Bởi vậy, “Ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” là một đề tài mới và khó nhưng cũng không ít lý thú. Những hạn chế nhất định là điều không tránh khỏi. Chúng tôi mong nhận được sự góp ý của những người quan tâm đến đề tài. Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhận được sự hướng dẫn tận tình của PGS-TS Đỗ Thị Kim Liên cũng như những ý kiến đóng góp thiết thực của các thầy giáo trong tổ bộ môn Ngôn ngữ, khoa đào tạo Sau Đại học, Đại học Vinh. Nhân đây, cho phép chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn cùng tập thể thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa đào tạo Sau Đại học nói chung, và tổ Ngôn ngữ nói riêng đã đóng góp những ý kiến quý báu cho việc hoàn thành luận văn. Tác giả Lê Thị Trang 1 MỤC LỤC Trang 1 3 3 4 5 9 9 LỜI NÓI ĐẦU MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài II. Đối tượng và mục đích nghiên cứu III. Lịch sử nghiên cứu vấn đề IV. Phương pháp nghiên cứu V. Cái mới của đề tài NỘI DUNG CHƯƠNG I: HOÀN CẢNH GIAO TIẾP VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT 10 TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP. I. Lý thuyết hội thoại và các dạng thức hội thoại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp II. Hoàn cảnh giao tiếp của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. III. Nhân vật và ngôn ngữ nhân vật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp 10 CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ HỘI THOẠI CỦA NHÂN VẬT 36 20 30 TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP I. Đặc điểm cấu trúc II. Đặc điểm ngữ nghĩa 36 58 CHƯƠNG III: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NGUYỄN HUY THIỆP 73 TRONG VIỆC SỬ DỤNG NGÔN NGỮ HỘI THOẠI. I. Sử dụng ngôn ngữ hành động trong hội thoại của nhân vật. II. Sử dụng ý nghĩa hàm ngôn trong hội thoại của nhân vật. III. Sử dụng ngôn ngữ hội thoại tạo tính âm vang cho tác phẩm. 73 84 102 KẾT LUẬN 110 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO 2 MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. 1. Thời kỳ đổi mới đã tạo điều kiện cho đất nước phát triển, con người và các mối quan hệ xã hội trở nên phong phú và sâu sắc hơn. Cùng với sự phát triển đó, văn học cũng chuyển mình với tất cả sự đa chiều và phức tạp của nó. Và có thể nói một hướng kết tinh đầy ấn tượng của văn học thời kỳ đổi mới là các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp – “Hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp” là thành quả của văn học thời kỳ đổi mới. Tướng về hưu xuất hiện đã tạo nên một bầu không khí mới trong văn chương và Sang sông lại được giải thưởng cao của báo Văn nghệ (vào những năm 80 của thế kỷ XX) đã gây xôn xao trong dư luận. Người đọc, người phê bình, làng văn đang lạ lẫm về tác giả này thì Nguyễn Huy Thiệp lại tiếp tục trình làng: Con gái thủy thần, Những ngọn gió Hua Tát, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Những người thợ xẻ, Những bài học nông thôn…Nhà văn này càng viết, càng trình làng thì lại càng có nhiều ý kiến bàn luận. Người ta cứ đổ xô nhau đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đổ xô nhau… “bình”, “đánh giá”, “thẩm định” tác phẩm và con người Nguyễn Huy Thiệp. Không chỉ thế, tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp còn hấp dẫn các nhà làm phim: đầu tiên là “Tướng về hưu”, sau là “Thương nhớ đồng quê”, “Những người thợ xẻ”… Và chính Nguyễn Huy Thiệp lại phải chuyển đổi truyện ngắn “Không có vua” thành kịch “Gia đình” để đưa lên sân khấu. Hấp dẫn và căng thẳng… Đó là những ấn tượng khi đọc Nguyễn Huy Thiệp. 2. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã đem đến cảm giác mới và lạ cho người thưởng thức. “Nguyễn Huy Thiệp – hai lần kỳ lạ” (Vương Trí Nhàn, 25, 406). Lạ ở chỗ nào?. Nội dung lạ và nghệ thuật lạ. “Ông đã sử dụng tối đa các khả năng của ngôn ngữ để đạt cao nhất điều mình muốn biểu đạt. Tức khắc, sáng tác của ông trở thành một thứ “hóa chất” gây phản ứng, và tất nhiên sau phản ứng bao giờ cũng có một chất mới tạo thành”(Phạm Xuân Nguyên, 25,1). Có truyện thế sự, truyện giả cổ tích, truyện giả lịch sử, truyện kể nội dung và truyện viết nội dung. Tất cả phải được đọc như thế nào?. Hiểu như thế nào cho ra nhẽ?. Chung quy lại là sự đòi hỏi về “cách đọc” nơi độc giả. Cứ thế, các ý kiến trái ngược nhau, đối chọi nhau của các nhà phê bình (với đủ mọi giới, mọi ngành) soi chiếu 3 tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp ở nhiều góc độ khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Khen thì khen hết lời. Chê thì chê hết mực. Âu cũng chuyện thường tình của việc đánh giá, phê bình một hiện tượng văn học mới. Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp dẫn người đọc vào một thế giới vừa hư, vừa thực, vừa bỏng rát với hiện tại, trăn trở với quá khứ lại thôi thúc, giục giã tới tương lai. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mở ra một kho ngôn ngữ trong đó tính đa nghĩa của từ được phát huy với tần số tối đa. Nghiên cứu về ông, nhận diện ra ngôn ngữ của ông cũng là điều hết sức thú vị và có ý nghĩa. Ông đã bắt người đọc không được tiếp cận theo lối thụ động ăn sẵn với những gì mà nhà văn trình bày. Điều mà ông đã tạo nên một sự kỳ lạ nữa là độc giả phải là những người “đồng sáng tạo” cùng tác phẩm, cùng nhà văn để suy ngẫm và đạt đến chiều sâu của tác phẩm. 3. Dễ nhận thấy rằng: phương tiện mà Nguyễn Huy Thiệp dùng để chuyển tải nội dung là một hình thức ngôn ngữ thô ráp, không trau chuốt, thứ ngôn ngữ như bị “bốc đá ném vào mặt”.Nguyễn Huy Thiệp có tàn nhẫn quá không khi đưa lên trang sách những vấn đề nóng bỏng của thời đại như sự xuống cấp về đạo đức, sự tha hóa về nhân cách, lối sống thực dụng và một thứ văn hóa “lá cải” đang được thịnh hành trong xã hội Việt Nam. Tất cả đều được diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ rất đắt, sắc sảo, có khi là thô tục. Nhưng đằng sau đó là mạch ngầm – dòng chảy của những triết lý nhân bản mà tác giả muốn gửi gắm. Để nghiên cứu đầy đủ các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta phải nhìn nhận dưới nhiều bình diện, nhiều góc độ. Trong đó yếu tố ngôn ngữ là một mặt rất quan trọng khi đánh giá xu hướng nghệ thuật của nhà văn. Lời thoại nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp là đối tượng tiếp cận của đề tài này với hy vọng phần nào giãi bày được cái tâm của người viết để cùng hiểu, cùng cảm phục một nhà văn có tài mà lắm tiếng - Nguyễn Huy Thiệp. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. 1. Đối tượng. Chúng tôi vận dụng lý thuyết ngôn ngữ học và kiến thức lý luận văn học để nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại của 21 truyện ngắn trong tập “Như những ngọn gió” do Anh Trúc biên soạn (NXB VH, 1998). Cụ thể chúng tôi nghiên cứu: - Các dạng thức hội thoại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. - Hoàn cảnh giao tiếp: Yếu tố không gian và thời gian chi phối lời thoại nhân vật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. - Đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa lời thoại nhân vật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. 4 - Những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp trong việc sử dụng ngôn ngữ hội thoại. 2. Mục đích. Trên cơ sở phân tích, làm rõ những đặc điểm của lời thoại nhân vật, chúng tôi mong muốn góp thêm cái nhìn về phong cách độc đáo giàu sức sáng tạo của Nguyễn Huy Thiệp trên bình diện ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Đồng thời, chúng tôi hy vọng đề tài này sẽ làm phong phú thêm vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn học theo lý thuyết hội thoại. III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ. Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện trên văn đàn nước ta khá muộn. Năm 1986 mới rải rác in một vài truyện ngắn nhưng những truyện đó không gây được tiếng vang. Phải kể từ khi “Tướng về hưu” xuất hiện và sau đó là hàng loạt các truyện được hư cấu từ lịch sử thì Nguyễn Huy Thiệp mới thực sự đặt dấu ấn trong lòng bạn đọc. Từ bấy đến giờ là những cuộc tranh luận không có hồi kết của mọi giới: nhà giáo, nhà văn, nhà phê bình, độc giả… Sự không có hồi kết đó quả là đáng mừng, đáng tin cậy bởi một tác phẩm nghệ thuật, nhất là những tác phẩm nghệ thuật mới thì không thể có kết luận cuối cùng trong một sớm một chiều được. Tựu trung các ý kiến đánh giá về Nguyễn Huy Thiệp như sau: - Loại ý kiến thứ nhất: đánh giá cao tài năng văn chương Nguyễn Huy Thiệp. - Loại ý kiến thứ hai: đòi “khởi tố’ hoặc “bỏ tù” Nguyễn Huy Thiệp. - Loại ý kiến thứ ba: vừa phê phán vừa ca ngợi Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng dù đứng ở loại ý kiến nào đi nữa thì tất cả đều khẳng định: Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn có tài, văn chương của ông có lực hấp dẫn “ma quái” siêu hình đối với đông đảo bạn đọc: “Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng độc đáo đủ sức làm sống dậy mặt hồ văn chương vốn lâu nay im lặng” (Nguyễn Văn Lưu, 21, 7), “Trường hợp văn chương Nguyễn Huy Thiệp là một trường hợp thú vị đáng chú ý” (Đoàn Hương, 15, 150). Nhìn lại những công trình viết về Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi thấy có ba hướng sau: 1. Đi sâu vào những nội dung chính mà Nguyễn Huy Thiệp thể hiện. a. Đề tài: Hoàng Ngọc Hiến với “Tôi không chúc cho bạn thuận buồm xuôi gió” cho rằng: “Dẫu là kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy Thiệp trước sau viết về cuộc sống hôm nay và tác giả đã nhìn thẳng vào sự thật của đời sống hiện tại, không ngần ngại nêu lên những sự bê tha nhếch nhác trong hiện tại…”. Và đó là sự xuất 5 hiện tất yếu khi mà “văn học ta lâu nay nặng về ngợi ca, biểu dương những phẩm chất tốt đẹp của con người”. Nguyễn Huy Thiệp đã đi ngược với vòng quay đó, chủ nghĩa hiện thực trong truyện ngắn của ông không chỉ là “những điều trông thấy” mà còn “đau đớn lòng”. Kế đó là sự phát hiện bản năng đẹp đẽ của người phụ nữ thánh thiện mà tác giả gọi tên là “thiên tính nữ” đặt bên cạnh những người đàn ông vô tích sự, không ra gì (37, 102). Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh lý giải “sức hấp dẫn khó cưỡng lại được của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ở chỗ có một “cốt truyện ly kỳ”; Tác giả viết: “Anh thường dựng lên những cuộc phiêu lưu của nhân vật này, nhân vật nọ để mượn cớ đưa người đọc vào những thế giới đầy cảnh lạ, chuyện lạ. Chẳng hạn anh đưa người ta vào rừng để xem săn khỉ, xem gấu quần nhau với người; hoặc về nông thôn xem thả diều, bắt cá, đánh vật, v.v… Anh lại đưa người ta vào quá khứ, vào lịch sử. Lịch sử nước ta thì còn đầy những sự lẫn lộn giữa chính sử với dã sử, huyền bí, anh tha hồ mà bịa đặt thêm thắt vào cho thành thật ly kỳ” (25, 458). b. Số phận con người (nhân vật). Nhà phê bình văn học trẻ Nguyễn Thanh Sơn đã chỉ ra: “Những con người” đầy những thành kiến ngộ nhận” (nhân vật trong truyện) đã đánh mất những gì làm nên niềm vui sống của cuộc đời, cuộc sống đối với họ chỉ còn là cuộc đấu tranh sinh tồn để kiếm miếng ăn, vui lòng với thứ văn hóa lá cải dành cho họ. Một đám đông mất dần ý thức công dân cũng như lương tâm của mình. Sự nghèo nàn cả về cuộc sống vật chất lẫn tinh thần chính là bóng đen nuôi dưỡng cái ác. Những “mảnh đất cằn đã làm cho con người trở nên ti tiện”, “những đố ky, hằn thù, ganh ghét, những định kiến hẹp hòi và đạo đức giả” đã làm thoái hóa bản chất của con người lương thiện, của phần người trong mỗi một con người” (25, 120). Nguyễn Văn Lưu sau khi khẳng định tài năng văn chương Nguyễn Huy Thiệp đã lên án Nguyễn Huy Thiệp “phơi bày trên những trang viết của mình cái gai góc, dữ dằn, những con người quái hình dị dạng. Cuộc sống và con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất đáng thương, đáng ghét, hãi hùng, quái dị. Không khí trong “Tướng về hưu” sắc cạnh như một rừng chông nhọn. “Con gái thủy thần” là một trò đùa tai ác, con người ở đây không có tài năng trí tuệ, không thể tiếp thu được những học vấn, những lý luận và học thuyết. Trong “Muối của rừng”, con người hiện lên cô đơn, trần truồng và đáng buồn cười, còn con khỉ lại trở thành con người ghê gớm tinh quái…”. Văn của Nguyễn Huy Thiệp không phải là không có lòng thương con người, không có cái tâm khi cầm 6 bút nhưng đó là “lòng thương của một vũ phu già đòn non nhẽ, như một kẻ lọc lõi sự đời, về già ngồi phán những câu thế thái nhân tình cho con cháu…” (21, 15). c. Cuộc sống hiện tại và đạo lý cần vươn đến. TS Đoàn Hương trong “Người kể chuyện cổ tích hiện đại” cho rằng: Văn chương của Nguyễn Huy Thiệp không phải là một cô gái đẹp không trang điểm mà là một cô gái xấu không trang điểm vì biết mình có một vẻ đẹp khác thường, nhưng vẻ đẹp ấy đắng và chát lắm. Lõi vẻ đẹp ấy là ở sự thật, ở hiện thực. Đó là vẻ đẹp trong “Muối của rừng”. Đẹp một cái đẹp giản dị, với cốt truyện đơn giản: truyện kể về một cuộc đi săn trong rừng, nhân vật gồm có một con người và một gia đình khỉ. Con người với sự mạnh mẽ và khôn ngoan, được trang bị vũ khí hiện đại lại thua một gia đình khỉ. Qua truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp đã chỉ ra một sức mạnh ghê gớm: sức mạnh của qui luật tự nhiên. Kết thúc truyện đầy nhân ái: con người tự nhận ra cái ác của mình mà rời bỏ sau khi đã nhận được bài học đích đáng của tự nhiên. Cả câu chuyện là một bài học được rút ra từ thiên nhiên. Thiên nhiên là người thầy lớn nhất của cuộc sống và con người” (15, 154). 2. Đi sâu phân tích kết cấu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Văn Giá cho rằng: “truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không có kết thúc rành mạch theo những giải pháp dễ dãi. Anh luôn đưa ra những giả định có thể thế này, có thể thế kia, hối thúc người đọc suy nghĩ tự tìm ra lối kết thúc theo cách riêng của mình, không cho phép họ lười biếng ăn sẵn” (25, 497). Đông La nhận xét: “Cấu trúc chuyện của anh dường như còn rất ít bóng dáng các kết cấu chặt chẽ, khuôn mẫu như trong truyện ngắn cổ điển (…) Truyện ngắn của anh không vậy, nó có kết cấu như kết cấu của tiểu thuyết, nó lỏng lẻo như chính cái lỏng lẻo của cuộc sống (…) Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất dài, nhưng không dài dòng, lê thê. Văn anh có kể nhưng không có kể lể, có tả nhưng không quá chi tiết, rườm rà; anh chỉ nhấn những nét chính, ấn tượng nhất từ xa đến gần, từ thấp thoáng đến chi tiết, li ti, sát sạt…” (25, 139). Tác giả Diệp Minh Tuyền chỉ ra nét mới trong cách dựng truyện của Nguyễn Huy Thiệp: Nguyễn Huy Thiệp đã kết hợp được truyền thống và hiện đại; biệt tài kể chuyện theo kiểu chương hồi Á Đông đã kết hợp chặt chẽ, hài hòa với lối hành văn ngắn gọn, súc tích, nhịp điệu dồn dập của nghệ thuật hiện đại. Nguyễn Huy Thiệp đã kết hợp giữa hiện thực và huyền thoại (…). Năng lực tưởng tượng mạnh mẽ, tài chọn lựa chi tiết độc đáo, sống động, tính logic trong 7 cách bố cục đã giúp nhiều cho cách dựng truyện đầy biến hóa của anh…(25, 399). 3. Đi sâu phân tích nghệ thuật viết văn của Nguyễn Huy Thiệp. Trước khi đưa ra kết luận về lối viết truyện mới lạ của Nguyễn Huy Thiệp, Đặng Anh Đào trong “Thị hiếu và lối đọc truyện hiện nay qua một cuộc tranh luận” đã đưa ra một giả thuyết: Gần đây, có ba người viết truyện được nói tới nhiều: Lê Lựu, Dương Thu Hương và Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng “Thời xa vắng” không gây được cuộc tranh luận, cuộc trao đổi về “Bên kia bờ ảo vọng” sớm chấm dứt. Chỉ có truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là có quy mô tranh luận rộng và dai dẳng nhất. Vì sao vậy? Vì sao lại là Nguyễn Huy Thiệp chứ không phải là ai khác? Vì sao truyện của Nguyễn Huy Thiệp vẫn là mắt bão trong khi những truyện khác đụng chạm đến những khủng hoảng và mặc cảm xã hội vẫn bị gạt ra ngoài?. (37, 202). Tác giả lý giải: Có nhiều nguyên nhân (đơn giản là hai truyện của Lê Lựu và Dương Thu Hương không dễ phổ cập…), nhưng nguyên nhân chính, theo tác giả là truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp vừa dễ tiếp cận với người đọc trung bình – lại vừa mới, vừa lạ, ở đây chúng tôi nhấn mạnh gạch nối giữa hai vế, chỉ một vế tạo thành lực thu hút. Một lối viết bề ngoài giản dị, trong sáng nhưng bên trong lại phức tạp, nhiều tầng lớp. Nó giữ được độ căng giữa truyện và người đọc, phù hợp với thị hiếu hiện nay, bởi những người chê Nguyễn Huy Thiệp vẫn là những người thích đọc Nguyễn Huy Thiệp cũng không có gì là mâu thuẫn. Khi “tưởng tượng” về Nguyễn Huy Thiệp, Vương Trí Nhàn đã hào hứng khi cho rằng: “Nguyễn Huy Thiệp xứng đáng được nhận “Cây bút vàng”. Bởi lẽ: “Sự độc đáo kỳ lạ là một yêu cầu cần thiết với văn học, thế nhưng một phong cách như Nguyễn Huy Thiệp hai lần kỳ lạ vì nó mang tới cái chất mà lâu nay trong văn học Việt Nam hơi thiếu – chất kiêu bạc, tàn nhẫn, cay đắng. Bằng một lối kể của một kẻ vừa trải đời, vừa chán đời, và không còn những hy vọng dễ dãi vào đời…”(25, 405). Qua phân tích ý kiến của các tác giả đi trước, chúng tôi thấy phần lớn họ mới chỉ dừng lại ở nhận xét tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp dưới góc độ lý luận phê bình chứ chưa có công trình nào dài hơi đi sâu tìm hiểu ở bình diện ngôn ngữ học, mà chỉ có một số bài viết ngắn nhận xét đặc điểm ngôn ngữ Nguyễn Huy Thiệp qua một số truyện tiêu biểu như Nguyễn Thị Hương với “Hiệu quả nghệ 8 thuật của lời thoại nhân vật trong truyện ngắn “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp” (42, 171). Một số luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ tuy không trực tiếp đề cập đến tác giả Nguyễn Huy Thiệp, nhưng đã đề cập đến lời thoại nhân vật trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; trong truyện ngắn của một số tác giả như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Thị Thu Huệ, Ma Văn Kháng… đã tạo cơ sở và tính định hướng về lý luận và thực tiễn cho đề tài của chúng tôi. Đó chính là lý do chúng tôi đi sâu tìm hiểu vấn đề: “Ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. Để thực hiện đề tài này chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau: 1. Phương pháp thống kê phân loại. Chúng tôi đã thống kê các cuộc thoại trong 21 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp từ tập “Như những ngọn gió”, trên cơ sở đó đi vào phân loại các kiểu nhóm cấu trúc và ngữ nghĩa, khái quát thành những dạng thức hội thoại khác nhau. 2. Phương pháp so sánh đối chiếu. Để tiến hành phân loại các nhóm nghĩa một cách phù hợp, chúng tôi đã sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu các dạng thoại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp như ngôn ngữ đối thoại xen độc thoại giữa các nhân vật, các dạng thoại cụ thể của từng nhân vật, cũng như so sánh ngôn ngữ hội thoại truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và ngôn ngữ hội thoại của một số tác giả khác (Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Phạm Thị Hoài). 3. Phương pháp phân tích và tổng phân hợp. Trên cơ sở thống kê tư liệu, so sánh đối chiếu, chúng tôi phân tích cụ thể những đặc điểm ngôn ngữ hội thoại truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đó là những đặc điểm về cấu trúc, về ngữ nghĩa, đặc biệt là các dạng hành động của lời thoại nhân vật trong mối quan hệ với xã hội, với thời gian vận động và không gian sinh tồn, và mạch ngầm về ước mơ, khát vọng của tác giả. V. CÁI MỚI CỦA ĐỀ TÀI. Đây là đề tài đầu tiên đi sâu nghiên cứu lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp dưới ánh sáng của lý thuyết ngữ dụng học có kết hợp với một số kiến thức lý luận có tính liên ngành như: Lý luận văn học, Thi pháp học, nó khác với sự nghiên cứu của một số người chỉ dừng lại đánh giá khái quát ngôn ngữ nhân vật ở bình diện lý luận phê bình văn học. Từ đó, chúng tôi lý giải quy luật hành chức của ngôn ngữ hội thoại nói chung và những đóng góp của 9 Nguyễn Huy Thiệp trong nghệ thuật xây dựng nhân vật trên phương diện ngôn ngữ, chỉ ra cái mạch ngữ nghĩa hàm ẩn – dòng chảy cảm xúc trữ tình chi phối mạch văn của Nguyễn Huy Thiệp. CHƯƠNG I HOÀN CẢNH GIAO TIẾP VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP I. LÝ THUYẾT HỘI THOẠI VÀ CÁC DẠNG THỨC HỘI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP. 1. Lý thuyết hội thoại. 1.1 Khái niệm hội thoại. Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Theo Đỗ Thị Kim Liên: “Hội thoại là một trong những hoạt động ngôn ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ cảnh nhất định mà giữa họ có sự tương tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích nhất định” (20, 18). Ở đây, chúng tôi đề cập đến lời trao - đáp của nhân vật đã được chủ thể nhà văn tái tạo lại và thể hiện trong tác phẩm văn học, vì vậy bên cạnh các yếu tố ngôn từ của nhân vật còn có sự tham gia của yếu tố phi ngôn ngữ (như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ…) được nhà văn miêu tả bằng lời chú giải nhằm bộc lộ cảm xúc chủ quan của người tham gia hội thoại: Ví dụ 1: “Có tiếng gõ cửa. Bà Thiều nhỏm dậy nhìn ra: - Ai đấy? - Hạnh đây… - Tiếng ho húng hắng có vẻ bồn chồn. … - Đi đâu mà bảnh thế cháu? - Nhớ cô quá ! – Hạnh cười cầu tài. Ánh mắt ve vuốt người đàn bà. – Cô có một sức thu hút mọi người đến khiếp ! Em Thoa có nhà không cô? - Em nó đi học tiếng Anh. Ngoài giờ buổi tối, ban ngày thỉnh thoảng nó đi học nhóm” (Huyền thoại phố phường, 80). 10 Ở đoạn thoại trên, sau mỗi lời đáp của Hạnh, tác giả chú thích thêm về thái độ biểu hiện bằng dấu hiệu “ngang nối” (-). Trong hội thoại, sự xuất hiện của số lượng nhân vật tham gia đã quy định các dạng thoại (đơn thoại, song thoại, tam thoại, đa thoại – Chúng tôi sẽ đề cập sau). 1.2. Vận động hội thoại. Vận động giao tiếp của ngôn ngữ thông thường gồm ba vận động: sự trao lời, sự trao đáp và sự tương tác. 1.2.1. Sự trao lời. Trao lời là “vận động người nói A nói ra và hướng lời nói của mình về phía người nhận B”. Tình thế giao tiếp trao lời ngầm ẩn rằng người nhận B tất yếu phải có mặt, “đi vào” trong lời của A. Vì thế “ngay trước khi B đáp lời thì B đã được vào trong lời trao của A và thường xuyên kiểm tra, điều hành lời nói của A. Cũng chính vì thế, ở phía người nói – người trao lời, nói năng có nghĩa là “lấn trước” vào người nghe B, phải dự kiến trước phản ứng của người nghe để chọn lời thích hợp, để làm sao có thể “áp đặt” điều mình muốn nói vào B” (3, 41). Khi trao lời, có các vận động cơ thể (điệu bộ, nét mặt, cử chỉ,…) hướng tới người nhận hoặc hướng về phía mình (gãi đầu, gãi tai, đấm ngực…) bổ sung cho lời trao: Ví dụ 2: Hắn hầm hầm chĩa vào mặt mụ mà bảo rằng: - Cái giống nhà mày không ưa nhẹ ! Ông mua chứ ông có xin nhà mày đâu ! Mày tưởng ông quỵt hở? Mày thử hỏi cả làng xem ông có quỵt của đứa nào bao giờ không? Ông thiếu tiền ! Ông còn gửi đằng cụ Bá, chiều nay ông đi lấy về ông trả. (Chí Phèo, Nam Cao) Ở ví dụ trên, câu trao của Chí hướng tới người nhận là “con mẹ hàng rượu” bằng các từ: “cái giống nhà mày”, “mày”. Trong câu trao đã có sự hiện hữu của người nhận. Thái độ của Chí Phèo được tác giả miêu tả bằng câu dẫn “Hắn hầm hầm chĩa vào mặt mụ” cho thấy sự lên gân, chì chiết của Chí. 1.2.2. Sự trao đáp. Hội thoại chính thức hình thành khi người nghe B đáp lại lượt lời của người nói A. Trở lại ví dụ 2, sau lời đe doạ, lên gân của Chí Phèo, mụ bán rượu đáp lại lời của Chí tạo thành một cặp trao - đáp. 11 “Mụ vừa kéo vạt áo lên quệt nước mũi, vừa bảo: - Chúng cháu không dám chắc lép nhưng quả là ít vốn” Khi xuất hiện lời đáp của người nhận B thì vận động trao đáp – cái lõi của hội thoại sẽ diễn ra liên tục, lúc nhịp nhàng, lúc khúc mắc, lúc nhanh, lúc chậm với sự thay đổi của vai nói – vai nghe. Chẳng hạn ở ví dụ 1 (1.1), trong cặp thoại thứ nhất, bà Thiều sắm vai người nói dưới hình thức câu hỏi, còn Hạnh sắm vai nghe- trả lời. Trong cặp thoại thứ hai, bà Thiều vẫn sắm vai người nói ở lời trao, nhưng ở lời đáp, Hạnh đã có sự chuyển vai thoại sang người trao lời khi xuất hiện câu hỏi: “Em Thoa có nhà không cô?”, lúc đó bà Thiều lại trở thành người nhận lời và có sự đáp lời: “Em nó đi học…”. Sự thay đổi vai thoại diễn ra thường xuyên trong hội thoại và là yếu tố cho sự phát triển hội thoại đạt đến đích mong muốn. 1.2.3. Sự tương tác. Trong hội thoại, các nhân vật giao tiếp ảnh hưởng lẫn nhau, tác động qua lại với nhau làm biến đổi lẫn nhau. Trước cuộc hội thoại, nhân vật có sự khác biệt, đối lập về tính cách, tâm lý, hiểu biết, tình cảm… Trong quá trình tham gia vào hội thoại, nhân vật sẽ tự điều phối những khác biệt này để cùng cộng tác đi đến thỏa hiệp, hoặc có thể phát triển cao hơn, mở rộng những khác biệt này làm cho cuộc thoại đi đến xung đột. Đây chính là sự tương tác trong hội thoại. Theo Đỗ Hữu Châu, sự tương tác được hiểu là: “Các nhân vật giao tiếp ảnh hưởng lẫn nhau; tác động lẫn nhau đến cách ứng xử của từng người trong quá trình hội thoại” (3, 42). Với văn bản tác phẩm văn học, sự tương tác hội thoại có thể phát triển theo những chiều hướng khác nhau: a. Tạo điều kiện cho tâm lý nhân vật phát triển, đưa cuộc thoại đạt đến đích như cuộc thoại của Hạnh và bà Thiều trong “Huyền thoại phố phường” (81), đích của hội thoại ở đây là đổi chiếc vé số. b. Làm cho hội thoại thêm căng thẳng và đi đến xung đột do không hòa phối được những khác biệt, ví dụ ở cuộc thoại của Chí Phèo và Bá Kiến khi Chí Phèo đòi Bá Kiến trả lại quyền làm người lương thiện: “Ai cho tao lương thiện” (Chí Phèo, Nam Cao). Hoặc ở cuộc thoại bố-con, vợ-chồng, anh-em trong Không có vua xung quanh chiếc nhẫn của chị Sinh bị mất, xung đột xảy ra khi Cấn tát Sinh và Đoài giơ nắm đấm doạ Cấn: “Cút đi ! Anh mà đụng vào cô ấy là tôi chém liền !” (101). c. Hé gợi sự tình của nhân vật như cảm giác “lạc loài” của vị “Tướng về hưu” (48). 12 Ba vận động trao lời, trao đáp và tương tác là ba vận động đặc trưng cho hội thoại, trong đó, hai vận động đầu do từng đối tác thực hiện nhằm phối hợp với nhau thành vận động thứ ba. Bằng vận động trao lời và trao đáp, các nhân vật hội thoại sẽ tự hòa phối để thực hiện sự tương tác trong hội thoại. 2. Các dạng thức hội thoại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua khảo sát và thống kê truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi bắt gặp các dạng thức hội thoại sau: 2.1. Đơn thoại. Là lời thoại của một nhân vật phát ra hướng đến người nghe nhưng không có lời đáp trực tiếp. Việc tiếp nhận nội dung lời thoại được phản hồi bằng hành động thực hiện hay cử chỉ không được tác giả trực tiếp mô tả. Dạng đơn thoại biểu hiện rõ nhất ở kiểu lời trần thuật của nhân vật, có nghĩa là lời nói của nhân vật có xen một yếu tố kể của mình, của người. Chẳng hạn, ký ức của “tôi” trong một lần về quê bạn là được nghe chị Hiên kể về những kỉ niệm của chị trong Những bài học nông thôn: “Chị Hiên thủ thỉ: “Ở nhà quê buồn lắm. Tôi mới được ra Hà Nội mỗi một lần. Hồi ấy chưa lấy chồng, vui vui là, nhưng cứ sợ. Người Hà Nội ai trông cũng ác. Hôm ấy ở bến xe, có ông đeo kính, để râu con kiến, tuổi bằng bố tôi bảo: “Cô em ơi, cô em đi với anh đi”. Tôi sợ quá tôi bảo: “Ông này hay nhỉ?”. Ông ấy cười: “Xin lỗi nhé, tôi tưởng em là bò lạc”. Tôi chẳng hiểu bò lạc là gì. Sau đó anh Tân (tức chồng tôi đấy) đi lại, ông này chuồn mất. Tôi kể với anh Tân. Anh Tân sầm mặt lại: “Bọn thành phố toàn quân mất dạy”. Tôi không biết thế nào, nhưng người thành phố ai nói cũng hay, hơi tí thì xin lỗi”. Chị Hiên lại thủ thỉ: “Ở nhà quê sợ nhất là buồn chán. Công việc chẳng sợ. Nhiều khi buồn chán quá, cứ bã người ra. Hồi ấy anh Tân đi bộ đội, tôi đã định tự tử vì buồn chán quá. Tôi nằm một mình ở ruộng ngô, giữa tổ kiến vàng. Tôi tưởng kiến vàng đốt thì nhất định chết. Thế mà không chết. Nó thương mình hay sao chứ?. Chắc nó thấy tôi trẻ quá chết thì phí”…(298). Đáp lại câu chuyện của chị Hiên là khoảng lặng “tê tái” của “tôi” với sự liên tưởng về bố mẹ. Sự đánh thức khát khao tuổi trẻ của chị Hiên làm “tôi” thẫn thờ đau xót… Với động từ dẫn: “Chị Hiên thủ thỉ”, “Chị Hiên lại thủ thỉ” cho ta cảm giác đây không phải là một cuộc thoại nữa mà là lời gửi gắm nỗi lòng chị với “tôi”. Thực chất đây đã thiên về cuộc đối thoại nội tâm. Dạng đơn thoại, còn tồn tại ở kiểu cấu trúc mệnh lệnh sai khiến. “- Cẩn thận ! - Giúp với ! 13 - Giúp họ một tay ! Chàng trai cởi áo khoác đưa cho cô gái. Anh đến chỗ chiếc xe đổ” (Sang sông, 309). Không có bất cứ lời đồng ý nào đáp lại nhưng vẫn đầy hiệu quả. Thay bằng lời đáp là hành động sẵn sàng của nhân vật. Vì vậy mà cuộc thoại đạt đến đích. Dĩ nhiên, dạng đơn thoại là vắng lời đáp, nhưng theo chúng tôi lời đáp nhân vật nếu không chứa thông tin câu trao thì cũng có thể xếp vào dạng thoại này. Chẳng hạn như: “Ông Chưởng bảo: “Cha anh là người đáng trọng”. Tôi hỏi: “Theo nghi lễ quân đội hả chú”… (Tướng về hưu, 52). Mỗi nhân vật tự đeo đuổi theo một ý nghĩ riêng của mình. Kiểu nói năng đối đáp như vậy không tạo được sự hàn gắn về ngữ nghĩa. Điều đó giải thích tại sao truyện của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều câu thoại bâng quơ đến thế, nhiều câu thoại không hướng về một cái đích nào cả. Sang sông là một truyện ngắn chứa nhiều câu thoại kiểu này nhất (13/75 câu). Với Nguyễn Huy Thiệp, ông luôn để cho độc giả tự suy nghĩ về những vấn đề ông đặt ra trong tác phẩm nên ngôn ngữ nhân vật đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện mục đích này. Ở truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta bắt gặp hiện tượng đối thoại ngầm. Có một đoạn đối thoại giữa hai người, trong đó những câu đối đáp của người tiếp chuyện thứ hai bị bỏ trống, nhưng ý nghĩa chung không hề bị suy chuyển. Người trò chuyện thứ hai hiện diện vô hình, tiếng nói của anh ta cũng vô hình, nhưng dấu vết sâu sắc của lời đó lại qui định tất cả những lời nói hữu hình của người trò chuyện thứ nhất. Trong Những bài học nông thôn, thầy giáo Triệu như là một ẩn dụ cho hình tượng tác giả. Các phát ngôn của Triệu là những quan niệm nhân sinh, nhân bản, đầy bức xúc, nhọc nhằn: “…Anh Triệu thở dài, suy nghĩ một lát rồi chậm rãi nói: “Còn điều này nữa, đã nói thì nói cho xong. Thời loạn dứt khoát phải có một nền thống trị bá đạo. Còn thời bình, đường lối chính trị bá đạo sẽ đưa dân tộc đến thảm họa. Chỉ có một nền chính trị vương đạo, dân chủ, tín nghĩa và văn hóa đạo đức cao mới làm cho đất nước phồn vinh”. Chúng tôi lặng im. Anh Triệu bảo: “Hiếu này, chú đừng nghe tôi. Tôi nông cạn và sai lầm lắm. Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ở nông thôn”. Tôi nhìn anh thương xót, tự dưng nước mắt tôi ứa cả ra. Tôi úp mặt xuống bờ cỏ để anh khỏi thấy rằng tôi đang khóc”. (311). 14 Ở đoạn đối thoại trên, chúng ta chỉ thấy anh Triệu phát ngôn, còn nhân vật “tôi” thì im lặng. Nhưng chính sự im lặng của nhân vật tôi lại tác động sâu sắc đến nội dung phát ngôn của anh giáo Triệu. Anh giáo Triệu muốn gửi gắm quan niệm sống của anh vào nhân vật tôi – một trí thức sống ở thành phố hãy cố gắng đi đến nền chính trị vương đạo. Ở Muối của rừng ta thấy thực chất đấy là một cuộc chuyện trò, mặc dù chỉ có một người nói (ông Diểu) nhưng lại là cuộc chuyện trò hết sức căng thẳng, bởi vì mỗi lời có mặt ở đây bằng toàn bộ cơ thể mình đều nhằm đáp lại phản ứng của người tiếp chuyện vô hình. Mỗi lời của ông Diểu (dù rất ít) đều hướng đến gia đình khỉ, tìm cách có thể cứu gia đình khỉ và bảo vệ an toàn tính mạng của mình. Đây là câu chuyện cảm động, đầy lòng nhân ái, sự nhân ái được đánh thức bởi thiên nhiên. Cuộc đối thoại này là cuộc đối thoại với thiên nhiên. 2.2. Song thoại. Đây là dạng thoại chủ yếu và được quan tâm nhiều nhất của lý thuyết hội thoại. Song thoại làm nền tảng cho việc nghiên cứu đa thoại. Theo Nguyễn Đức Dân: “Nếu không có chú thích gì đặc biệt thì thuật ngữ hội thoại được hiểu là song thoại” (8, 77). Song thoại là lời của người trao hướng đến người nghe và có sự đối đáp bằng hành vi ngôn ngữ - Chúng tôi gọi là hành vi trao lời và hành vi đáp lời. Ở dạng thoại này, nhân vật trực tiếp đưa lời nói của mình vào hội thoại, bảo đảm yếu tố lời trao và lời đáp của nhân vật, bảo đảm nguyên tắc luân phiên lượt lời hội thoại. Về mặt hình thức, chúng ta có thể nhận ra “tác giả” của lời nói qua hệ thống tên riêng (hoặc ký hiệu) của nhân vật. Ví dụ: “…Đoài hỏi: “Sinh biết nhà này tương lai thuộc về ai không?” Sinh bảo: “Không”. Đoài bảo: “Về tôi”. Sinh hỏi: “Sao thế?”. Đoài bảo: “Bố già bố chết. Thằng Khiêm trước sau cũng vào tù. Thằng Khảm ra trường không đi Tây Bắc cũng Tây Nguyên. Thằng Tốn không nói làm gì, vô tích sự?” Sinh hỏi: “Thế còn anh Cấn?”. Đoài bảo: “Phụ thuộc vào Sinh. Nếu Sinh yêu tôi, tôi sẽ gây sự tống cổ ra đường”. Sinh bảo: “Dễ thế?”. Đoài bảo: “Sinh còn quyến luyến cái gì? Lão Cấn vừa ngu, vừa hèn, lại vừa yếu, bác sĩ bảo bị lãnh tinh, lấy Sinh hai năm mà có con cái gì đâu?” (Không có vua, 104). Ở đoạn thoại trên, qua lời dẫn, xuất hiện hai nhân vật tham gia vào hội thoại là Sinh và Đoài, mỗi lời đáp đều hướng vào trọng điểm hỏi, hướng vào nội dung của câu trao, mỗi một lời trao là một lời đáp, không có hiện tượng đè lên nhau, mặc dù là một đoạn thoại bộc lộ bản chất xấu xa của Đoài, sự tính toán khốn nạn của Đoài nhưng Sinh bình tĩnh chất vấn ! Đoài bình tĩnh giải thích ! 15 Có thể không có lời dẫn và từ dẫn mà được biểu hiện bằng dấu hiệu hình thức “gạch ngang đầu dòng”: “-Này, tớ van mình… Mình đừng yêu hắn. - Ừ. - Để tớ kể mình nghe chuyện này. Ngày xưa hắn đã yêu một thiếu nữ. Cô ấy con nhà gia giáo, mình có biết một thiếu nữ trinh thục là thế nào không? Môi cô ta lúc nào cũng thắm đỏ. Đáy mắt cô ta ánh xanh như vỏ trứng chim sáo. Cô ta được nuôi dưỡng bằng chuyện cổ tích và toàn cơm tám giò chả. Một thiếu nữ được nuôi như thế thì da trắng hồng… - Thôi mình bỏ trò miêu tả ấy đi. Khó chịu lắm. Một thiếu nữ trinh thục rất là khó chịu” (Mưa, 247). Ở dạng song thoại xuất hiện một hiện tượng: về hình thức nó là đối thoại (có lời trao và lời đáp hẳn hoi), nhưng về mặt nội dung lại là tự nói với mình, tự suy ngẫm về mình, chủ yếu cốt để diễn đạt, bày tỏ những suy nghĩ thầm kín của mình mà không quan tâm lắm đến người tiếp chuyện. Chúng tôi gọi dạng thoại này là đối thoại xen độc thoại, đây là một dạng thoại được vận dụng do hệ quả của song thoại. Ví dụ: “Cha tôi bảo: “Anh nhu nhược. Duyên do là anh đếch sống được một mình”. Tôi bảo: “Không phải, cuộc đời nhiều trò đùa lắm”. Cha tôi bảo: “Anh cho là trò đùa à?”. Tôi bảo: “Không phải trò đùa nhưng cũng không phải nghiêm trọng”. “Cha tôi bảo: “Sao tôi cứ như lạc loài” (Tướng về hưu, 48). “Sao tôi cứ như lạc loài” là lời tự nói với mình, sự tự ý thức về cuộc sống hiện tại của vị tướng với những ngày nghỉ hưu đầy sóng gió. Có khi độc thoại là động cơ cho đối thoại. Bằng hình thức đối thoại nhưng có sự miêu tả dòng suy nghĩ bên trong nhân vật. …- “Phật sẽ phù hộ cô thôi -… “Dứt khoát – Hạnh nghĩ – Ta phải lập tức trở thành tình nhân của mụ bằng mọi giá. Thời giờ chật chội quá. Cần phải đổi được chiếc vé lập tức bây giờ”… - Cô độc đáo lắm – Hạnh thả mồi câu – Những người phụ nữ độc đáo bây giờ rất hiếm !” (Huyền thoại phố phường, 81) Hành động tính toán thầm của nhân vật Hạnh “Dứt khoát…” là động cơ mãnh liệt cho việc “Hạnh thả mồi câu”. Cách nghĩ của Hạnh không chỉ nằm trong dự 16 định nữa mà đã nhanh chóng đi đến quyết định. Đây là độc thoại không thiên về dằn vặt nội tâm như các nhân vật của Nam Cao mà là độc thoại có chủ đích, chủ hướng rõ ràng. Độc thoại còn là sự linh cảm, báo hiệu một điều gì đó dẫn dắt cho lời thoại: “Sáng hôm sau ngủ dậy thì tôi nghe thấy có tiếng gọi cổng. Tôi ra thấy Khổng đứng ngoài. Tôi nghĩ: “Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình”. Khổng bảo: “Anh Thuần ơi, anh có điện. Ông cụ mất rồi”. (Tướng về hưu, 51). Dạng đối thoại xen độc thoại đã tạo cho chúng ta nhận ra khả năng “giấu mặt” của tác giả, tác giả đã không sắm vai là “người biết tuốt mọi chuyện”, hiểu rõ mọi số phận nhân vật. Tác giả đã để cho nhân vật tự nói lên tất cả, tự lột mặt mình. Song thoại là dạng thức hội thoại cơ bản của lý thuyết hội thoại và cũng là dạng thức chủ yếu của hội thoại truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. 2.3. Tam thoại. Trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày cũng như trong tác phẩm văn học luôn xẩy ra hiện tượng có hơn hai nhân vật giao tiếp trở lên, như cuộc trao đổi giữa cha mẹ và con cái… Ở hình thức giao tiếp này, chúng ta có thể quy về dạng tam thoại. Hội thoại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện dạng thức hội thoại này với một số biểu hiện sau: Có thể tính đếm được một cách rõ nhất số lượng nhân vật tham gia vào hội thoại: Ví dụ: “Cha tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú. Vợ tôi bảo: “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức”. Cha tôi cười: “Chẳng có gì đâu cha chỉ viết thư… Thí dụ… Cha viết như thế được không?”. Tôi bảo: “Được”. Vợ tôi bảo: “Không được”. Cha tôi gãi cằm: “Người ta nhờ mình” (Tướng về hưu, 37) Ở cuộc thoại trên xuất hiện ba nhân vật giao tiếp: Cha tôi – Tôi và Vợ tôi, nội dung của nó xoay quanh công việc của ông tướng trong những ngày nghỉ hưu. Cả ba nhân vật đều bình đẳng, tự do khi đưa ra ý kiến của mình. Có trường hợp vai phát nói lượt lời của mình hướng đến vai nhận, nhưng ranh giới giữa người nhận chính yếu và thứ yếu không được xác định rõ ràng và có sự dao động, từ vai trò của người nhận chính yếu (trực tiếp) có thể chuyển sang vai trò của người nhận thứ yếu, và ngược lại. Về mặt hình thức, tam thoại kiểu này đã làm cho vai trò của người nhận trực tiếp bị lu mờ đi: 17 Ví dụ: “…Bố Lâm lên nhà, ông rót nước ra bát mời tôi. Ông bảo: “Không đi đâu à? Cứ nghe bà lão nhà tôi trò chuyện rồi cậu phát điên có ngày”. Bà Lâm bảo: “Phải. Tôi ngu ngốc”. Bố Lâm bảo: “Không ngu nhưng ác”. Bà Lâm bảo: “Ác tâm mới sợ chứ ác khẩu có gì mà sợ”… (Những bài học nông thôn, 302) Khi người nói (bố Lâm) hướng câu hỏi trực tiếp đến nhân vật tôi, nhưng vai trò của nhân vật tôi đã bị lu mờ đi, câu trao đã hướng đến người tiếp nhận thứ ba (bà Lâm) khiến đối tượng tiếp nhận thứ yếu này trở thành chính yếu và lập tức có sự phản hồi ở câu đáp. Điều đáng nói là Nguyễn Huy Thiệp đã không miêu tả những tín hiệu phi lời (như hướng nhìn, ánh mắt của người trao hướng vào ai) để độc giả dễ đoán định ra mục đích của câu trao là gì, “chọc tức” ai, ông dành cho nhân vật cái giọng tưng tửng bằng chính ngôn ngữ của nhân vật. Có thể nói ở trường hợp trên tam thoại đã chuyển thành song thoại. 2.4. Đa thoại. Dạng thức này là lời của nhiều nhân vật đan xen vào nhau trong một ngữ cảnh hội thoại cụ thể, chúng tôi gọi đây là lời của đám đông (nhân vật). Dạng thức hội thoại này chúng ta có thể gặp trong “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng ở cảnh đưa tang cụ cố Hồng. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, lời của đám đông có xuất hiện, nhưng không nhiều. Tuy vậy, đây là sự sắp đặt đầy dụng ý của tác giả. Sang sông là một ví dụ tiêu biểu cho dạng đa thoại. Trên một con đò nhỏ nhưng tác giả đã khéo thu xếp một đám đông với rất nhiều loại nghề nghiệp (chị lái đò, bà buôn, nhà thơ, ông giáo, nhà sư, tướng cướp) và nhiều loại quan hệ (mẹ con, đôi tình nhân, bạn bè…). Sau đây là ngôn ngữ của đám đông ấy trên con đò chật hẹp: “Nhà thơ ngồi chênh vênh ở bên mạn đò. Anh khỏa tay xuống nước làm đò chao nghiêng. Tên cao gầy cau mặt vỗ vai nhà thơ: - Ông anh đừng đùa ! Chết ráo cả bây giờ. Nhà thơ ngơ ngác: - Nước trong quá ! Nhìn thấy những con cá thần tiên dưới đáy. Tên cao gầy bật cười: - Thật chịu thầy! Tôi chỉ thấy có cá diếc thôi Chú bé chen vào hùa với nhà thơ: - Cá thần tiên đấy ! Tên cao gầy lia mắt vào lòng thiếu phụ: - Con ơi, con hỏi mẹ con xem đấy là cá diếc hay cá thần tiên.” (Sang sông, 401). 18 Hoặc là cuộc thoại khi chú bé không rút tay ra được chiếc bình cổ thì mỗi nhân vật trên chuyến đò ấy đều góp vào một ý kiến, người thì bông đùa, “Đút tay vào lịch sử thì còn kẹt ở đấy còn lâu”, người thì đưa ra sáng kiến đùa cợt mà Nguyễn Huy Thiệp chú thích “không hợp tình cảnh chút nào”: “Chỉ còn cách chặt tay chú bé để cứu chiếc bình, sau đó lại đập vỡ bình để cứu tay chú bé” (409). Khi tên cướp đứng ra giải quyết sự việc xong thì xuất hiện những lời thoại với nội dung mới: “Tình yêu làm con người cao thượng” (412). Dạng thức đa thoại là vấn đề mà lý thuyết hội thoại đang bắt đầu nghiên cứu. Tên gọi của nó đã xác định số lượng nhân vật tham gia vào hội thoại: đám đông nhân vật mà ở đó nhân vật không được miêu tả rõ nét nó nằm trong quan hệ nào, chỉ biết rằng nó xuất hiện cùng với lượt lời để có thể nhận ra có nhân vật ấy trong đám đông ấy. Có khi chỉ bằng một câu dẫn mà chúng ta có thể nhận ra đó chính là ngôn ngữ của đám đông: “Bạn bè trong lớp đã chế giễu chúng: “Cái Thu là mẹ. Thằng Đăng là con! Cái gì thằng Đăng cũng đều hỏi mẹ” (Tâm hồn mẹ, 22). Cách nói này là sự đồng tình của bạn bè trong lớp của hai đứa bé, vì vậy tác giả chỉ cần dẫn một câu là đủ để miêu tả ngôn ngữ của đám đông. Hoặc là sự hô khích trong đám đánh vật: “…Rất nhiều tiếng gào, khuyến khích đô Thi: “Đánh đi ! Đánh cho chết mẹ nó đi” (Con gái thuỷ thần, 134). 2.5. Kết quả khảo sát. Qua khảo sát 21 truyện trong tổng số 30 truyện ở tập “Như những ngọn gió” chúng tôi đã thống kê được số lần xuất hiện các dạng thức hội thoại ở bảng sau: TT 1 2 3 4 Dạng thức hội thoại Đơn thoại Song thoại Tam thoại Đa thoại Số lần xuất hiện 58 187 34 8 Tỷ lệ ≈ 22,5% ≈ 64,5% ≈ 11,8% ≈ 2,2% Như vậy, dạng song thoại và đơn thoại chiếm số lần xuất hiện cao nhất. Trong phạm vi, giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ đề cập đến hai dạng: Song thoại (lời hai nhân vật) và Đơn thoại (lời một nhân vật). Đối với dạng “độc thoại” thì có thể xem là một dạng thoại đặc biệt của đơn thoại vì chỉ có một vai phát ngôn phát ra xuất hiện trên bề mặt, hoặc là của dạng song thoại vì vai đáp chỉ do cùng một nhân vật tự phân thân. Tiêu chí hình thức của dạng độc thoại có thể được mã hóa bằng dấu câu như dấu ngoặc kép (“…”), dấu gạch ngang (-) hoặc được báo 19 hiệu bằng các lời dẫn như: nghĩ, nghĩ thầm, tự nhủ, tự bảo, tự hỏi, bụng bảo dạ… Ví dụ: “Ăn uống xong, xách cái mâm đồng về, bụng bảo dạ: “Phải đi Kẻ Lủ” (Giọt máu, 176) Về hình thức của dạng độc thoại xin xem thêm Lê Thị Sao Chi (7, 16-17-18). Dạng độc thoại không được chúng tôi đi sâu khảo sát. Để nhận thức rõ hơn vì sao lúc xuất hiện dạng thoại này, lúc xuất hiện dạng thoại kia, chúng ta cần phải tìm hiểu hoàn cảnh giao tiếp tác động đến lời thoại nhân vật. II. HOÀN CẢNH GIAO TIẾP CỦA NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP. 1. Khái niệm hoàn cảnh giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp là hoàn cảnh xã hội và tâm lý mà trong đó ở một thời điểm nhất định người ta sử dụng ngôn ngữ, nó bao gồm những hiểu biết xã hội và những quy ước được suy ra bất thành văn của người nói và người nghe. Có hai loại hoàn cảnh giao tiếp: - Hoàn cảnh giao tiếp rộng: gồm hoàn cảnh địa lý, xã hội, lịch sử, chính trị, văn hóa… của một dân tộc. - Hoàn cảnh giao tiếp hẹp: là không gian, thời gian cụ thể trực tiếp mà cuộc thoại diễn ra. Hoàn cảnh giao tiếp có quan hệ mật thiết với quá trình giao tiếp của lời nói nên chúng tôi thấy cần thiết phải xem xét nhân tố này, từ đó mới lý giải được vì sao nhân vật lại nói như vậy, cái gì đã tác động lên lời thoại của nhân vật. Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Trong tác phẩm văn học, khi một nhân vật xuất hiện cùng với tiếng nói của nhân vật ấy thì đã bị một nền cảnh về không gian và thời gian chi phối. Sự chi phối của hai yếu tố này đã tác động đến sự lựa chọn từ xưng hô, yếu tố tình thái, nội dung lời thoại trong ngôn ngữ nhân vật. Bên cạnh mảng không gian và thời gian ấy, chúng tôi chỉ ra một số loại không gian và thời gian khác không trực tiếp tác động lên lời thoại nhân vật mà chỉ tác động một cách gián tiếp khiến cho nội dung lời thoại được xác lập trong một tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. 2. Hoàn cảnh không gian và thời gian giao tiếp của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. 2.1. Hoàn cảnh không gian. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan