Chương 1: Lý luận chung về tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá
tới
ngoại thương
Tỷ giá hối đoái là một trong những biến số kinh tế vĩ mô hết sức
nhạy cảm. Tỷ giá biến động từng ngày, từng giờ và chịu ảnh hưởng của
rất nhiều nhân tố. Bên cạnh các yếu tố mà ảnh hưởng của chúng đến tỷ
giá dễ dàng nhận biết như cung cầu ngoại hối, lãi suất, lạm phát, cán cân
thanh toán…tỷ giá còn chịu tác động bởi những yếu tố nếu thoáng qua sẽ
tưởng như chẳng có mối ràng buộc nào cả. Ví như công việc của một
người bán hàng rong: xét một cách cụ thể công việc của một người bán
hàng rong ảnh hưởng đến thu nhập của anh ta, đến lượt thu nhập lại tác
động lên chi tiêu thực tế, gây ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng và cuối
cùng là tỷ giá hối đoái thực tế. Mặc dù biến động của tỷ giá hối đoái là vô
cùng phức tạp song tỷ giá luôn là đề tài hấp dẫn đối với giới nghiên cứu
kinh tế cũng như các nhà quản lý vĩ mô trong bối cảnh tự do hóa thương
mại hiện nay. Các quốc gia trên thế giới từ lớn đến nhỏ, từ mạnh đến yếu
đều ý thức được rằng tỷ giá hối đoái sẽ là một công cụ hữu hiệu, một liều
thuốc cứu cánh cho thương mại các quốc gia nói chung cũng như ngoại
thương nói riêng đang trong tình trạng hấp hối. Việc nghiên cứu những lý
luận cơ bản về tỷ giá hối đoái dưới đây do đó sẽ giúp ta hiểu hơn tại sao
tỷ giá hối đoái lại quan trọng đối với các quốc gia đến như vậy.
1.1.Khái niệm, cơ chế hình thành và phân loại tỷ giá hối đoái:
1.1.1. Khái niệm:
Tất cả chúng ta đã quá quen thuộc với khái niệm thương mại trong
nước, khi ta mua cam Sài Gòn hay bưởi Vĩnh Long, tất nhiên chúng ta sẽ
trả bằng tiền đồng của Việt Nam và tất cả những người bán cũng muốn
1
chúng ta trả cho họ bằng đồng tiền như vậy. Điều đó cho thấy các giao
dịch kinh tế trong phạm vi một nước rất đơn giản. Song nếu chúng ta
muốn mua cam California (Mỹ) thì mọi việc sẽ hoàn toàn khác. Các nhà
xuất khẩu Mỹ sẽ muốn chúng ta trả cho họ đô la Mỹ chứ không phải tiền
đồng Việt Nam, do đó ta sẽ phải mua đô la Mỹ, từ đó dùng lượng đô la
này để trả cho họ. Một câu hỏi đặt ra liệu chúng ta sẽ cần bao nhiêu đô la
Mỹ ? Khi ấy, chúng ta sẽ phải quan tâm đến một khái niệm mới đó là: tỷ
giá hối đoái.
Karl Mark (1818-1883) chính là người đầu tiên đưa ra khái niệm tỷ
giá hối đoái. Trong bộ “Tư bản”(1858) ông viết: “Tỷ giá hối đoái là một
phạm trù kinh tế lịch sử, gắn với giai đoạn phát triển sản xuất của xã
hội, tính chất,cường độ tác động của nó phụ thuộc vào trình độ phát
triển thị trường và các giai đoạn cụ thể trong lưu thông tiền tệ thế giới”.
Đây là một khái niệm khá phức tạp mang nặng tính lý luận hơn nghiên
cứu thực tế song cũng đã thể hiện được phần nào tính lịch sử cũng như sự
vận động của tỷ giá. Sau Mark, tỷ giá hối đoái đã được hiểu đơn giản hơn
và cho đến nay khái niệm thường được sử dụng nhất là: Tỷ giá hối đoái
là giá cả của đồng tiền nước này tính theo đồng tiền nước khác (2). Điều
đó có nghĩa tỷ giá hối đoái cũng là giá cả song giá cả của một loại hàng
hóa đặc biệt: tiền tệ.
Mỗi quốc gia hiện nay thường tạo dựng cho mình một đồng tiền
riêng, đồng tiền nước này là ngoại tệ của nước khác, việc thanh toán giữa
các quốc gia đòi hỏi phải sử dụng đồng tiền này đổi lấy đồng tiền kia, từ
đó lại xuất hiện hai khái niệm cụ thể hơn về tỷ giá hối đoái xét trên phạm
vi một quốc gia:
2
*Tỷ giá là giá của đồng ngoại tệ tính theo đơn vị nội tệ. Khái niệm
này biểu trưng cho cách yết giá trực tiếp (ngoại tệ/nội tệ). Ví dụ tỷ giá
EUR/VND (EUR: euro, đồng tiền chung Châu Âu) trên thị trường Việt
Nam ngày 5/11/2003 là 18.142VND và ở đây giá 1EUR đã được biểu
hiện trực tiếp bằng VND.
*Tỷ giá là giá cả của đồng nội tệ tính theo ngoại tệ. Đây là khái
niệm chỉ cách yết giá gián tiếp (nội tệ/ngoại tệ), ví dụ như tỷ giá
CNY/VND (CNY: Nhân dân tệ) tại Bắc Kinh là 1.842, giá VND chưa
biểu hiện ra bên ngoài, do vậy để biết được giá VND, phải tiến hành
chuyển đổi như sau: 1VND = 1/1.842CNY.
Điều 4 mục 3.5 nghị định của Chính phủ về quản lý ngoại hối ban hành
17/8/1998 quy định: Tỷ giá hối đoái là giá một đơn vị tiền tệ nước ngoài
tính bằng đơn vị tiền tệ Việt Nam.
Để tiện nghiên cứu, trong toàn bộ đề tài này nếu không có ghi chú
gì đặc biệt thì tỷ giá tăng sẽ được hiểu là tỷ giá nội tệ tăng tức đồng nội tệ
tăng giá, còn tỷ giá giảm sẽ được hiểu là tỷ giá nội tệ giảm, đồng nội tệ
giảm giá. Điều này cũng có nghĩa phá giá làm tỷ giá hối đoái giảm còn
nâng giá làm tỷ giá hối đoái tăng.
Trong cách viết EUR/VND, EUR đứng trước gọi là tiền yết giá và là một
đơn vị tiền tệ; VND đứng sau là tiền định giá, là một số đơn vị tiền tệ
thay đổi phụ thuộc vào thời giá của tiền yết giá(35).
1.1.2.Cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái có một quá trình phát triển lâu dài, trải qua nhiều
chế độ khác nhau, các chế độ tỷ giá hối đoái luôn gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển của thương mại thế giới. Từ chế độ bản vị vàng
3
(1875-1914) đến chế độ bản vị hối đoái vàng (1944-1972) rồi chế độ tỷ
giá thả nổi, thả nổi có quản lý (1975 - nay), tỷ giá đều được hình thành
trên tương quan so sánh giá trị đồng tiền quốc gia này với quốc gia khác
bất kể đó là vàng hay là tiền tệ của một quốc gia đơn lẻ nào đó. Có thể
nói trong lịch sử phát triển của mình, tỷ giá được hình thành trên hai
ngang giá chính đó là ngang giá vàng và ngang giá sức mua.
1.1.2.1.Ngang giá vàng:
Trước năm 1850, rất nhiều quốc gia trên thế giới theo đuổi một chế
độ tiền tệ song bản vị: bạc và vàng là hai loại tiền tệ chính được lưu hành
trong thanh toán thương mại giữa các quốc gia, tỷ giá hối đoái do đó
được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng và bạc. Năm 1850,
khi khám phá ra hai mỏ vàng mới ở Mỹ và Úc, lượng vàng khai thác
được đổ dồn về các quốc gia Châu Âu. Nếu trước đó chỉ có Anh tiến
hành vàng hóa thanh toán (tức mọi giấy bạc của Anh đều đổi được ra
vàng) thì năm 1851, Pháp và một số quốc gia khác cũng đi theo bước
chân của Anh. Đồng bạc bị loại khỏi thanh toán và chế độ bản vị vàng bắt
đầu.
Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền của hai nước bất kì thời kỳ bản vị
vàng được quyết định dựa trên việc so sánh hàm lượng vàng của hai
nước với nhau. Giả sử hàm lượng vàng của đồng bảng Anh (GBP) là 1
ounce = 6 GBP trong khi hàm lượng vàng của franc Pháp (FRF) là 1
ounce = 12 FRF thì suy ra:
6GBP = 12FRF
1GBP = 2FRF
Có thể tổng quát hóa bằng công thức sau:
4
Tỷ giá hối đoái (đồng A/ đồng B)=
Hàm luong vàng trong 1 đon vi tiên A
Hàm luong vàng trong 1 đon vi tiên B
Dưới chế độ bản vị vàng, khi tiền giấy tự do đổi ra vàng và ngược
lại, thì mọi biến động của tỷ giá hối đoái sẽ tự động được điều chỉnh về
mức cân bằng. Hãy lấy ví dụ trên làm minh chứng. Với hàm lượng vàng
như trên giữa các đồng tiền GBP và FRF, giả sử GBP bị sụt giá trên thị
trường ngoại hối tức 1GBP= 1,8FRF; một nhà nhập khẩu Anh cần
1000FRF để mua hàng hóa từ Pháp; nếu nhà nhập khẩu mua trực tiếp
FRF bằng GBP, nhà nhập khẩu sẽ phải bỏ ra 555,56 GBP để có
1000FRF. Tuy nhiên, nhà nhập khẩu này đã dùng 1000FRF để mua vàng
tại Anh sau đó đổi từ vàng sang GBP. Qui trình 1 khiến nhà nhập khẩu
phải mua vàng để có 1000FRF với giá (1000/12)*6 = 500GBP; như vậy
nhà nhập khẩu này đã lãi 55,56 GBP. Các nhà nhập khẩu khác cũng sẽ
làm tương tự như vậy dẫn đến cầu đồng bảng tăng cho đến khi tỷ giá
quay trở lại vị trí cân bằng ban đầu 1GBP = 2FRF.
Chế độ bản vị vàng với cơ chế ngang giá vàng đã đem lại nguồn lợi
cho rất nhiều quốc gia đặc biệt là Anh. Tuy nhiên đến cuối thế kỉ 19, các
mỏ vàng đứng trước nguy cơ bị khai thác hết, lượng cung vàng khan
hiếm dần, tình trạng giảm phát liên tiếp xảy ra, một cơ chế hình thành tỷ
giá hối đoái mới xuất hiện: Cơ chế ngang giá sức mua.
1.1.2.2. Ngang giá sức mua:
Thời kì bản vị vàng qua đi, tiền giấy đảm nhận toàn bộ chức năng
thanh toán, cùng với việc giấy bạc không được tự do đổi ra vàng theo
hàm lượng vàng ấn định, ngang giá vàng không còn là cơ sở hình thành
tỷ giá hối đoái; thay vào đó, việc so sánh hai đồng tiền với nhau được
5
thực hiện bằng so sánh sức mua của hai loại tiền tệ. Tỷ giá hối đoái hình
thành trên cơ chế ngang giá sức mua ra đời. Và để nghiên cứu cơ chế
này, chúng ta hay cùng nhau tìm hiểu thuyết ngang giá sức mua.
Ý tưởng ngang giá sức mua xuất phát từ thế kỉ thứ 19 với sự góp
mặt của nhà kinh tế học trường phái cổ điển David Ricardo, sau đó được
mở rộng và hệ thống hóa bởi nhà kinh tế học Thụy Điển Gustav Cassel
những năm 1920. Ngang giá sức mua nhanh chóng được đón nhận trong
bối cảnh siêu lạm phát diễn ra ở Đức, Hungari và Liên bang Xô Viết khi
sức mua tiền tệ các quốc gia này đột nhiên sụt giảm bất ngờ. Thuyết
ngang giá sức mua được xây dựng trên sự phát triển qui luật một giá cho
rằng: Tỷ giá hối đoái giữa tiền tệ hai quốc gia sẽ bằng tỷ lệ giữa mức giá
của hai quốc gia đó. Từ đây, tỷ giá hối đoái được hình thành như sau:
nếu xem PD là mức giá của giỏ hàng hóa trong nước (tính bằng nội tệ), P F
là mức giá của giỏ hàng hóa (tính bằng ngoại tệ) thì :
Tỷ giá hối đoái (số đơn vị nội tệ /1 đơn vị ngoại tệ) = PD / PF
Ví dụ tại Mỹ, một áo sơ mi bán với giá 4 USD trong khi tại Anh,
cũng áo đó nhưng giá bán là 3 GBP thì trên thị trường Mỹ, tỷ giá sẽ là
1GBP = 4/3 = 1,3 USD.
Cách áp dụng tính tỷ giá như trên gọi là PPP tuyệt đối, chỉ đúng
trong trường hợp chi phí vận chuyển thấp, không có rào cản nào giữa
hoạt động thương mại hai nước còn khi chi phí vận chuyển cao đi cùng
với cạnh tranh không hoàn hảo, có sự can thiệp của nhà nước bằng các
hàng rào thuế và phi thuế thì tỷ giá hối đoái chắc chắn sẽ không hoàn
toàn được xác định như trên. PPP tương đối được đưa ra để khắc phục
nhược điểm này. Đối với PPP tương đối thì tỷ giá được hình thành trên
cơ sở xem xét chênh lệch lạm phát giữa hai nước.
6
%∆S = %∆ PD - %∆PF
Trong đó: %∆S: Tốc độ thay đổi của tỷ giá
%∆PD: Tỷ lệ lạm phát trong nước
%∆PF: Tỷ lệ lạm phát nước ngoài
Điều này có thể hiểu là nếu tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam là 10%, ở Mỹ
là 5% thì giá đồng đô la sẽ được nâng lên 5% so với đồng Việt Nam. Tuy
nhiên, PPP tương đối lại chỉ xem xét hàng hóa mậu dịch; đối với hàng
hóa phi mậu dịch như dịch vụ cắt tóc thì PPP tương đối chưa giải thích
được cơ chế hình thành tỷ giá, PPP tương đối không giải thích được tại
sao cắt một kiểu đầu mới giá ở Mỹ là 20 USD trong khi ở Mêhicô chỉ có
7 USD. Song dù thế nào đi nữa thì PPP cũng đã đưa ra được một cơ chế
hình thành tỷ giá mới dựa trên cơ sở ngang giá sức mua, mặc dù tỷ giá
được xem là chịu tác động của nhiểu yếu tố như lạm phát, lãi suất…song
cái cốt lõi của việc hình thành tỷ giá trong chế độ tiền giấy ngày nay vẫn
chính là ngang giá sức mua.
1.1.3. Phân loại:
Tỷ giá hối đoái trên cơ sở thực tiễn đã được phân làm nhiều loại,
dựa trên những căn cứ khác nhau mà người ta phân loại ra những cặp tỷ
giá khác nhau. Trong khuôn khổ của đề tài, người viết xin đưa ra những
tỷ giá tiêu biểu nhất được xem là khuôn mẫu cho quá trình vận động của
tỷ giá.
*Căn cứ vào thời điểm thanh toán:
_Tỷ giá giao ngay: là tỷ giá dùng cho các mua bán ngoại hối thanh
toán ngay vào ngày hôm đó hoặc sau đó 2 ngày.
7
_ Tỷ giá kỳ hạn : là tỷ giá được dùng cho các giao dịch kỳ hạn, thời
gian giữa ngày kí hợp đồng và ngày giao tiền thường kéo dài từ 1 tháng,
3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hay 1 năm.
*Căn cứ vào tính chất của tỷ giá:
_Tỷ giá danh nghĩa: Tỷ giá danh nghĩa được hiểu là tỷ giá đo lường
giá trị danh nghĩa của đồng tiền mà không phản ánh sức cạnh tranh của
hàng hóa trong nước trong trao đổi thương mại quốc tế. Sự phá giá tỷ giá
danh nghĩa vì vậy cũng không phản ánh được sự thay đổi trong tính cạnh
tranh quốc tế hàng hóa một nước như tỷ giá thực tế trình bày dưới đây.
_Tỷ giá thực tế(i): là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo mức
giá tương đối giữa các nước, có tính đến sức mua thực tế và quyết định
tính cạnh tranh của hàng hóa quốc gia.
*Căn cứ vào phương tiện thanh toán:
_Tỷ giá điện hối: tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện, là cơ sở xác
định các loại tỷ giá khác
_ Tỷ giá thư hối: tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư.
(i)Tỷ giá danh nghĩa được công bố hàng ngày trên thông tin đại chúng
trong khi tỷ giá thực tế phải được tính toán dựa trên tỷ giá danh nghĩa
như sau:
Tỷ giá thực tế = (Tỷ giá danh nghĩa * Mức giá nước ngoài)/ Mức giá
trong nước
*Căn cứ vào cơ chế quản lý ngoại hối, ở những nước kém phát
triển, ngoài thị trường ngoại hối chính thức còn xuất hiện thị trường chợ
8
đen, tỷ giá được chia thành tỷ giá chính thức do ngân hàng trung ương
quy định và tỷ giá chợ đen do quan hệ cung cầu ngoại hối quyết định(35).
*Căn cứ vào hoạt động thanh toán ngoại thương:
_Tỷ giá xuất khẩu: tỷ giá xuất khẩu được tính bằng tỷ số của giá
bán hàng xuất khẩu theo điều kiện F.O.B bằng ngoại tệ với giá bán buôn
xí nghiệp cộng thuế xuất khẩu bằng nội tệ.
_Tỷ giá nhập khẩu: tỷ giá nhập khẩu được tính bằng tỷ số giữa giá
bán buôn hàng nhập khẩu tại cảng bằng nội tệ với với giá nhập khẩu bằng
ngoại tệ.
Khái niệm tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu chính xác hơn chính
là tỷ suất phí của hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Để doanh nghiệp
xuất nhập khẩu có lãi thì bất đẳng thức sau phải được thỏa mãn: tỷ giá
xuất khẩu < tỷ giá chính thức < tỷ giá nhập khẩu (xem (5),(35)).
*Căn cứ vào chế độ tỷ giá hối đoái: có 3 loại tỷ giá chính.
_Tỷ giá hối đoái cố định: là tỷ giá được nhà nước ấn định cố định
trong tương quan giá cả giữa nội tệ và ngoại tệ. Tỷ giá cố định được áp
đặt một cách cứng nhắc, mọi biến động của tỷ giá cố định sẽ phải xoay
quanh mức tỷ giá với biên độ rất nhỏ do nhà nước cho phép. Nhà nước sẽ
là tổ chức duy nhất được quyền quyết định thay đổi lại tỷ giá nếu có biến
động quá lớn giữa ngang giá sức mua các đồng tiền. Mặc dù tỷ giá cố
định có ưu điểm là tạo niềm tin về đồng tiền ổn định cho các nhà đầu tư,
giúp các nhà xuất, nhập khẩu tránh được rủi ro hối đoái…song tỷ giá cố
định thường là căn nguyên của các cuộc khủng hoảng kinh tế do chính
sách tiền tệ thường xuyên bị phụ thuộc vào quốc gia có đồng tiền được
neo tỷ giá, đi kèm với việc ngân hàng trung ương phải thường xuyên can
9
thiệp vào thị trường ngoại hối giữ tỷ giá ổn định, dẫn đến cạn kiệt lượng
ngoại hối dự trữ…
_Tỷ giá thả nổi hoàn toàn: tỷ giá thả nổi được ưa chuộng sau khi
hệ thống Bretton Wood sụp đổ, tỷ giá thả nổi hoàn toàn được xác lập
hoàn toàn dựa trên cung cầu ngoại hối, sự vận động hàng ngày của tỷ giá
thả nổi đều phản ánh chính xác sự luân chuyển các luồng tiền tệ giữa các
quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ không còn gặp nguy cơ cạn kiệt dự trữ
ngoại hối như trong trường hợp tỷ giá cố định nữa, chính sách tiền tệ trở
nên độc lập hơn... Tuy vậy, trong sự vận động không hoàn hảo của thị
trường, tỷ giá hoàn toàn thả nổi cũng ẩn chứa nhiều rủi ro; đó là hễ tỷ giá
hối đoái thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi trong cán cân thanh toán, cụ thể
hơn là cán cân thương mại để phù hợp với mức tỷ giá mới. Tỷ giá thả nổi
sẽ luôn gây ra sự sụt giá trên thị trường nội địa do những thay đổi về lợi
nhuận của các nhà đầu tư, các nhà xuất- nhập khẩu. Chưa hết, tỷ giá thả
nổi còn là miếng mồi béo bở cho những kẻ đầu cơ tiền tệ, việc đầu cơ
theo trào lưu rất dễ gây tổn thương khu vực tài chính, tiền tệ của nền kinh
tế.
_Tỷ giá thả nổi có quản lý: Đây là loại tỷ giá được ưa chuộng nhất,
đứa con ruột của cuộc hôn phối giữa tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi, nó
khắc phục được các nhược điểm của cả hai loại tỷ giá trên. Trong tỷ giá
thả nổi có quản lý, tỷ giá vận hành theo sự biến động cung cầu thị trường,
chính phủ sẽ can thiệp vào thị trường ngoại hối khi cần thiết, việc điều
chỉnh tỷ giá sẽ dựa trên điều chỉnh tỷ giá chính thức. Tỷ giá thả nổi có
quản lý một mặt phản ánh cung cầu ngoại hối, mặt khác đáp ứng được
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế thông qua việc điều chỉnh tỷ giá
của nhà nước nên được các quốc gia rất ưa chuộng. Tính từ đầu năm
10
1970 đến nay, số quốc gia áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý đã
tăng từ 23% (trong tổng số các quốc gia) lên tới 84% năm 2002 và Việt
Nam chúng ta cũng nằm trong số các quốc gia này (47).
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở:
Dưới con mắt các nhà kinh tế học, tỷ giá hối đoái luôn vận động
theo những biến động vĩ mô của nền kinh tế. Mặc dù khoác cho mình
tấm áo tỷ giá danh nghĩa có lúc được xem là ổn định song tỷ giá danh
nghĩa đối với các nước áp dụng chế độ thả nổi tỷ giá hoặc thậm chí cố
định cũng thường xuyên thay đổi. Tỷ giá giữa đô la Mỹ và đồng Yên
Nhật ngày 31/9 năm 2003 đang dừng ở mức 118 JPY ăn 1 USD thì chỉ
tám ngày sau đó đã lên đến 109 JPY một USD, một mức biến động khá
lớn, ấy là chưa kể trong khoảng thời gian chưa đầy một tuần từ 3/9 đến
8/9 năm 2003 tỷ giá giữa đồng Baht (Thái Lan) đã tăng giá 2% so với
USD
(39)
. Thế giới ngày nay thực sự đã đổi khác, các hoạt động thương
mại, đầu tư trở nên gấp gáp hơn, những bữa ăn trưa của các doanh nhân
cũng vội vàng hơn, thời gian dường như bị thu hẹp lại, tất cả bị cuốn đi
trong vòng xoáy toàn cầu hóa, tự do hóa. Và tỷ giá hối đoái, người bạn
đồng hành của lưu thông hàng hóa tiền tệ cũng không tránh khỏi nhịp
sống đó. Hãy nhìn lại trước kia khi đa số các quốc gia theo đường lối Xã
Hội Chủ Nghĩa phủ nhận vai trò tỷ giá thì tỷ giá dường như chỉ là cái
bóng mờ nhạt bên cạnh những người bạn đồng hành của nó ví như lạm
phát, lãi suất…Cụ thể hơn, đối với một nền kinh tế đóng mà hiện nay
Bắc Triều Tiên là một quốc gia điển hình thì sự tồn tại của tỷ giá hối đoái
chỉ đồng nghĩa với việc trao đổi thuần túy hàng hóa giữa các quốc gia,
chức năng của nó chẳng qua là chỉ để thay thế cho phương trình trao đổi
1chiếc rìu bằng 3 quả tạ mà thôi. Nhà nước hoàn toàn ấn định tỷ giá theo
11
sự cảm nhận chủ quan của mình, cũng có tính đến những nhân tố tác
động đến tỷ giá hối đoái song những tính toán đó có thể coi là không
chính xác, không theo kịp mọi bước đi gấp gáp của vũ điệu thương mại
thế giới. Nói một cách khác, trong nền kinh tế đóng, sự vận động của tỷ
giá hối đoái không phản ánh đúng tác động gây ra bởi các nhân tố như
cán cân thanh toán, đầu cơ, lạm phát, lãi suất, buôn lậu…Trái lại, trong
một nền kinh tế mở cửa, dù là mở cửa ở mức độ nào thì tỷ giá hối đoái
cũng được xem là vô cùng nhạy cảm, hấp thu mọi tác động từ các biến số
kinh tế vĩ mô khác, các nhà hoạch định do đó cần phải rất thận trọng khi
điều chỉnh tỷ giá hối đoái, phải cân nhắc tới mọi động thái, mọi nhân tố
tác động để có thể đạt được mục tiêu hiệu quả trên tổng thể trên toàn bộ
nền kinh tế. Xuất phát từ thực tiễn hơn 80% tổng số quốc gia trong đó có
Việt Nam theo đuổi chiến lược mở cửa nền kinh tế, phần này sẽ chỉ tập
trung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái trong nền kinh
tế mở và hãy bắt đầu bằng một nhân tố quen thuộc: Độ mở nền kinh tế.
1.2.1. Độ mở nền kinh tế:
Theo Tiến sĩ kinh tế học Johnathan Heward hiện đang là giảng viên
trường Đại học Arizona (Mỹ) thì độ mở nền kinh tế chính là mức độ mà
một quốc gia tham gia thương mại quốc tế, quan hệ quốc tế, tiến hành
việc giao lưu hàng hóa, tiền tệ, lao động, bí quyết công nghệ và vốn với
phần còn lại của thế giới. Ông cũng đã tiến hành nghiên cứu và đặt trọng
số về độ mở nền kinh tế, vấn đề này có thế được khái quát giản đơn bằng
sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Sơ đồ giới hạn mức độ mở cửa
Mức độ mở cửa (%)
12
0
50
(Đóng cửa)
+100
(Độ mở trung bình)
(Hoàn toàn mở cửa)
Nguồn: Báo cáo chiến lược kinh tế bang Arizona
(Mỹ), 11/2001.
Ở mức 0%, nền kinh tế trong trạng thái “ngủ”, nhân tố mở không
còn, khái niệm độ mở không tồn tại và do đó cũng sẽ không có tác động
của độ mở nền kinh tế lên tỷ giá hối đoái. Mức 0% đến 50% là các quốc
gia có độ mở vừa phải, đa số là các quốc gia đang phát triển, nền kinh tế
nhỏ mở cửa, thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp đến trung bình
(dưới 1000 USD) trong đó có thể kể đến Lào, Việt Nam, Tuynidi,
Nevanda… Việc mở cửa nền kinh tế các quốc gia này được tiến hành một
cách từ từ, có tính chất thăm dò và chủ yếu dựa trên các hiệp định thương
mại song phương, mục đích kinh tế vẫn còn bị chính trị chi phối, mọi
khía cạnh tự do hóa thị trường tài chính, tự do hóa đầu tư, lãi suất…vẫn
còn nằm trong ý chí chủ quan của nhà nước. Mức trung bình đến 90% là
mức độ mở cửa của các quốc gia như Mỹ, Nhật, EU, Canada… các quốc
gia này tìm kiếm tự do hóa thương mại dựa trên hiệp định cả song
phương lẫn đa phương, việc mở cửa kinh tế không đơn thuần chỉ dựa vào
các hoạt động thương mại mà còn liên kết với nhau trên các lĩnh vực như
quân sự, hàng không, thám hiểm vũ trụ, đại dương. Tuy nhiên, cho dù
mở cửa ở mức độ nào thì độ mở ấy cũng sẽ gây ra những tác động nhất
định lên tỷ giá hối đoái.
Trước tiên có thể kể đến việc mở cửa đối với các hoạt động thương
mại, một khi thương mại được tiến hành tự do giữa các quốc gia thì khối
lượng hàng hóa, kéo theo khối lượng tiền tệ luân chuyển là khá lớn. Nếu
độ mở nền kinh tế càng lớn thì tác động lên tỷ giá hối đoái càng diễn ra
13
thường xuyên, việc kinh doanh, mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại
hối nhằm đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu sẽ tác động trực tiếp, liên tục
đến tỷ giá hối đoái. Ví dụ giả sử tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối
London ở mức cân bằng, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ đã khiến
nhà nhập khẩu Anh phải bán đồng bảng Anh để mua đô la Mỹ, trên thị
trường ngoại hối, cung bảng Anh tăng lên dẫn đến đồng bảng bị giảm giá,
còn đồng đô la Mỹ lại tăng giá, tại Anh tỷ giá USD/GBP giảm (theo
phương pháp yết giá trực tiếp). Do nhu cầu thương mại giữa Anh và Mỹ
không chỉ dừng lại ở việc Anh nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ mà những nhà
ngoại thương Mỹ cũng muốn nhập khẩu hàng hóa từ Anh cộng với việc
giao dịch tiền tệ giữa hai quốc gia là hoàn toàn tự do nên tỷ giá sẽ liên
tục biến động tăng giảm.
Bên cạnh tự do hóa thương mại, mở cửa đối với lĩnh vực ngân
hàng, đối với các hoạt động vốn trên thị trường tài chính, tiền tệ cũng tác
động mạnh lên tỷ giá hối đoái. Chi phí giao dịch ngoại hối giảm do việc
áp dụng hàng loạt các biện pháp mới khi mở cửa như thanh toán điện
tử… cộng với chính sách cho phép người ngoại quốc được mua trái
phiếu, cổ phiếu, dòng vốn luân chuyển trên thị trường vốn, thị trường tiền
tệ cũng như giữa hai thị trường này trở nên dễ dàng hơn, thường xuyên
hơn, gây tác động trực tiếp đến cung cầu ngoại hối, cung cầu ngoại hối
đến lượt nó lại quyết định mức độ của tỷ giá, vấn đề này sẽ được bàn kĩ
trong phần 1.2.5
Mở cửa nền kinh tế cũng đồng nghĩa tìm kiếm những cơ hội đầu tư
từ các đối tác nước ngoài. Những mức độ mở cửa khác nhau hay nói
đúng hơn là mức độ cho phép các nhà đầu tư đầu tư vào những lĩnh vực
nào cũng sẽ dẫn đến các tác động khác nhau lên tỷ giá hối đoái. Đối với
14
những nước bắt đầu mở cửa, danh mục khuyến khích đầu tư thường hạn
chế, đầu tư nước ngoài không phản ánh đúng vai trò của nó, không kích
thích sản xuất, tiêu dùng, sản phẩm trong nước chất lượng yếu kém song
dân chúng vẫn bắt buộc phải mua do cung có giới hạn dẫn đến vấn đề
giảm giá đồng nội tệ do sức mua đồng nội tệ giảm. Hiệu ứng trên có thể
xem là ngược lại đối với các quốc gia có độ mở cửa lớn.
Tuy nhiên, có thể thấy độ mở cửa càng cao thì rủi ro tài chính tiền
tệ càng lớn, quốc gia tiến hành mở cửa sẽ bị phụ thuộc khá nhiều vào các
tác động bên ngoài, tỷ giá hối đoái do đó rất dễ bị tổn thương. Mức độ
giao lưu vốn, liên kết trực tiếp lãi suất nội địa và lãi suất quốc tế sẽ gây
ảnh hưởng không nhỏ đến tính hiệu lực của tỷ giá. Trong trường hợp
quốc gia cố định tỷ giá kèm theo tự do giao lưu vốn thì một sự giảm
trong lãi suất quốc tế cũng sẽ dẫn đến lãi suất nội địa giảm, làm tăng sức
ép đối với tỷ giá thông qua cán cân vãng lai.
Việc mở cửa, mức độ hội nhập bản thân nó đã thôi thúc các quốc
gia đến các quyết định ký kết các hiệp định thương mại song phương và
đa phương về tỷ giá hối đoái. Đó là trường hợp các thành viên của Cộng
đồng kinh tế Châu Âu (sau là Liên minh Châu Âu: EU) đã cùng nhau kí
kết Hiệp định Roma năm 1957, ấn định tỷ giá hối đoái giữa các nước
thành viên và từ đó đến nay, mặc dù có được điều chỉnh một vài lần song
tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia thành viên Liên minh kinh tế Châu Âu
này luôn được giữ ổn định, dao động trong biên độ thấp nhằm tránh các
cú sốc kinh tế bên ngoài gây bất ổn cho tỷ giá và nền kinh tế các quốc gia
này
(46)
. Năm 2003, các nước thành viên EU mặc dù đã quen với việc sử
dụng đồng tiền chung, song việc cố định tỷ giá cộng với trình độ phát
triển không đồng đều giữa các nước thành viên đã khiến mức giá tại một
15
số quốc gia như Bỉ liên tục tăng, gây căng thẳng cho NHTW Châu Âu
trong việc ghìm giữ mức tỷ giá theo luật định.
Cuối cùng, có thể nói lý thuyết cũng như thực tế đã chỉ ra rằng
thước đo độ mở cửa không phải yếu tố nào khác mà chính là mức độ bảo
hộ nền kinh tế, nếu các biện pháp bảo hộ càng cao thì cũng đồng nghĩa
với độ mở cửa nền kinh tế càng hẹp. Bằng các chính sách bảo hộ thuế
quan và phi thuế quan, hàng rào bảo hộ được dựng lên ngăn cản tự do
hóa thương mại, thu hẹp độ mở nền kinh tế. Các mức thuế quan cũng như
các biện pháp phi thuế khác: hạn ngạch, hàng rào kỹ thuật… được áp đặt
đối với sản phẩm nhập khẩu vô hình chung làm tăng giá sản phẩm nhập
khẩu trên thị trường nội địa, giảm lợi ích người tiêu dùng, hạn chế khối
lượng hàng hóa – dịch vụ nhập khẩu, dẫn đến giảm cầu ngoại tệ khiến
đường cầu ngoại tệ dịch chuyển xuống phía dưới, cân bằng tỷ giá bị phá
vỡ, giá ngoại tệ giảm đẩy giá trị đồng nội tệ tăng lên trong dài hạn. Ví dụ
Việt Nam áp dụng chế độ bảo hộ lên sản phẩm xe hơi bằng cách đánh
thuế 300% xe nhập khẩu từ Nhật, khi đó giá xe ô tô của Nhật sẽ tăng lên ,
nhu cầu nhập xe ôtô từ Nhật giảm, cầu về Yên nhật giảm (từ D xuống D’:
Hình 1), đồng Việt Nam tăng giá (tỷ giá chuyển từ vị trí 1 xuống vị trí 2),
tỷ giá hối đoái giảm (theo phương pháp yết giá gián tiếp nội tệ/ngoại tệ)
Hình 1: Tác động của hàng rào bảo hộ lên tỷ giá hối đoái cân bằng
16
E(VND/JPY)
S
1
2
D
D’
22
Q2 Q1
Trong đó: Q (JPY) là lượng ngoại tệ
E (VND/JPY) tỷ giá giữa
nội
tệ và ngoại tệ
D, D’ : Cầu ngoại tệ
1
: Điểm cân bằng gốc
2 : Điểm cân bằng sau
khi cầu ngoại tệ giảm
S
: Cung ngoại tệ
Q (JPY)
Nói tóm lại, mức độ mở cửa luôn được xem là một trong những
nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Mở cửa tác động trực tiếp đến các
nhân tố mũi nhọn như thương mại, đầu tư, du lịch, ngân hàng, tài chính…
sự tăng giảm các yếu tố này cũng sẽ gây ra những biến động cho tỷ giá
hối đoái, song việc mở cửa đến mức độ nào nhằm đảm bảo tận dụng triệt
để được hiệu quả của tỷ giá thì vẫn là một bài toán khó cần phải giải đáp.
1.2.2. Lãi suất:
Lãi suất là một trong những công cụ hữu hiệu của chính sách tiền
tệ, lãi suất đóng một vai trò quan trọng trong việc ấn định mức tỷ giá hối
đoái một cách hợp lý. Xét về định nghĩa, lãi suất được xem là “mối tương
quan giữa khoản tiền lãi mà một người cho vay nhận được với khoản tiền
vốn mà người đó cho vay, được biểu thị bằng một số phần trăm trong một
thời gian nào đó”(5) hay nói một cách đơn giản, lãi suất chính là giá cả
của đồng tiền. Lãi suất được xem là công cụ của NHTW trong việc điều
chỉnh tỷ giá, một sự gia tăng lãi suất nội tệ thường được sử dụng như
một bảo bối kinh điển để bảo vệ tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn. Năm
1989, Chính phủ Việt Nam đã có những nhận thức cơ bản trong chính
sách lãi suất, lần đầu tiên đã phân biệt được lãi suất thực tế và lãi suất
17
danh nghĩa (lãi suất thực tế
= lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát; nếu
lãi suất danh nghĩa = tỷ lệ lạm phát thì lãi suất thực tế = 0, điều này đồng
nghĩa với việc gửi tiền không được lãi ), lãi suất tiền gửi nội tệ đã được
nâng rất cao vào tháng 3 năm 1989 (12%/tháng) và đã thu hút được một
lượng tiền mặt lớn vào ngân hàng, sự sụt giá tiền đồng Việt Nam được
chặn đứng cho đến tận đầu năm 1990 (27). Còn đối với lãi suất ngoại tệ,
một khi lãi suất ngắn hạn ở một nước cao hơn mức lãi suất quốc tế, vốn
ngắn hạn sẽ chảy vào với mục đích thu lãi dựa trên những khoản chênh
lệch đó và kết quả là cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm xuống
kéo theo tỷ giá giảm. (35)
Mối quan hệ giữa tỷ giá và lãi suất cũng đã được nhiều nhà kinh tế
học quan tâm. Theo lý thuyết ngang giá lãi suất, đồng tiền của một quốc
gia nào có lãi suất thấp hơn thì nhất định sẽ bù kì hạn cho hợp đồng kỳ
hạn đối với đồng tiền của một quốc gia nọ có lãi suất cao hơn hay nói
đơn giản hơn là sự cân bằng thị trường hối đoái đòi hỏi sự ngang bằng về
tiền lãi, lợi tức của hai loại tiền gửi bất kỳ là tương đương nhau khi cùng
quy về một đồng tiền. Và khi tất cả các lãi suất dự kiến bằng nhau tức có
sự xuất hiện ngang giá lãi suất thì thị trường hối đoái sẽ cân bằng do
không thể có dư cung hoặc dư cầu. Tuy nhiên lý thuyết ngang giá lãi suất
này lại được xây dựng dựa trên nguyên tắc cố định các nhân tố khác
(cetacis paribas) nên độ chính xác chỉ có tính tương đối, tỷ giá hối đoái
tương lai phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chứ không chỉ có riêng lãi suất,
song xét cho cùng đây cũng là lý thuyết đầu tiên mô phỏng khái quát ảnh
hưởng của lãi suất lên tỷ giá và cũng đã gặt hái được nhiều thành công
nhất định (34).
18
Bên cạnh lý thuyết cân bằng lãi suất, thực tế đã chứng minh sự
chênh lệch lãi suất là căn nguyên cơ bản dẫn đến những biến động của tỷ
giá hối đoái. Lãi suất cao sẽ hấp dẫn các luồng vốn nước ngoài chảy vào
trong nước, nếu lãi suất nội tệ cao hơn lãi suất ngoại tệ ở nước ngoài thì
dòng vốn ngắn hạn chảy vào chủ yếu làm chuyển hóa lượng ngoại tệ sang
nội tệ để được hưởng lãi cao hơn, điều này dẫn đến cung ngoại tệ tăng
(cầu nội tệ tăng) từ đó đồng ngoại tệ sẽ giảm giá còn nội tệ sẽ tăng giá.
Trường hợp ngược lại sẽ cho hiệu ứng ngược lại. Nói một cách tổng quát,
nếu lãi suất trong nước cao hơn lãi suất nước ngoài thì sẽ dẫn đến nhập
khẩu tiền tệ, còn lãi suất nước ngoài cao hơn, sẽ xuất hiện xuất khẩu tiền
tệ với điều kiện lãi suất xem xét phải được cân nhắc dựa trên lãi suất thực
tế và chỉ có lãi suất thực mới tạo nên sự nhập hoặc xuất khẩu vốn, từ đó
mới gây tác động thực đến tỷ giá hối đoái. Năm 2003, USD mất giá
nghiêm trọng, bên cạnh các nguyên nhân mất lòng tin từ phía các nhà đầu
tư Mỹ, cuộc chiến tại Irắc khiến chính quyền Bush tiêu tốn hàng tỷ đô la
thì vấn đề chênh lệch lãi suất cũng được xem là yếu tố khiến đồng đô la
mất giá nghiêm trọng so với Euro. Trước tháng 10 năm 2003, trong khi
Mỹ vẫn duy trì lãi suất cơ bản đối với đồng USD ở mức 1,25% thì ngân
hàng trung ương Châu Âu ECB lại duy trì lãi suất cơ bản đối với đồng
Euro ở mức 2,5% (gấp đôi mức lãi suất của Mỹ), chính khoảng cách
chênh lệch này đã khiến các tài sản định giá bằng đồng EUR trở nên hấp
dẫn hơn đồng USD, cầu Euro tăng mạnh, đồng đôla sụt giá nghiêm trọng,
tính đến tháng 11 năm 2003, sau khi cả FED (Cục dự trữ liên bang Mỹ)
và ECB đồng loạt cắt giảm lãi suất xuống mức tương ứng là 1% (mức
thấp kỉ lục trong lịch sử nước Mỹ từ trước đến nay) và 1,75%, đồng USD
đã mất giá gần 30% so với đồng Euro (24).
19
Mặt khác, bên cạnh việc nâng hoặc giảm lãi suất danh nghĩa, ngân
hàng trung ương còn có thể tác động vào lãi suất chiết khấu, điều chỉnh
mức độ tăng giảm cung tiền, gián tiếp ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.
Cung tiền giảm đồng nghĩa với tỷ giá hối đoái tăng, cung tiền tăng đi đôi
với tỷ giá hối đoái giảm…
Xét riêng thị trường Việt Nam, vấn đề lãi suất nóng lên cũng gây
tác động xấu tới tỷ giá hối đoái. Nếu xu hướng chung năm 2003 trên thế
giới là duy trì lãi suất ở mức thấp thì Việt Nam lại đi theo chiều hướng
mức lãi suất cao, tính trung bình 11 tháng đầu năm 2003, lãi suất VND
cao hơn lãi suất USD tới khoảng 6% điểm
(17)
, việc VND đang bị định giá
cao so với giá trị thực là 20% cộng với sự sụt giảm chỉ số giá tiêu dùng,
vô hình chung cho thấy tỷ giá hối đoái thực tế có xu hướng tăng, gây tổn
hại đến các hoạt động xuất khẩu, du lịch, đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên cũng có trường hợp tác động tăng hoặc giảm của lãi suất
không hề gây ra biến động nào cho tỷ giá hối đoái, đó là trường hợp nền
kinh tế đang trong tình trạng bất ổn có nguy cơ khủng hoảng, khi ấy cho
dù lãi suất có tăng đến mấy cũng không có một nhà đầu tư nào làm cái
việc dại dột là chuyển vốn của mình vào nơi nước sôi lửa bỏng để ăn
chênh lệch lãi suất cả. Điển hình là trong khủng hoảng kinh tế năm 19711973 mặc dù lãi suất trên thị trường Newyork cao gấp rưỡi thị trường
London, gấp ba lần thị trường Frankfurk nhưng vốn ngắn hạn vẫn không
được chuyển vào Mỹ mà lại đưa đến Tây Đức và Nhật Bản (21).
Song dù thế nào đi nữa thì trong điều kiện kinh tế bình thường, lãi
suất và tỷ giá luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, việc điều hành
chính sách lãi suất không hiệu quả có thể gây ra những bất lợi như nội tệ
bị mất giá gây nguy cơ lạm phát chảy máu ngoại tệ, đầu cơ tiền tệ… Mặc
20
- Xem thêm -