Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nghiên cứu và lựa chọn bài tập nhằm phát triển sức bền tốc độ môn bóng ném cho s...

Tài liệu Nghiên cứu và lựa chọn bài tập nhằm phát triển sức bền tốc độ môn bóng ném cho sinh viên chuyên ngành khoa giáo dục thể chất đại học huế

.DOC
42
71
117

Mô tả:

1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Giáo dục thể chất (GDTC) trong các trường Đại học, Cao đẳng là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào tạo, đồng thời là một mặt giáo dục toàn diện góp phần đào tạo lớp người mới có năng lực, phẩm chất, có sức khỏe nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước. Theo đó, mỗi công dân, nhất là thế hệ trẻ có điều kiện phát triển cao về trí tuệ cũng như thể chất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể khẳng định việc duy trì và tăng cường thể chất con người Việt Nam bắt đầu từ thế hệ trẻ. Rèn luyện Thể dục thể thao (TDTT) là một biện pháp quan trọng đem lại sức khỏe và thể chất cường tráng cho thế hệ trẻ hiện nay và mai sau. Vì vậy, việc chăm lo cho công tác GDTC trong trường học là một việc làm cần thiết và rất quan trọng của sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm chuẩn bị con người cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chương trình GDTC trong các trường Đại học, Cao đẳng gồm nhiều môn thể thao như Điền kinh, Bóng chuyền, Thể dục dụng cụ, Bóng đá, Bóng ném, Cầu lông... Cùng với các môn thể thao đó, Bóng ném là môn thể thao có một vị trí quan trọng trong chương trình GDTC ở các trường Đại học, Cao đẳng. Tập luyện và thi đấu Bóng ném có tác dụng phát triển các tố chất cho người tập như: sức bền tốc độ, sức mạnh, sức bền, sự mềm dẻo khéo léo... Ngoài ra, tập luyện và thi đấu Bóng ném còn là cơ sở để phát triển thể lực cho các môn khác. Chính vì sự toàn diện này mà Bóng ném được coi là môn thể thao không thể thiếu được trong nội dung, phương tiện GDTC trong các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp. Hoạt động tập luyện và thi đấu Bóng ném tổng hợp đầy đủ các tố chất thể lực như: sức bền tốc độ, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo và khéo léo... Bóng ném là môn thể thao mang tính tập thể cao, đòi hỏi tinh thần đoàn kết, lòng dũng cảm, phẩm chất ý chí, tính quyết đoán, sự quyết tâm, sự khéo léo, sự thông minh sáng tạo... Hoạt động của cầu thủ trên sân đòi hỏi phải toàn diện liên tục, khẩn trương. Do đó các cầu thủ không những phải có kỹ - chiến thuật tốt mà còn đòi hỏi thể lực chuyên môn phải thật tốt mới phù hợp với Bóng ném hiện đại. 2 Qua thực tiễn giảng dạy, chúng tôi nhận thấy thể lực chuyên môn của các em sinh viên còn yếu, nhất là sức bền tốc độ. Trước đây đã có một số đề tài nghiên cứu về các vấn đề chuyên môn môn bóng ném của các tác giả: Phạm Quang Bản (2000), Đào Đức Kiên (2004), Bùi Thị Kim Phượng (2006), Nguyễn Xuân Quắc (2009)... Các đề tài này nghiên cứu về các vấn đề như kiểm tra đánh giá trình độ tập luyện của VĐV Bóng ném, xây dựng tiêu chuẩn tuyển chọn và huấn luyện VĐV Bóng ném. Đối tượng nghiên cứu của các đề tài này là VĐV Bóng ném ở các Sở TDTT, sinh viên chuyên ngành Bóng ném của các trường Đại học TDTT Bắc Ninh, Đại học TDTT TP HCM, Đại học TDTT Đà Nẵng.... Trong phạm vi Đại học Huế cũng có một số nghiên cứu về vấn đề giảng dạy và tập luyện môn bóng ném của các tác giả Trần Hữu Nam (2009), Nguyễn Đôn Vinh (2012), Lê Cát Nguyên (2013). Tuy nhiên các nghiên cứu này lại tập trung nghiên cứu về các vấn đề phát triển sức bền tốc độ trong môn bóng ném hoặc sự tác động qua lại giữa việc học kỹ thuật bóng rổ và bóng ném, hay đối tượng nghiên cứu là sinh viên không chuyên ngành GDTC. Còn về vấn đề phát triển sức bền tốc độ cho sinh viên chuyên ngành Khoa GDTC-Đại học Huế thì chưa có tác giả nào quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Bóng ném cho sinh viên chuyên ngành Khoa GDTC, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu và lựa chọn bài tập nhằm phát triển sức bền tốc độ môn Bóng ném cho sinh viên chuyên ngành Khoa Giáo dục thể chất-Đại học Huế”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn, kết hợp với đánh giá thực trạng trình độ sức bền tốc độ trong môn Bóng ném của nam sinh viên chuyên ngành Khoa GDTC, đề tài tiến hành lựa chọn và ứng dụng các bài tập nhằm phát triển sức bền tốc độ trong môn Bóng ném cho nam sinh viên chuyên ngành Khoa GDTC- Đại học Huế. 3. Mục tiêu nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra, đề tài tiến hành giải quyết các mục tiêu nghiên cứu sau: Mục tiêu 1: Khảo sát thực trạng áp dụng các bài tập để phát triển sức bền tốc độ trong môn Bóng ném cho nam sinh viên chuyên ngành Khoa GDTC- Đại học Huế. - Khảo sát thực trạng chương trình môn học. 3 - Khảo sát các điều kiện phục vụ cho việc giảng dạy và học tập môn Bóng ném. - Thực trạng sức bền tốc độ môn Bóng ném của nam sinh viên chuyên ngành Khoa GDTC-Đại học Huế. Mục tiêu 2: Lựa chọn và ứng dụng các bài tập nhằm phát triển sức bền tốc độ trong môn Bóng ném cho nam sinh viên chuyên ngành Khoa GDTC - Đại học Huế. - Lựa chọn bài tập phát triển sức bền tốc độ trong môn Bóng ném cho nam sinh viên chuyên ngành Khoa GDTC. - Ứng dụng các bài tập đã lựa chọn nhằm phát triển sức bền tốc độ trong môn Bóng ném cho nam sinh viên chuyên ngành Khoa GDTC-Đại học Huế. 4. Cấu trúc của báo cáo Phần mở đầu Chương 1: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu và bàn luận Kết luận và kiến nghị 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Vài nét về lịch sử phát triển của môn Bóng ném Trong số các môn thể thao hiện đại, Bóng ném có quá trình hình thành và phát triển lâu đời, hiện có trên 130 quốc gia thành viên tham gia hoạt động dưới sự điều hành của Liên đoàn Bóng ném thế giới; là môn thể thao nằm trong hệ thống thi đấu chính thức tại Olympic. Ở Việt Nam, Bóng ném được du nhập vào đầu những năm 80, sau đó phát triển trong nhiều địa phương trên cả nước như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Định, Khánh Hòa, Bắc Ninh, Yên Bái, Hà Giang… Phong trào tập luyện Bóng ném bắt đầu phát triển và bộ môn Bóng ném được chính thức đưa vào hệ thống thi đấu quốc gia. Bóng ném nam và nữ đã phát triển song hành và có nhiều thành tích rất đáng ghi nhận. Những năm gần đây, Việt nam đã tham gia thi đấu nội dung Bóng ném nam, nữ tại các giải khu vực Đông Nam Á và đã cử đội tuyển Bóng ném nữ tham gia giải vô địch châu Á. 1.2. Đặc điểm và xu thế phát triển môn Bóng ném 1.2.1. Đặc điểm chung môn Bóng ném Bóng ném là môn thể thao tập thể. Đội hình chính của một đội bóng gồm 7 VĐV, trong đó có 1 thủ môn. Một trận thi đấu Bóng ném gồm 2 hiệp, mỗi hiệp thi đấu 30 phút. Mỗi hiệp thi đấu, mỗi đội chỉ được xin tạm dừng trận đấu 1 phút. Mỗi VĐV không được cầm bóng quá 3 giây. Tất cả các VĐV cùng đội đều liên kết bởi một mục tiêu chung: Làm thế nào để đưa bóng vào cầu môn của đối phương nhiều nhất và hạn chế tối đa, không để bóng vào khung thành của mình. Hoạt động của từng cầu thủ trong đội có định hướng và nhiệm vụ cụ thể, căn cứ vào vị trí của từng VĐV trên sân. Thi đấu Bóng ném là hoạt động cách quãng với mật độ và cường độ ngày càng cao, do vậy cần nâng cao tối đa năng lực sức bền tốc độ (sức bền yếm khí) làm nền tảng. 1.2.2. Xu thế phát triển Bóng ném hiện đại Hiện nay, Bóng ném thế giới đang phát triển cao độ, toàn diện, cả các mặt: Kỹ năng, thể lực, trí tuệ và tâm lý. Bóng ném hiện đại đòi hỏi các cầu thủ phải có trình độ kỹ thuật điêu luyện, phải có trình độ thể lực tốt, toàn diện và phải có tri thức, có trình độ học vấn để phân tích, đánh giá và nhận định đúng mọi diễn biến trên sân trong quá trình thi đấu và đồng thời phải có một tố chất tâm lý tốt. 5 - Các cầu thủ phải có trình độ thể lực tốt và khá toàn diện bao gồm cả: Sức bền chung, chuyên môn, sức mạnh tốc độ, sức mạnh bộc phát… để duy trì nhịp độ cao trong 60 phút thi đấu. Có thể nói trong suốt cả trận đấu, cả đội cùng phải lên xuống để tấn công và phòng thủ liên tục. Sức bền tốc độ và sức mạnh bộc phát kết hợp với độ chính xác đang yêu cầu ngày càng cao. - Kết hợp tính nguyên tắc, tính kỷ luật trong phối hợp chiến thuật trong thi đấu phối hợp với phát huy tính sáng tạo, tính ngẫu hứng của từng cầu thủ, biểu hiện tầm quan sát phán đoán, nhạy bén tình huống, bền tốc độ chóng chớp lấy thời cơ, chuyển hướng bất ngờ với mục tiêu ghi bàn. Thông thường, một đội bóng có đẳng cấp đều có một cầu thủ trên sân dẫn dắt lối chơi của toàn đội và điều hoà nhịp điệu trận đấu. - Hoạt động trong thi đấu Bóng ném rất đa dạng và liên tục thay đổi với tần số cao; thi đấu Bóng ném là hoạt động vừa liên tục, vừa cách quảng với mật độ hoạt động cường độ lớn. - Lượng vận động trong thi đấu Bóng ném hiện đại rất lớn nên yêu cầu về khả năng đáp ứng hệ thống tim mạch của các VĐV. - Để đón bắt xu thế đa dạng hoá chiến thuật thi đấu và đảm bảo tốc độ, khả năng chuẩn xác, khả năng phối hợp vận động ... trong từng đợt nổ lực cao và cho tới cuối trận đấu, các VĐV cần nâng cao tối đa sức bền yếm khí. 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến trình độ tập luyện môn Bóng ném 1.3.1. Về hình thái Yếu tố hình thái mang tính do truyền cao. Các chỉ tiêu về chiều cao, cân nặng, dài sải tay, độ dài của gang tay có ảnh hưởng rất lớn đến thành tích thi đấu của VĐV Bóng ném. Yếu tố hình thái quy định lối đánh và chiến thuật cũng như chiến lược của mỗi đội bóng. 1.3.2. Về thể lực Trong thi đấu, VĐV Bóng ném di động tốc độ. Khi hoạt động các hoạt động phòng thủ, các cầu thủ di chuyển bởi các động tác chạy lao ngắn từ 2 đến 10 mét, trong trận đấu vượt qua khoảng cách trung bình khoảng 6000m. Sự khác biệt lớn được quan sát ở số lượng chuyền bóng; Trung phong và tiền vệ chuyền bóng liên tục hơn cầu thủ góc 2-3 lần và 6-8 lần so với cầu thủ lòn. Ở các vị trí giữa, trong phòng ngự các cầu thủ phòng thủ thực hiện từ 50-150 lần chạy lao để phá vỡ những hoạt động phối hợp của các cầu thủ tấn công. 6 Nhằm nắm vững các nội dung kỹ thuật và hoạt động chiến thuật, VĐV Bóng ném cần thiết có trình độ thể lực nhất định, tốc độ di chuyển cao không bóng và có bóng trong quá trình thi đấu, bật nhảy, các quả ném bóng mạnh so với biên độ động tác rộng, chạy cường độ kéo dài đòi hỏi có tất cả các tố chất thể lực: Sức bền tốc độ, sức mạnh, sức bền, độ mềm dẻo và khéo léo. Các thành phần sức bền tốc độ và năng lực tốc độ là: 1) Sức bền tốc độ phản ứng đơn giản và phức tạp xác định thời gian phản ứng tức thời; 2) Sức bền tốc độ hoạt động riêng lẻ không kéo dài bởi khắc phục bên ngoài; 3) Sức bền tốc độ thể hiện trong nhịp điệu, sự tăng tốc xuất phát nhiều lần với thay đổi hướng bóng, theo cầu thủ kèm, thay đổi một nhóm nội dung và hoạt động này bởi nội dung và hoạt động khác là những đặc điểm đối với hoạt động thi đấu. 1.3.3. Về kỹ - chiến thuật Kỹ - chiến thuật được xây dựng nên để phù hợp với đặc điểm về hình thái, chức năng và trình độ thể lực của toàn đội cũng như phù hợp với vị trí sở trường của từng cá nhân trong đội. Nếu đội bóng nào đưa ra chiến thuật hợp lý thì phần thắng sẽ nghiên về đội đó. Chính vì thế điểm kỹ - chiến thuật được xếp vị trí cao khi đánh giá trình độ tập luyện của VĐV. 1.3.4. Về tâm lý Các tố chất tâm lý và đặc tính cá nhân VĐV Bóng ném giữ vai trò quan trọng trong tiến hành hoạt động thi đấu. Khi gia tăng cường độ hoạt động thi đấu, khi phối hợp trong những điều kiện thiếu hụt thời gian thì các chức năng tâm lý tạo điều kiện xử lý thông tin rất quan trọng, dự báo, định hướng tình huống tiếp theo. 1.4. Vai trò, đặc điểm huấn luyện thể lực cho vận động viên Bóng ném 1.4.1. Các khái niệm cơ bản Huấn luyện thể lực là một quá trình tác động liên tục, thường xuyên và theo kế hoạch lên cơ thể của vận động viên, quá trình này tác động sâu sắc tới hệ thần kinh, hệ tim mạch, cơ bắp cũng như với các cơ quan nội tạng của con người. Tố chất thể lực thông thường được chia thành 5 loại cơ bản: Sức bền tốc độ, sức mạnh, sức bền, khả năng phối hợp động tác và độ dẻo. Nhưng trong thực tiễn huấn luyện các tố chất thể lực trên thường không biểu thị riêng lẻ, mà chúng có mối quan hệ tương tác lẫn nhau. Thực tế huấn luyện hiện nay tồn tại rất nhiều quan điểm về huấn luyện thể lực cho vận động viên. Song có tác giả cho rằng “Quá trình huấn luyện thể lực cho vận 7 động viên là việc hướng đến củng cố các hệ thống cơ quan của cơ thể nâng cao khả năng chức phận của chúng, đồng thời là việc phát triển các tố chất vận động (sức bền tốc độ, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo). Huấn luyện thể lực chuyên môn Là quá trình giáo dục nhằm phát triển và hoàn thiện những năng lực thể chất tương ứng với đặc điểm môn thể thao chuyên ngành, có nhiệm vụ phát triển đến mức tối đa những năng lực đó của vận động viên. Huấn luyện thể lực chuyên môn hướng đến củng cố và nâng cao khả năng làm việc của các cơ quan chức phận, các tố chất thể lực phù hợp với đòi hỏi với môn thể thao lựa chọn. Huấn luyện thể lực chuyên môn cần thiết phải chia làm 2 phần: Huấn luyện thể lực chuyên môn cơ sở Được hình thành và phát triển trên nền tảng của thể lực chung. Sức bền chuyên môn của vận động viên sẽ cao hơn trên cơ sở nâng cao sức bền chung. Như vậy có thể nói huấn luyện thể lực chung là nền tảng, còn việc lựa chọn biện pháp thích hợp lại mang những đặc trưng của môn thể thao, tiền đề hình thành các tố chức thể lực chuyên môn sau này. Việc hình thành thể lực chuyên môn cơ sở của các môn thể thao không chu kỳ tương đối khó khăn. Ở đây có 2 cách lựa chọn: Thứ nhất: Bằng cách lặp lại nhiều lần các hoạt động chính đặc trưng của môn thể thao lựa chọn. Thứ hai: Sự lặp lại nguyên vẹn của các bài tập thi đấu của môn thể thao đó. Nếu lựa chọn và thực hiện không đúng những bài tập hình thành và phát triển các tố chất thể lực chuyên môn cơ sở sẽ dẫn đến sai lầm chuyên môn, điều này sẽ làm ảnh hưởng đến việc phát triển thành tích thể thao của vận động viên. Mặt khác, khối lượng thực hiện các bài tập để giáo dục các bài tập tố chất thể lực chuyên môn cơ sở phải tính toán tới việc sử dụng khối lượng và cường độ bài tập mang những nét đặc trưng của môn thể thao tương ứng phù hợp. Huấn luyện thể lực chuyên môn cơ bản Mục đích chính là việc nâng cao đến mức cần thiết sự phát triển của các tố chất vận động và khả năng chức phận của các cơ quan nội tạng, trước những đòi hỏi của môn thể thao lựa chọn. Sự phát triển các tố chất vận động chuyên môn cơ bản phụ thuộc chủ yếu vào các bài tập đặc thù. Các bài tập đó được thực hiện trong những điều kiện giảm nhẹ hoặc tăng cường thêm độ khó. 8 Nguyên tắc chung trong lựa chọn các bài tập nhằm giáo dục các tố chất thể lực chuyên môn cơ bản là các bài tập phải được thực hiện với cường độ tương đương với thi đấu. Quá trình huấn luyện kéo dài, thông thường từ một đến nhiều tháng diễn ra trong thời kỳ chuẩn bị và trong suốt thời kỳ thi đấu. Giáo dục mỗi tố chất thể lực cần thiết phải tuân thủ những quy định riêng với những phương pháp và biện pháp giáo dục riêng. Qua tham khảo các ngồn tư liệu, các công trình nghiên cứu khoa học của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực lý luận về phương pháp huấn luyện thể thao trong nước như: Lê Văn Lẫm; Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn… cho thấy các nhà khoa học đều cho rằng: Quá trình huấn luyện thể lực cho vận động viên là hướng đến việc củng cố và nâng cao khả năng chức phận của hệ thống cơ quan thông qua lượng vận động thể lực (bài tập thể chất) và như vậy, đồng thời đã tác động đến quá trình phát triển của các tố chất vận động. Dưới góc độ y sinh học, các tác giả Lưu Quang Hiệp, Trịnh Hùng Thanh cho rằng: Huấn luyện thể lực chung và chuyên môn trong huấn luyện thể thao là những biến đổi thích nghi về mặt sinh học diễn ra trong cơ thể vận động viên dưới tác động của tập luyện được biểu hiện ở năng lực hoạt động cao hay thấp. Dưới góc độ tâm lý, tác giả Phạm Ngọc Viễn, Lê Văn Xem cho rằng: Quá trình chuẩn bị thể lực chung và chuyên môn cho vận động viên là quá trình giải quyết những khó khăn liên quan đến việc thực hiện các hành động kỹ thuật, là sự phù hợp những yếu tố tâm lý trong hoạt động tập luyện và thi đấu của vận động viên. Tổng hợp các ý kiến trên chứng tỏ: Quá trình chuẩn bị thể lực chuyên môn của vận động viên là sự tác động có hướng đích của lượng vận động lên vận động viên nhằm phát triển khả năng vận động mà biểu hiện là hoàn thiện các năng lực thể chất, phù hợp với thực tiễn huấn luyện, người ta còn chia ra một số tố chất thể lực có tính hỗn hợp: Sức mạnh tốc độ, sức bền tốc độ, sức mạnh bền… Trong đó sức bền tốc độ mà chúng tôi nghiên cứu là một trong các tố chất nêu trên. 1.4.2. Vai trò của tố chất thể lực trong Bóng ném hiện đại Theo các tài liệu của các tác giả nước ngoài, khi xét về quãng đường cầu thủ phải chạy trong một trận đấu, tác giả A.Krextopnhicop (Nga) đã tính trung bình một cầu thủ phải chạy một quãng đường là 10.50 - 12.00 km. Trong đó 10% là chạy với tốc độ cao (1050 - 1100m). Số lần chạy của từng cầu thủ trong một trận đấu trung bình là 9 90 - 110 lần, chạy tăng tốc có bóng và không bóng là từ 32 - 56 lần. Tất nhiên, thời gian chạy và số lần của các hình thức chạy còn tuỳ thuộc vào mức độ căng thẳng của trận đấu và đặc điểm, trình độ cá nhân của từng cầu thủ. Để xác định được tốc độ tối đa và tối thiểu của các vận động viên trong Bóng ném. Theo Valich.V (1981) được phân loại như sau: Bảng 1.1. Tốc độ tối đa và tối thiểu của các VĐV theo từng loại hình vận động trong bóng ném (Theo Valich.V, 1981) Phân loại Tốc độ tối thiểu (m/s) Tốc độ tối đa (m/s) Tại chỗ 0.00 1.30 Đi bộ 1.30 2.04 Chạy chậm 2.04 4.09 Chạy tốc độ trung bình 4.89 6.93 Chạy tốc độ cao 6.93 8.15 Với nhịp điệu phát triển hiện nay của Bóng ném có thể những chỉ số còn lớn hơn số liệu trên. Từ đó chúng ta thấy rằng những yêu cầu về thể lực vô cùng cần thiết với xu hướng phát triển của Bóng ném hiện đại và cũng là cơ sở để hoàn chỉnh các mặt kỹ thuật, chiến thuật. Bởi thế trong tấn công huấn luyện Bóng ném, ở bất kỳ trình độ nào, nội dung huấn luyện thể lực cũng giữ một vị trí vô cùng quan trọng và đòi hỏi phải dành một tỷ lệ thời gian thích đáng. 1.4.3. Ý nghĩa, nhiệm vụ và nội dung huấn luyện thể lực Ý nghĩa của huấn luyện thể lực Huấn luyện thể lực là một bộ phận quan trọng của công tác huấn luyện. Thông qua công tác huấn luyện thể lực có thể tăng cường sức khoẻ cho vận động viên, nhằm phát triển một cách toàn diện các tổ chất thể lực, nâng cao năng lực hoạt động của cơ thểt. Nội dung và nhiệm vụ của huấn luyện thể lực Huấn luyện thể lực cho vận động viên Bóng ném bao gồm hai phương diện: Huấn luyện thể lực chung và huấn luyện thể lực chuyên môn. Huấn luyện thể lực chung là sự huấn luyện thể lực mà người ta sử dụng nhiều dạng bài tập khác nhau nhằm thúc đẩy, tăng cường sức khoẻ cho vận động viên, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống cơ quan nội tạng nhằm đạt mục tiêu phát triển toàn diện tố chất thể lực và cải thiện hình thái cơ thể. 10 Còn huấn luyện thể lực chuyên môn là sự huấn luyện trong đó vận dụng nhiều bài tập thể lực nhằm nâng cao tố chất thể lực chuyên môn, hoàn thiện việc thực hiện các động tác kỹ thuật và chiến thuật chuyên môn, các bài tập đó phải có mối quan hệ trực tiếp với thi đấu Bóng ném. Mối quan hệ giữa thể lực chung và thể lực chuyên môn một mặt có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau phát triển, nhưng còn mặt ngược lại là kiềm chế lẫn nhau, hạn chế nhau và gây cản trở nhau, cho nên giữa chúng có những điểm khác nhau, không thể thay thế cho nhau, nếu không nắm các đặc điểm này sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của chúng. Do đó, các bài tập dược sử dụng huấn luyện tố chất thể lực cho vận động viên Bóng ném, nhất thiết phải căn cứ vào mối quan hệ giữa huấn luyện thể lực chung và huấn luyện thể lực chuyên môn mà tiến hành chọn các bài tập. Chỉ khi nào bố trí sắp xếp một cách khoa học, hợp lý và tiến hành một cách thận trọng, tỉ mỉ thì mới thu được một trình độ huấn luyện cao. 1.5. Phân loại và phương pháp phát triển sức bền 1.5.1. Phân loại sức bền Việc phân loại sức bền có rất nhiều quan điểm khác nhau, mỗi một trường phái khác nhau lại căn cứ vào yêu cầu, đặc điểm khác nhau để phân loại. Qua phân tích và nghiên cứu tài liệu chúng tôi phân loại một số loại ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu như sau: Sức bền cơ sở: Là một dạng sức bền, là năng lực cử VĐV nhằm chống lại mệt mỏi trong hoạt động vận động kéo dài, trong đó không có sự tham gia của quá trình trao đổi chất yếm khí. Cơ sở sinh lý của năng lực sức bền này là sự “tiết kiệm hoá” trong hoạt động của các chức năng cơ thể (tuần hoàn, hô hấp, trao đổi chất) và sự thuần thục kĩ thuật. Phát triển tốt sức bền cơ sở sẽ tạo nên nền tảng chức năng vững chắc cho tất cả các môn thể thao sức bền và các môn thể thao có yêu cầu sức bền như một yếu tố xác định thành tích. Sức bền chuyên môn: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV nhằm chống lại mệt mỏi khi thực hiện các yêu cầu chuyên môn của môn thể thao hoặc kĩ thuật thể thao trong điều kiện thi đấu, do đó người ta phân thành các loại sau: 11 Sức bền mạnh: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV nhằm chống lại mệt mỏi khi thực hiện các nhiệm vụ vận động kéo dài đòi hỏi sự tham gia của sức mạnh ở mức độ cao. Sức bền tốc độ: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV nhằm chống lại mệt mỏi khi thực hiện các nhiệm vụ vận động đòi hỏi tốc độ gần tối đa, tới tối đa trong điều kiện năng lượng được cung cấp chủ yếu thông qua quá trình yếm khí……. Trong sinh lý TDTT căn cứ vào hệ cung cấp năng lượng người ta chia sức bền ra thành 2 loại: Sức bền ưa khí: Là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể trong điều kiện sử dụng nguồn năng lượng thông qua quá trình oxy hoá hợp chất hữu cơ giàu năng lượng trong cơ thể. Sức bền yếm khí: Là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể trong điều kiện dựa vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí (các phản ứng giải phóng năng lượng không có sự tham gia của oxy). 1.5.2. Các phương pháp phát triển sức bền Phát triển sức bền là một quá trình huấn luyện có chủ đích và kế hoạch nhằm nâng cao năng lực sức bền chuyên môn và sức bền cơ sở. Căn cứ vào mục đích tập luyện có thể sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp kéo dài thời gian: Đặc điểm của phương pháp này là thực hiện một LVĐ kéo dài, liên tục, không có thời gian nghỉ. Năng lực hấp thụ oxy được phát triển nhờ hai con đường hoặc là vận động liên tục trong điều kiện có oxy. Phương pháp kéo dài thời gian có 3 phương thức thực hiện dưới đây: Phương pháp liên tục: Phương pháp này có đặc điểm hoạt động trong thời gian dài với tốc độ ổn định. Cường độ được xác định dễ dàng thông qua tần số mạch đập. Tuỳ theo đặc điểm của môn thể thao và trình độ của người tập giá trị này ở trong khoảng 140 - 170 lần/phút. Phương pháp giãn cách: Đặc điểm của phương pháp giãn cách là luân chuyển một cách hệ thống các giai đoạn vận động ngắn, trung bình và dài với các quãng nghỉ ngắn không đủ để cơ thể hồi phục hoàn toàn. Phương pháp lặp lại: Đặc điểm của phương pháp này là lặp lại một hoặc một số yêu cầu của LVĐ thi đấu chuyên môn thông qua việc điều chỉnh cường độ hoặc thời gian vận động. 12 1.6. Cơ sở sinh lý của tố chất sức bền và sức bền tốc độ 1.6.1. Cơ sở sinh lý của tố chất sức bền Sức bền phụ thuộc vào: Khả năng hấp thụ oxy tối đa của cơ thể và khả năng duy trì mức hấp thụ oxy cao. VO 2Max càng cao thì công suất hoạt động ưa khí tối đa càng lớn. Khả năng hấp thụ oxy tối đa được quyết định bởi khả năng của hai hệ thống chức năng chính là Hệ vận chuyển oxy và hệ cơ. 1.6.2. Cơ sở sinh lý của tố chất sức bền tốc độ Sức bền tốc độ là khả năng thực hiện động tác trong khoảng thời gian ngắn nhất.Sức bền tốc độ có thể biểu hiện ở dạng đơn giản và ở dạng phức tạp. Dạng đơn giản của sức bền tốc độ bao gồm: Thời gian phản ứng, thời gian của một động tác đơn lẻ, tần số của hoạt động cục bộ. Các dạng đơn giản của sức bền tốc độ liên quan chặt chẽ với kết quả của sức bền tốc độ ở dạng phức tạp. Thời gian phản ứng, thời gian của một động tác đơn lẻ hoặc tần số động tác cục bộ càng cao thì tốc độ thực hiện các hoạt động phức tạp sẽ càng cao. Dạng phức tạp của sức bền tốc độ là thời gian thực hiện các hoạt động thể thao phức tạp khác nhau, như chạy 100m, tốc độ đấm trong quyền Anh, tốc độ dẫn bóng trong Bóng ném… Tốc độ co cơ phụ thuộc trước tiên vào tỷ lệ sợi cơ bền tốc độ và sợi cơ chậm trong bó cơ. Các cơ có tỷ lệ sợi cơ bền tốc độ cao, đặc biệt là sợi cơ nhóm II-A có khả năng tốc độ cao hơn. Tốc độ co cơ chịu ảnh hưởng của hàm lượng các chất cao năng ATP và CP, với thời gian ngắn sử dụng nguồn năng lượng phân giải yếm khí ATP và CP là chủ yếu. Vì vậy, khi hàm lượng ATP và CP trong cơ cao thì khả năng co cơ bền tốc độ cũng tăng lên. Tập luyện sức bền tốc độ làm cho hàm lượng ATP và CP trong các sợi cơ, nhất là sợi cơ bền tốc độ II-A và II-B tăng lên, theo một số tác giả, hàm lượng ATP và CP có thể tăng thêm 10 - 30% (Kox.I.M). Theo Iacoplep N.N, tốc độ co cơ còn phu thuộc vào hoạt tính của men phân giải và tổng hợp ATP và CP. Tập luyện tốc độ có thể làm tăng hoạt tính của các men này. Như vậy là sức bền tốc độ phụ thuộc chủ yếu vào tính linh hoạt của thần kinh và tốc độ co cơ. Cả hai nhóm các yếu tố ảnh hưởng đó, mặc dù có biến đổi dưới tác động của tập luyện, nhưng nói chung đều là những yếu tố được quyết định bởi các đặc điểm di truyền. Do đó trong quá trình tập luyện, sức bền tốc độ biến đổi chậm và ít 13 hơn sức mạnh và sức bền. Cơ sở sinh lý để phát triển sức bền tốc độ và tăng cường độ linh hoạt là tốc độ dẫn truyền hưng phấn ở trung tâm thần kinh và bộ máy vận động, tăng cường sự phối hợp giữa các sợi cơ và các cơ, nâng cao tốc độ thả lỏng cơ. Các yêu cầu nêu trên có thể đạt được bằng cách sử dụng các bài tập tần số cao, trọng tải nhỏ, có thời gian nghỉ dài. 1.7. Đặc điểm sức bền tốc độ trong Bóng ném và các yếu tố lượng vận động trong huấn luyện 1.7.1. Đặc điểm tố chất sức bền tốc độ trong Bóng ném Sức bền tốc độ là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV nhằm chống lại mệt mỏi khi thực hiện các nhiệm vụ vận động đòi hỏi tốc độ gần tối đa, tới tối đa trong điều kiện năng lượng được cung cấp chủ yếu thông qua quá trình ưa, yếm khí . Sức bền tốc độ trong Bóng ném là khi lặp đi lặp lại các cự ly với tần số lớn luôn gắn liền với điều kiện tập luyện và thi đấu - gọi là sức bền tốc độ. Tố chất sức bền tốc độ tốt sẽ có điều kiện nâng cao năng lực đề kháng mệt mỏi của cơ thể, khiến cho khả năng thay đổi tiết tấu của quá trình hưng phấn và ức chế của vỏ đại não nâng cao lên. Chức năng của hệ thần kinh thực vật cũng được phát triển, năng lực dự trữ năng lượng cho cơ thể được nâng cao. Tất cả sự biến hoá này về sinh lý và sinh hoá sẽ là cơ sở vật chất cần thiết cho sự phát triển các tố chất sức mạnh, tốc độ, linh hoạt, đồng thời từ đó xúc tiến cho các tố chất này phát triển. 1.7.2. Các yếu tố lượng vận động trong huấn luyện nâng cao sức bền tốc độ trong Bóng ném Tất cả các phương pháp huấn luyện nâng cao sức bền trong các môn thể thao nói chung và môn Bóng ném nói riêng đều dựa trên sự kết hợp của 5 yếu tố cơ bản của lượng vận động. Đó là: Tốc độ hay cường độ bài tập; thời gian thực hiện bài tập; thời gian nghỉ giữa quãng; tính chất nghỉ ngơi giữa quãng; số lần lặp lại. Tốc độ được chia làm 3 loại: Tốc độ dưới hạn: Là tốc độ di chuyển đòi hỏi lượng cung cấp oxy dưới mức cơ thể đáp ứng được tức là nhu cầu oxy thấp hơn khả năng hấp thụ của cơ thể. Tốc độ tới hạn: Là khi vận động viên di chuyển với tốc độ bền tốc độ thì dần sẽ đạt mức độ tới hạn khi đó nhu cầu oxy sẽ đạt tới mức bằng khả năng ưa khí (khả năng hấp thụ oxy tối đa của cơ thể). 14 Tốc độ trên tới hạn: Là tốc độ di chuyển có nhu cầu oxy cao hơn năng lượng hấp thụ oxy tối đa. Lúc này hoạt động diễn ra trong điều kiện nợ oxy do các nguồn yếm khí cung cấp năng lượng yếm khí, nên vùng tốc độ tới hạn nhu cầu oxy tăng bền tốc độ hơn nhiều so với mức tăng của tốc độ di chuyển. Thời gian bài tập: Như chúng ta đã biết, có liên quan với tốc độ di chuyển là thời gian giới hạn của một bài tập luôn luôn tương ứng với một tốc độ di chuyển nào đó. Như vậy thời gian của một buổi tập kéo dài với tốc độ dưới tới hạn đòi hỏi sự hoạt động căng thẳng của những hệ thống đảm bảo cung cấp và sử dụng oxy, trước hết là hệ tuần hoàn và hô hấp. Còn thời gian của bài tập với tốc độ trên tới hạn đòi hỏi khả năng nợ oxy của cơ thể. Thời gian nghỉ giữa quãng: Trong các bài tập lặp lại nếu thời gian nghỉ giữa quãng đủ dài cho các hoạt động sinh lý trở lại mức tương đối bình thường thì ở bài tập tiếp theo, các phản ứng của cơ thể sẽ diễn ra gần giống như lần thực hiện bài tập trước đó. Tức là lúc đầu cơ thể giải phóng năng lượng từ phốtpho creatin tiếp đến là quá trình gluco phân (ở 1 đến 2 phút tiếp theo) sau đó là các quá trình hô hấp. Tính chất nghỉ ngơi: Nghỉ ngơi giữa quãng có thể là thụ động không tiếp tục bài tập dưới một hình thức nào khác. Nghỉ ngơi tích cực là bài tập vẫn tiếp tục hoạt động với cường độ thấp hơn (chạy nhẹ nhàng, thả lỏng…). Nói chung mỗi lần thực hiện bài tập không nên nghỉ ngơi một cách thụ động (ngồi, nằm...) các hình thức nghỉ ngơi tích cực khác được coi là những biện pháp tốt để tránh hiện tượng chuyển đột ngột từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động và ngược lại, để duy trì trạng thái cơ thể ở mức hoạt động cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện bài tập ở mỗi lần lặp lại bài tập tiếp theo cũng như để thúc đẩy quá trình hồi phục. Số lần lặp lại: Trong việc huấn luyện và phát triển sức bền các bài tập thường được lặp lại với rất nhiều kiểu cách và cấu trúc khác nhau. Trong các bài tập ưa khí thời gian của mỗi lần thực hiện bài tập tương đối dài thì số lần lặp lại ít. Ngược lại, trong các bài tập yếm khí việc tăng số lần lặp lại phải hết sức thận trọng và chỉ giới hạn trong một phạm vi nhất định. Như vậy, số lần lặp lại là một trong những yếu tố quy định lượng vận động, tạo nên kết quả tổng hợp của bài tập. 1.8. Đặc điểm sinh lý của huấn luyện tố chất sức bền tốc độ 1.8.1. Cơ sở lý luận của các phương pháp nâng cao khả năng yếm khí trong huấn luyện sức bền tốc độ 15 Trong hoạt động TDTT bên cạnh các yếu tố hiểu biết về trí thức chuyên môn như đạo đức, ý chí, tâm lý, kỹ chiến thuật thì yếu tố thể lực là một yếu tố vô cùng quan trọng nó quyết định đến hiệu quả của quá trình hoạt động luyện tập và thi đấu. Hơn nữa việc rèn luyện và phát triển thể lực là một khâu then chốt trong quá trình huấn luyện thể thao. Bởi vậy các nhà sư phạm về TDTT rất cần thiết có những hiểu biết về bản chất sự phân loại, cũng như trí thức chuyên môn, các quy luật và phương pháp rèn luyện chúng. Khả năng yếm khí là khả năng vận động của cơ thể trong điều kiện dựa vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí. Nâng cao khả năng ưa khí cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao khả năng yếm khí tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những hoạt động yếm khí. Nâng cao khả năng yếm khí (với mức đồng đều cả cơ chế phốtpho creatin cũng như cơ chế glucô phân). Vì cơ thể hoạt động cường độ cao tới mức nhu cầu ôxy của cơ thể không đáp ứng thường xuyên trong quá trình vận động và một phần năng lượng phải tạo thành thông qua yếm khí. Khi tốc độ càng cao thì tỷ lệ huy động yếm khí càng lớn. Theo các tài liệu y học thể thao thì tỷ lệ này trong thời gian thi đấu 2 phút khoảng 60% và trong thời gian thi đấu 10 phút lên tới 120%. Tuy vậy khả năng ưa khí cũng có ý nghĩa quyết định trong thời gian thi đấu trung bình vì sự tạo thành năng lượng ưa khí "kinh tế" hơn so với sự tạo thành năng lượng yếm khí. Ngoài ra sự tập trung axit lactic xuất hiện trong hoạt động sẵn sàng sử dụng năng lượng yếm khí. Năng lượng yếm khí càng cao thì khả năng ưa khí tối đa càng thấp. Do đó để nâng cao khả năng yếm khí người ta thường sử dụng các bài tập có những đặc điểm sau đây: Các bài tập nhằm hoàn thiện cơ chế giải phóng năng lượng từ photphocrêatin: Cường độ hoạt động gần mức tối đa hoặc thấp hơn (95% tốc độ tối đa). Thời gian mỗi lần hoạt động từ 3 - 8 giây trở lên. Sở dĩ như vậy vì giữ trữ photphocrêatin trong cơ rất ít, sự phân huỷ hợp chất này chỉ diễn ra vài giây sau khi bắt đầu vận động. Áp dụng các hình thức hoạt động khác nhau lúc nghỉ ngơi (nghỉ ngơi tích cực). Còn cơ chế glucôphân thì sử dụng các bài tập có các đặc điểm sau: Cường độ bài tập xác định theo cự ly để tập luyện (90 - 95%) tốc độ giới hạn. 16 Khoảng cách nghỉ ngơi được xác định theo sự biến đổi của quá trình glucôphân trên cơ sở xác định nồng độ axit láctíc trong máu và nên giảm dần sau mỗi lần lặp lại. Số lần lặp lại trong hoạt động có quãng nghỉ giảm dần thường không quá 3 - 4 lần, vì trạng thái mệt mỏi tăng rất bền tốc độ. Tăng khả năng hoạt động của các cơ chế điều hoà trong điều kiện hoạt động đặc biệt với cường độ cao nhất. Ngoài phương pháp trên để phát triển sức bền tốc độ còn cần phải sử dụng phương pháp nâng cao khả năng ưa khí thông qua các bài tập yếm khí. Trong quá trình hoạt động yếm khí thực hiện dưới hình thức lặp lại nhiều lần trong thời gian ngắn và nghỉ giữa quãng không dài cũng có hiệu quả trong việc phát triển tốt khả năng ưa khí. Mặc dù điều này thoạt đầu có sự mâu thuẫn, các sản phẩm phân hoá yếm khí tạo nên khi thực hiện hoạt động căng thẳng với thời gian ngắn được sử dụng để kích thích phát triển quá trình hô hấp trong lúc nghỉ hoặc trong lúc thực hiện các bài tập cường độ thấp. Qua thực nghiệm người ta nhận thấy trong khoảng 10 - 90 giây sau mỗi lần lặp lại bài tập yếm khí thì thông khí phổi và thể tích tâm thu đều tăng lên và do đó mức hấp thụ oxy cũng tăng lên. Cường độ hoạt động cao hơn mức tới hạn khoảng 75 - 85% tốc độ tối đa. Độ dài cự ly phải lựa chọn sao cho thời gian thực hiện không quá 1 – 1,5 phút. Chỉ trong trường hợp này hoạt động mới diễn ra trong điều kiện nợ oxy tối đa lúc nghỉ ngơi. Khoảng cách nghỉ ngơi và số lần lặp lại sao cho hoạt động sau được tiến hành trên cơ sở biến đổi thuận lợi của hoạt động trước đó (không nên vượt quá 3 – 4 phút). Cần xem hoạt động nghỉ ngơi là nên tiếp tục hoạt động với cường độ thấp để tránh sự chuyển đột ngột từ trạng thái động sang tĩnh và ngược lại (nghỉ ngơi tích cực). Số lần lặp lại cần tính toán sao cho bảo đảm duy trì được trạng thái ổn định trong sự phối hợp hoạt động của các hệ thống cơ thể, thể hiện ở khả năng hấp thụ oxy ổn định ở mức tương đối cao. 1.8.2. Đặc điểm sinh lý nâng cao khả năng yếm khí khi tập luyện tố chất sức bền tốc độ trong Bóng ném Như chúng ta đã biết tập luyện để nâng cao tố chất sức bền tốc độ trong Bóng ném thực chất là nâng cao năng lực chịu đựng khả năng yếm khí của cơ thể (hệ thống cung cấp năng lượng không có oxy). 17 Như trên đã phân tích, đặc điểm cơ bản của môn Bóng ném là vận động liên tục ở cường độ cao. Trung bình, mỗi trận đấu đòi hỏi lượng VO 2 tối đa xấp xỉ quanh giá trị 80% (80% VO2 Max - theo Ekblom), tổng lượng vận động và tốc độ phần lớn tham gia vào các lần chạy nước rút trong thời gian ngắn. Việc đánh giá cự ly chạy toàn bộ không đủ cho chúng ta đánh giá sức bền của cầu thủ, mà cần phải tính đến khả năng duy trì tốc độ khi đánh giá sức bền của cầu thủ (tố chất sức bền tốc độ). Sức bền tốc độ là chỉ tình huống cơ thể cung cấp không đủ dưỡng khí do khả năng phân giải CP và ATP, nó là cơ sở vật chất về sức bền chuyên môn cho vận động viên Bóng ném. Trình độ về sức bền yếm khí của vận động viên quyết định bởi năng lực trao đổi yếm khí và năng lực phân giải đường trong điều kiện yếm khí và năng lực đề kháng axit của các tổ chức cơ thể, năng lực tồn trữ năng lượng, gìn giữ công năng của cơ quan trong cơ thể. Sức bền yếm khí không có axit. Cường độ vận động tương đối lớn, thời gian hoạt động từ 8 - 10 giây, năng lượng sử dụng là do sự phân giải ATP và CP. Sau khi phân giải không sản sinh ra axit nên gọi là sức bền yếm khí không có axit. Cự ly chạy của vận động viên Bóng ném từ 5 - 15m với tốc độ đạt từ 80 - 90%, được gọi là sức bền yếm khí không có axit tốt. Sức bền yếm khí có axit. Khi vận động với tốc độ tối đa hoặc tốc độ lớn lặp đi lặp lại nhiều lần, quá trình chuyển hoá năng lượng sẽ chuyển sang dạng phân huỷ yếm khí glucose (anaerobic glycolysis) và tạo ra axit lactic. Chuyển hoá năng lượng yếm khí cacbohydrate sinh lactate là yếu tố quyết định tố chất sức bền tốc độ. Tiến hành huấn luyện sức bền yếm khí có axít thường sử dụng cách huấn luyện giãn cách với cường độ cực đại, trong đó phương pháp huấn luyện là duy trì lượng axít máu của VĐV ở mức cao 12 (ml), khiến cho cơ thể trong quá trình huấn luyện chịu đựng được sự kích thích với thời gian dài. Từ đó thích ứng và nâng cao năng lực chịu đựng. Trong huấn luyện cần sử dụng cường độ lớn nhất của bản thân và duy trì từ 1 - 2 phút. Thời gian giãn cách nên từ 2 - 3 lần thời gian luyện tập. 1.9. Xu hướng huấn luyện sức bền tốc độ cho VĐV Bóng ném và các nguyên tắc trong quá trình huấn luyện 1.9.1. Xu hướng huấn luyện sức bền tốc độ chuyên môn cho VĐV Bóng ném 18 Theo đà phát triển của Bóng ném ngày nay, công tác huấn luyện thể lực cần phải tìm hiểu, khai thác những nhân tố thúc đẩy nguồn năng lực tiềm tàng của VĐV. Thông thường những nhân tố đó là khối lượng và cường độ vận động, nó là động lực chính làm tăng bền tốc độ thể lực cũng như thành tích cho VĐV. Thực tiễn đã chứng minh các cường quốc Bóng ném trên thế giới như Pháp, Đức, Italia… trong công tác huấn luyện đã chú ý giải quyết khối lượng vận động cao và cường độ vận động lớn một cách hợp lý. Đây cũng là kinh nghiệm mà bất cứ huấn luyện viên nào cũng biết nhưng để làm được điều đó thì không phải ai cũng có thể làm được, bởi muốn làm được thì phải tiến hành huấn luyện một cách nghiêm túc, khoa học và phải biết hệ thống hoá các bài tập, phải tập luyện liên tục trong nhiều năm mới có thể thành đạt và trở thành những VĐV đỉnh cao. Ngày nay trong huấn luyện thể lực cho VĐV Bóng ném của các đội bóng trong nước, các huấn luyện viên cũng đã tích cực sử dụng nhiều biện pháp tiên tiến, nguyên tắc và phương pháp huấn luyện khoa học nhằm nâng cao trình độ thể lực cho vận động viên được thể hiện ở các mặt chính như sau: Nguyên tắc huấn luyện tăng tiến, có hệ thống. Tăng cường công tác huấn luyện từ nhiều hướng. Quá độ từ huấn luyện đơn lẻ sang huấn luyện tổng hợp. Coi trọng hồi phục sau huấn luyện. 1.9.2. Các nguyên tắc và những điều chú ý khi tập luyện sức bền tốc độ Các nguyên tắc khi tập luyện sức bền tốc độ Luyện tập sức bền tốc độ có thể được chia thành tập luyện để phát triển và tập luyện duy trì. Mục đích của tập luyện để phát triển là nâng cao khả năng hoạt động tối đa trong một thời gian tương đối ngắn, trong khi mục đích luyện tập để duy trì sức bền là để nâng cao khả năng chịu đựng hoạt động ở cường độ cao. Cường độ bài tập trong luyện tập sức bền tốc độ nên gần đạt được mức độ tối đa. Có nghĩa là luyện tập được tiến hành theo nguyên tắc giãn cách. Trong luyện tập để phát triển, thời gian của các giai đoạn hoạt động nên tương đối ngắn (20 - 40 giây) và khoảng thời gian nghỉ ngơi giữa các hoạt động nên tương đối dài (2 - 4 phút) để giữ được cường độ cao trong suốt quá trình luyện tập để phát triển. Trong tập luyện duy trì, khoảng thời gian hoạt động nên là 30 - 120 giây và khoảng thời gian nghỉ cũng nên gần bằng với khoảng thời gian hoạt động - cốt để tăng dần sự mệt mỏi của cầu thủ. 19 Nếu khoảng thời gian hoạt động trong luyện tập sức bền tốc độ kéo dài một phút hay hơn nữa thì có thể sử dụng cách đo nhịp tim để xác định liệu cường độ hoạt động có đủ cao hay không? Tới giai đoạn cuối cùng của hoạt động này thì nhịp tim gần như là tối đa. Những điều chú ý khi tập luyện sức bền tốc độ chuyên môn Tập tố chất sức bền tương đối gian khổ và buồn chán. Bởi vì VĐV phải tiến hành tập luyện một cách đơn điệu lặp đi lặp lại nhiều lần trong điều kiện thiếu dưỡng khí, trong một thời gian kéo dài. Do đó, trong quá trình huấn luyện cần lưu ý bồi dưỡng ý chí, phẩm chất cho VĐV. Đồng thời cũng nên sử dụng nhiều phương pháp thay đổi điều kiện tập luyện, thay đổi hoàn cảnh nhằm thúc đẩy sự hưng phấn, loại bỏ cảm giác khô khan, chán nản. Khi tiến hành huấn luyện sức bền yếm khí nên lấy việc huấn luyện sức bền có oxy làm cơ sở. Nếu có một trình độ huấn luyện sức bền có oxy nhất định, không những có thể tận dụng năng lượng của cơ thể mà còn làm cho năng lực hấp thụ, chuyển hoá và vận dụng oxy được nâng cao, có lợi cho việc tiêu trừ thật bền tốc độ các chất có axít và không có axít, nhằm tác dụng kéo dài sự xuất hiện của mệt mỏi và quá trình hồi phục tăng bền tốc độ. Trong huấn luyện sức bền, tiêu hao năng lượng các mặt của VĐV đều rất lớn nên cần phải coi trọng sự hồi phục, nhằm thúc đẩy quá trình bài trừ mệt mỏi về thể lực và thần kinh của VĐV. 1.10. Nhận xét Từ những kết quả phân tích và tổng hợp nêu trên, có thể đi đến một số nhận xét sau: Xu hướng huấn luyện hiện đại đòi hỏi ngay từ giai đoạn huấn luyện ban đầu đối với từng môn thể thao cần phải định hướng phát triển thể lực chuyên môn ngay trân nền tảng phát triển thể lực chung. Sức bền tốc độ trong thi đấu là tố chất đặc thù của môn Bóng ném, bởi vậy ngay từ đầu cần phải huấn luyện sức bền tốc độ cho VĐV một cách toàn diện, tạo cơ sở phát triển thành tích sau này. Luyện tập không có oxy (yếm khí) là cách huấn luyện khống chế cường độ vận động không có oxy ở dạng cao. Hình thức tập luyện kích thích tăng axít lactic và tăng hiệu suất bài tiết làm cho vận động viên không tồn đọng axít độc hại, từ đó có thể kéo 20 dài thời gian tập luyện. Tập luyện không có oxy nhằm nâng cao cường độ vượt trội về năng lực của hệ thống trao đổi khí. Đây là một mô hình huấn luyện được sử dụng tương đối rộng rãi trong việc tập luyện tố chất sức bền tốc độ. Trong khi huấn luyện, trước tiên cần xác định mức yếm khí đối với vận động viên. Sau đó mới vận dụng 80 - 90% tốc độ yếm khí, thay nhau chạy tốc độ không ngừng và chiếm 60% tổng khối lượng chung. Đây là phương pháp tập luyện thường gặp có tác dụng nâng cao năng lực yếm khí. Trong thực tế một trận đấu Bóng ném kéo dài từ 60 phút, đòi hỏi VĐV phải di chuyển lên xuống rất nhiều lần, trong khi đó không có khoảng thời gian nghỉ giữa các lần hoạt động. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả trong thi đấu khi thực hiện kĩ chiến thuật, thì VĐV phải có khả năng duy trì tốt sức bền chuyên môn đặc biệt là tố chất sức bền tốc độ. Tố chất sức bền trong Bóng ném luôn gắn với điều kiện tập luyện và thi đấu, nhất là khi lặp đi lặp lại các cự ly tốc độ với tần số lớn - gọi là tố chất sức bền tốc độ. Có thể nói sức bền tốc độ được coi là tố chất đặc trưng của Bóng ném, nó là cơ sở để VĐV phát huy hết khả năng về kĩ chiến thuật nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong một trận đấu.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan