Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng công tác tham mưu, ...

Tài liệu Nghiên cứu thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng công tác tham mưu, tổng hợp phục vụ cấp ủy trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

.DOC
30
169
87

Mô tả:

UBND TỈNH QUẢNG NGÃI TỈNH ỦY QUẢNG NGÃI SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VĂN PHÒNG BÁO CÁO TÓM TẮT KẾT QUẢ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC “NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THAM MƯU, TỔNG HỢP PHỤC VỤ CẤP ỦY TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA” (MÃ SỐ ĐỀ TÀI: 11/2011/HĐ-ĐTKHXH) Cơ quan chủ trì đề tài: Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Ngãi Chủ nhiệm đề tài: Phạm Trường Thọ Quảng Ngãi, tháng 9 năm 2013 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài - Kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu và đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, là một chủ trương lớn của Đại hội XI của Đảng và của Đại hội XVIII Đảng bộ tỉnh. Bởi vì, h iệu quả hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng luôn gắn liền với chất lượng, hiệu quả công tác của các cơ quan tham mưu, đặc biệt là cơ quan văn phòng cấp uỷ - làm việc trực tiếp, gần gũi nhất với thường trực, ban thường vụ cấp ủy. - Các văn phòng cấp ủy trong tỉnh, qua các thời kỳ đều có những đóng góp quan trọng vào thành tích chung của Đảng bộ, đã được tặng thưởng nhiều huân, huy chương, bằng khen của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công tác tham mưu, tổng hợp của các văn phòng vẫn còn nhiều mặt hạn chế cần phải được nghiên cứu sâu sắc và có giải pháp khắc phục kịp thời. - Tình hình thế giới hiện nay diễn biến hết sức nhanh chóng và phức tạp, để đảm bảo sự nghiệp cách mạng đi đến thành công, thì việc nâng cao chất lượng công tác tham mưu, tổng hợp của cơ quan văn phòng cấp ủy, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới là hết sức cấp thiết. 2. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục tiêu - Nghiên cứu làm rõ thực trạng, những mặt được, chưa được, những hạn chế yếu kém và nguyên nhân trong công tác tham mưu, tổng hợp của các văn phòng cấp uỷ trong tỉnh. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu, tổng hợp của các văn phòng cấp uỷ phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy trong tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2.2. Nội dung nghiên cứu của Đề tài, tập trung vào 2 nội dung chính: - Đánh giá thực trạng tình hình công tác tham mưu tổng hợp của các văn phòng cấp ủy trong tỉnh giai đoạn 2006 - 2010. 3 - Xây dựng các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác tham mưu, tổng hợp phục vụ cấp uỷ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học chính trị xã hội, mà chủ yếu là: + Tiếp cận, phân tích tài liệu, thu thập thông tin từ văn bản của Đảng, Nhà nước; tài liệu lưu trữ tại các văn phòng và tạp chí chuyên ngành. + Chú trọng phương pháp tổng kết hoạt động thực tiễn của các văn phòng cấp uỷ, chọn lọc phân tích thông tin, số liệu từ các báo cáo sơ kết, tổng kết công tác của Văn phòng Trung ương và văn phòng cấp uỷ trong tỉnh. + Điều tra khảo sát thực tế các ban, ngành của tỉnh, 14 huyện, thành phố, 100 xã, phường, thị trấn và một số văn phòng cấp uỷ phía Bắc. + Tổ chức các cuộc hội thảo để lấy ý kiến chuyên gia. + Thảo luận, làm việc tập trung theo nhóm. 4. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu - Về đối tượng nghiên cứu: Công tác tham mưu, tổng hợp của Văn phòng Tỉnh ủy và văn phòng các huyện uỷ, thành uỷ. - Về phạm vi và giới hạn nghiên cứu: Ở Văn phòng Tỉnh ủy và văn phòng các huyện uỷ, thành uỷ giai đoạn 2006 - 2010. 5. Ý nghĩa của đề tài - Thực hiện đề tài là điều kiện thuận lợi cho các cá nhân thực hiện đề tài nâng cao năng lực nghiên cứu, hoàn thành tốt nhiệm vụ của bản thân. - Cung cấp luận cứ khoa học để xây dựng các đề án tăng cường chất lượng, hiệu quả công tác các cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy. - Sản phẩm đề tài là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho báo cáo viên, học viên lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn trong hệ thống văn phòng cấp uỷ. - Góp phần cải tiến lề lối làm việc, nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với hệ thống chính trị; giúp cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp. 4 6. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung báo cáo tổng kết đề tài được thể hiện trong ba chương: Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về văn phòng cấp ủy và công tác tham mưu, tổng hợp phục vụ cấp ủy. Chương II: Đánh giá thực trạng tình hình công tác tham mưu, tổng hợp của các văn phòng cấp ủy trong tỉnh giai đoạn 2006 - 2010. Chương III: Xây dựng các giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng công tác tham mưu, tổng hợp phục vụ cấp ủy thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. PHẦN NỘI DUNG Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VĂN PHÒNG CẤP ỦY VÀ CÔNG TÁC THAM MƯU, TỔNG HỢP PHỤC VỤ CẤP ỦY I. Những vấn đề chung về văn phòng và công tác tham mưu, tổng hợp của văn phòng cấp uỷ. 1. Vị trí, vai trò của văn phòng Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ "văn phòng" là bộ phận phụ trách công việc giấy tờ, hành chính trong một cơ quan đơn vị. Nhưng hiểu như vậy là chưa đủ, vì trong thực tế, văn phòng có rất nhiều mô hình và có những văn phòng có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, được giao nhiều chức trách quan trọng khác. Văn phòng là một tổ chức gắn liền với quá trình tồn tại và phát triển của cơ quan đơn vị; văn phòng là bộ mặt của cơ quan đơn vị, là nơi đầu tiên trực tiếp giao dịch với các đơn vị khác; hiệu quả hoạt động của văn phòng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả hoạt động chung của toàn bộ cơ quan đơn vị. 2) Chức năng, nhiệm vụ của văn phòng cấp ủy Gắn liền với sự ra đời, phát triển và trưởng thành của Đảng bộ, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống văn phòng cấp uỷ ngày càng được hoàn thiện. (1) Khi Đảng còn hoạt động bí mật, văn phòng chỉ là bộ phận chuyên lo giấy tờ, văn bản, các điều kiện làm việc. Khi có chính quyền, Đảng hoạt động 5 công khai, văn phòng trở thành một cơ quan chức năng của cấp ủy, giúp cấp ủy điều hành công việc hàng ngày của Đảng. (2) Tháng 12/1977, Ban Bí thư có Chỉ thị 25-CT/TW xác định: Văn phòng là một cơ quan chuyên môn trực tiếp giúp cấp ủy điều hành công việc hàng ngày. Đến năm 1993, Chỉ thị số 17-CT/TW khẳng định: Văn phòng cấp ủy là một cơ quan thuộc hệ thống các ban đảng cấp ủy, có chức năng tham mưu giúp cấp ủy, trực tiếp là giúp ban thường vụ và thường trực cấp ủy tổ chức điều hành công việc lãnh đạo của Đảng. (3) Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương Đảng (khóa VIII) về việc hợp nhất ban kinh tế, ban nội chính, ban tài chính - quản trị về văn phòng cấp ủy cấp tỉnh, Văn phòng cấp ủy cấp tỉnh có 2 chức năng: - Tham mưu giúp điều hành công việc lãnh đạo của cấp ủy; phối hợp điều hòa hoạt động các ban đảng, trung tâm thông tin tổng hợp phục vụ cấp ủy. - Phục vụ trực tiếp các hoạt động hàng ngày của cấp ủy như: các hội nghị cấp ủy, ban thường vụ và thường trực cấp ủy; nhân sao, phát hành, lưu trữ tài liệu; quản lý tài chính, tài sản, bảo đảm các điều kiện làm việc của cấp ủy… (4) Ngày 8/5/2009, Ban Bí thư ban hành Quy định 222-QĐ/TW xác định Văn phòng cấp ủy tỉnh có 04 chức năng cơ bản và 05 nhóm nhiệm vụ: Về bốn chức năng cơ bản: - Tham mưu, tổng hợp của cấp ủy, giúp cấp ủy tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy; phối hợp hoạt động của các cơ quan tham mưu phục vụ cấp ủy. - Tham mưu nghiên cứu, đề xuất chủ trương, chính sách thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, nội chính, đối ngoại của cấp ủy. - Tham mưu về công tác quản lý tài chính, tài sản đảng bộ, trực tiếp quản lý tài sản của tỉnh ủy và các cơ quan, tổ chức đảng thuộc tỉnh ủy , bảo đảm hậu cần cho hoạt động của cấp ủy. - Trung tâm thông tin tổng hợp phục vụ lãnh đạo của cấp ủy. Về năm nhóm nhiệm vụ chủ yếu: 6 1. Nghiên cứu, đề xuất: Quy chế làm việc, Chương trình công tác, công tác đối ngoại; sơ kết, tổng kết thực tiễn về công tác văn phòng cấp ủy… 2. Hướng dẫn thực hiện, kiểm tra, giám sát: Công tác thông tin; công tác văn thư, lưu trữ, cơ yếu và ứng dụng công nghệ thông tin; công tác tài chính, tài sản cho văn phòng cấp ủy cấp dưới; bồi dưỡng nghiệp vụ công tác văn phòng… 3. Thẩm định, thẩm tra các đề án của các cơ quan, tổ chức trước khi trình cấp uỷ về yêu cầu, phạm vi, quy trình, thẩm quyền ban hành và thể thức văn bản của đề án… 4. Phối hợp: với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất, cụ thể hóa một số chủ trương của Tỉnh ủy về cơ chế, chính sách kinh tế - xã hội, nội chính; xây dựng một số đề án do Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thường trực Tỉnh ủy giao… 5. Thực hiện một số nhiệm vụ do Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thường trực Tỉnh ủy giao. Từ 04 chức năng và 05 nhóm nhiệm vụ được Trung ương quy định, căn cứ vào đặc điểm, điều kiện thực tế, văn phòng cấp ủy cấp tỉnh cụ thể hóa thành 11 nhiệm vụ chủ yếu như sau: (1) Giúp cấp ủy xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế làm việc, các chương trình công tác. (2) Tham mưu về chủ trương, chính sách đối với lĩnh vực kinh tế - xã hội, đối ngoại, nội chính tại địa phương. (3) Giúp cấp ủy trong việc chuẩn bị và theo dõi, đôn đốc, thẩm tra việc chuẩn bị các đề án trình cấp ủy; văn bản hóa các kết luận của cấp ủy. (4) Giúp cấp ủy trong việc tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; theo dõi hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc. (5) Làm công tác thông tin tổng hợp phục vụ lãnh đạo. (6) Giúp cấp ủy làm công tác thư từ tiếp dân. (7) Làm công tác văn thư phục vụ cấp ủy. (8) Giúp cấp ủy làm công tác lưu trữ Đảng. (9) Tham mưu giúp cấp ủy quản lý tài chính, tài sản của Đảng bộ; bảo đảm hậu cần cho hoạt động của cấp ủy. (10) Giúp cấp ủy tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan đảng; bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt và bảo vệ an toàn tuyệt đối trụ sở làm việc của tỉnh ủy. (11) Thực hiện một số nhiệm vụ khác khi được ban thường vụ, thường trực cấp ủy giao. 7 Khác với Trung ương và cấp tỉnh, cấp uỷ cấp huyện không phải là cấp có vai trò hoạch định đường lối, chủ trương, các cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước, mà chủ yếu là cấp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tại địa phương nên chức năng, nhiệm vụ của văn phòng cấp ủy cấp huyện được thu gọn hơn so với văn phòng cấp ủy tỉnh, phù hợp với vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp huyện. Văn phòng cấp ủy cấp huyện có 2 chức năng cơ bản: (1) Tham mưu giúp cấp ủy tổ chức điều hành công việc của cấp ủy, điều hòa hoạt động của các cơ quan giúp việc cấp ủy; kiến nghị những vấn đề cần thiết trong tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại địa phương; tổng hợp thông tin phục vụ cấp ủy. (2) Phục vụ trực tiếp các hoạt động hằng ngày của cấp ủy; quản lý tài chính, tài sản của đảng bộ và bảo đảm hậu cần phục vụ hoạt động của cấp ủy, của các cơ quan tham mưu của cấp ủy. Căn cứ vào 2 chức năng và từ thực tế hoạt động có thể khái quát văn phòng cấp ủy cấp huyện có 9 nhiệm vụ chủ yếu sau: (1) Giúp cấp ủy xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế làm việc và chương trình công tác của cấp ủy. (2) Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị nội dung, tài liệu trình hội nghị cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy. (3) Phối hợp các cơ quan giúp cấp uỷ theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện và chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng tại địa phương. (4) Tổ chức công tác thông tin phục vụ sự lãnh đạo của cấp uỷ. (5) Giúp cấp ủy làm công tác thư từ, tiếp dân. (6) Đảm bảo thực hiện công tác văn thư, lưu trữ theo quy định. (7) Tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin, đảm thông tin liên lạc thông suốt và an toàn tuyệt đối. (8) Quản lý tài chính, tài sản của đảng bộ. (9) Thực hiện các nhiệm vụ khác do ban thường vụ, thường trực giao. II. Quá trình hình thành, phát triển của các văn phòng cấp uỷ. Lịch sử văn phòng cấp uỷ gắn liền với sự ra đời và lãnh đạo của Đảng. Cách đây hơn 80 năm, tại Hội nghị lần thứ nhất, BCH Trung ương Đảng quyết 8 định thành lập các bộ phận chuyên môn giúp việc, trong đó có Văn phòng Trung ương, mở đầu cho sự hình thành và phát triển của cả hệ thống văn phòng cấp ủy từ Trung ương đến địa phương. Ban Bí thư khoá IX thống nhất lấy ngày 18/10/1930 là ngày truyền thống văn phòng cấp uỷ trong cả nước. Văn phòng Tỉnh uỷ nói riêng, các văn phòng cấp ủy trong tỉnh nói chung, là một bộ phận của hệ thống văn phòng cấp uỷ; quá trình xây dựng, phát triển, trưởng thành gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi. Từ khi thành lập Đảng bộ tháng 3/1930 đến nay, trải qua các thời kỳ cách mạng, trong kháng chiến cũng như thời hòa bình, được sự chăm lo xây dựng, chỉ đạo trực tiếp của ban thường vụ và thường trực cấp ủy, đội ngũ cán bộ văn phòng cấp ủy trong tỉnh đã nhanh chóng phát triển, trưởng thành; chất lượng công tác tham mưu, tổng hợp phục vụ cấp uỷ không ngừng nâng lên, các văn phòng cấp ủy đã nắm vững chức năng, nhiệm vụ, chủ động tham mưu giúp cấp uỷ, ban thường vụ ban hành kịp thời, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, củng cố hệ thống chính trị. Các văn phòng cấp uỷ đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển tỉnh nhà và đã được tặng thưởng nhiều huân, huy chương, bằng khen của Đảng, Nhà nước. Ngày nay trước xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, khoa học, công nghệ phát triển nhanh, thế giới và khu vực có nhiều biến động; để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, giúp các cấp ủy đảng trong tỉnh triển khai thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết đại hội Đảng bộ đề ra, đưa Quảng Ngãi "đến năm 2020, cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại" thì việc nâng cao chất lượng công tác tham mưu, tổng hợp phục vụ cấp uỷ trở nên vô cùng cấp thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chương II ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CÔNG TÁC THAM MƯU, TỔNG HỢP CỦA CÁC VĂN PHÒNG CẤP ỦY TRONG TỈNH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 I. Những kết quả chủ yếu trong công tác tham mưu, tổng hợp của các văn phòng cấp ủy trong tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 9 1. Kịp thời tham mưu giúp cấp uỷ xây dựng, tổ chức thực hiện quy chế làm việc và các chương trình công tác - Các văn phòng cấp uỷ (Văn phòng Tỉnh ủy, văn phòng huyện ủy, thành ủy) đã thực hiện nhiệm vụ tham mưu, giúp cấp ủy xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế làm việc khá tốt. Theo kết quả điều tra, có tới 80,6% số người được hỏi đánh giá tốt; 17,4% số người được hỏi đánh giá khá; 0,75% đánh giá trung bình và 0% có ý kiến nào đánh giá kém. - Các chương trình làm việc của cấp uỷ đã được văn phòng cấp ủy tham mưu xây dựng đảm bảo đúng nguyên tắc; nội dung bao quát, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, bám sát tình hình thực tiễn của địa phương; trong thực hiện đã kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với từng thời điểm, thời kỳ và đảm bảo đúng thẩm quyền của ban chấp hành, ban thường vụ và thường trực cấp ủy, trách nhiệm tập thể và cá nhân theo quy chế làm việc cấp uỷ. Chất lượng tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình công tác ngày càng tốt hơn; chương trình toàn khoá của cấp ủy, chương trình công tác năm, hàng quý, tháng của ban thường vụ và thường trực cấp ủy được thực hiện khá đầy đủ. Các vấn đề chiến lược, những nội dung lớn về các lĩnh vực kinh tế - xã hội và công tác xây dựng Đảng từ năm 2006 đến nay, việc tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ... đã được đưa vào chương trình và thực hiện đạt kết quả tốt. Đánh giá chung về công tác tham mưu giúp cấp ủy xây dựng, tổ chức thực hiện chương trình công tác là khá tốt. Đã có 73,2% số người được hỏi nhận xét ở mức “tốt”, 22,5% nhận xét ở mức “khá”; chỉ có 1,9% đánh giá ở mức “trung bình”; 0,3% cho rằng ở mức “kém”. 2. Tham mưu, giúp Tỉnh ủy triển thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách trên lĩnh vực kinh tế - xã hội và đối ngoại của tỉnh. Các văn phòng đã tham mưu cho cấp ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 08 của BCH Trung ương khoá IX, về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên tổ chức thương mại thế giới; Nghị quyết số 09 của BCH Trung ương khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; Nghị quyết số 26 của BCH Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông thôn, nông dân; 10 đặc biệt là 07 Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh uỷ khoá XVII về nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ trọng tâm, đột phá và 8 chương trình trọng điểm do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đề ra. Ngay sau khi ban hành các nghị quyết chuyên đề, Văn phòng Tỉnh uỷ đã phân công cán bộ theo dõi sát sao tình hình triển khai thực hiện, kịp thời tham mưu cho Thường trực Tỉnh uỷ đôn đốc Đảng đoàn Hội đồng nhân dân, Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo thể chế hoá, cụ thể hoá về mặt nhà nước, ban hành các đề án, kế hoạch cụ thể để tổ chức thực hiện; rà soát, bổ sung hoàn thiện, ban hành mới các cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ, môi trường ... để đưa nghị quyết đi vào cuộc sống. Cùng với tham mưu xây dựng, ban hành các văn bản chỉ đạo, văn phòng đã chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan tham mưu cho Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh uỷ chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát (mỗi năm tiến hành từ 10 - 12 cuộc kiểm tra, giám sát chuyên đề) và công tác sơ kết, tống kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về kinh tế - xã hội, đánh giá đúng thực trạng tình hình và kịp thời đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện sát hợp với điều kiện thực tiễn kinh tế - xã hội của tỉnh. Các văn phòng cấp ủy, nhất là Văn phòng Tỉnh ủy đã chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất các chủ trương về phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại phù hợp. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Tỉnh ủy, kinh tế của tỉnh trong nhiều năm liền tăng trưởng tốc độ cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng, quy mô kinh tế tăng lên đáng kể, tỉnh ta đã cơ bản ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đánh giá về công tác tham mưu trên lĩnh vực kinh tế - xã hội và đối ngoại, đã có 50,16% ý kiến được hỏi cho rằng “đáp ứng tốt yêu cầu”, 43,8% cho rằng “đáp ứng yêu cầu nhưng có mặt còn hạn chế”, chỉ có 2,4% cho rằng “chưa đáp ứng yêu cầu” . 3. Tham mưu, giúp cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác nội chính, tiếp dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo. - Về công tác nội chính giai đoạn 2006 - 2010 11 Đã tham mưu chỉ đạo thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo định kỳ về lĩnh vực nội chính. Riêng Văn phòng Tỉnh uỷ từ đầu năm 2005 đến hết năm 2010, đã tham mưu 81 báo cáo các loại; thông qua đó, văn phòng đã tổng hợp, phản ánh kịp thời thông tin về tình hình nội chính, về công tác nội chính, về hoạt động của các cơ quan nội chính để phục vụ sự lãnh đạo của cấp uỷ; đồng thời đã tích cực giúp cấp ủy chỉ đạo thực hiện một số chuyên đề như: chỉ đạo công tác tôn giáo; tổ chức thực hành diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh; chỉ đạo diễn tập khu vực phòng thủ các địa phương trên địa bàn. Chú trọng giúp cấp ủy chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông; phòng, chống tham nhũng; cải cách tư pháp; phòng, chống và kiểm soát ma tuý... Đánh giá về công tác nầy, theo kết quả điều tra có 50,4% số người được hỏi đánh giá đáp ứng tốt yêu cầu và 42,8% nhận xét đáp ứng yêu cầu nhưng có mặt còn hạn chế, trong điều kiện thiếu cán bộ, đây là một cố gắng lớn ở các văn phòng cấp ủy trong tỉnh. - Về công tác tiếp dân và tham mưu xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo Từ năm 2005 đến hết 2010, Văn phòng Tỉnh uỷ đã tiếp 526 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo; tiếp nhận 1.767 đơn thư các loại và sau khi xem xét phân loại đã tham mưu cho ban thường vụ, thường trực chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền giải quyết; định kỳ 6 tháng và hàng năm, tổng hợp, báo cáo cho Thường trực Tinh uỷ, đề xuất biện pháp để chỉ đạo thực hiện. Công tác tiếp dân, tham mưu xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo ở các văn phòng cấp ủy thực hiện đạt kết quả tốt. Kết quả đạt được đã góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội . 4. Tổ chức thực hiện tốt công tác tổng hợp thông tin phục vụ cấp ủy Các văn phòng cấp ủy trong tỉnh đã làm tốt chức năng cầu nối giữa cấp uỷ với các cấp, các ngành, với đảng viên và nhân dân trong tỉnh; bám sát thực tiễn cuộc sống, phối hợp chặt chẽ với các ban xây dựng đảng, các cơ quan, ban, ngành có liên quan, theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy và cấp ủy cấp mình, góp phần đảm bảo cho mọi nghị quyết, chỉ thị được thực hiện một cách nghiêm túc và có hiệu quả từ tỉnh đến cơ sở. Chất lượng thông tin, nội dung thông tin báo cáo với 12 ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy đảm bảo chính xác, kịp thời, khách quan, trung thực, có sự chắt lọc, mang tính tổng hợp cao. 5. Công tác tham mưu, biên soạn văn bản cấp ủy có nhiều tiến bộ, chất lượng các loại văn bản của cấp ủy từng bước được nâng cao Trong giai đoạn 2006 - 2010, các văn phòng cấp ủy trong tỉnh đã trực tiếp tham mưu và phối hợp tham mưu cho cấp ủy ban hành gần 10.000 văn bản các loại. Văn bản phát hành đảm bảo đầy đủ thể thức văn bản và đúng thẩm quyền, tiến độ thời gian, chất lượng ngày càng được nâng cao, truyền đạt đúng tinh thần lãnh đạo, chỉ đạo của ban chấp hành, ban thường vụ và thường trực cấp ủy. Nhiều văn bản đã đi vào thực tiễn, tạo nên những chuyển biến tích cực trên các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị. 6. Tham mưu thực hiện có hiệu quả công tác quản lý tài chính, tài sản của Đảng, bảo đảm hậu cần cho hoạt động của cấp ủy Đã thực hiện tốt vai trò tham mưu giúp thường trực cấp ủy điều hành, quản lý tài chính, tài sản của đảng bộ, đảm bảo nguồn kinh phí để thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác đối nội, đối ngoại của cấp uỷ và các cơ quan tham mưu của cấp uỷ. Thực hiện tốt các quy định của Luật ngân sách Nhà nước về lập, phê duyệt, phân bổ, quyết toán thu, chi tài chính. Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định về quản lý tài chính, tài sản và về tổ chức thực hiện dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc, đảm bảo cho các đơn vị hoạt động có hiệu quả, đúng quy định. Công tác quản lý tài chính, tài sản của các cấp ủy ngày càng chặt chẽ hơn. Tổ chức thực hiện chế độ báo cáo quyết toán tài chính, báo cáo công khai tài chính hàng năm đúng theo quy định. Kết quả điều tra về công tác tham mưu quản lý tài chính, tài sản, cho thấy có 60% số người được phỏng vấn nhận xét “đáp ứng tốt” yêu cầu; 35,7% nhận xét “đáp ứng yêu cầu nhưng có mặt còn hạn chế; chỉ có 1,3% nhận xét “chưa đáp ứng yêu cầu”. 7. Tổ chức thực hiện công tác văn thư, lưu trữ, cơ yếu theo đúng các quy định của Đảng và Nhà nước; triển khai ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong các cơ quan Đảng 13 - Công tác văn thư, lưu trữ giai đoạn 2006 - 2010 được đánh giá khá tốt. Từ việc tiếp nhận văn bản, gửi văn bản đi, theo dõi quá trình vận hành các văn bản; tổ chức nhân sao, in ấn, phát hành các loại văn bản; ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hoá công tác văn bản, bảo đảm an toàn và giữ tài liệu mật của Đảng; thu hồi, chỉnh lý, bảo quản … các tài liệu phông lưu trữ Đảng thuộc trách nhiệm quản lý của cấp ủy; tổ chức khai thác tài liệu phục vụ cho công tác lãnh đạo của các cấp ủy, cho đến việc hướng dẫn nghiệp vụ công tác văn thư, lưu trữ trong hệ thống các cơ quan đảng, đoàn thanh niên trong tỉnh đều được tổ chức thực hiện đạt kết quả tốt, không để xảy ra sai sót đáng tiếc. - Công tác cơ yếu, công nghệ thông tin, đã tham mưu cấp ủy triển khai xây dựng và thực hiện việc quản lý, khai thác, ứng dụng, bảo vệ mạng thông tin diện rộng của đảng bộ và hướng dẫn việc ứng dụng công nghệ thông tin cho toàn bộ hệ thống văn phòng cấp uỷ, bảo đảm thông tin kịp thời, thông suốt, liên tục, góp phần quan trọng vào việc cải cảnh thủ tục hành chính trong Đảng. 8. Phối hợp kịp thời, chặt chẽ hơn với các ban xây dựng đảng để tham mưu cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch vững mạnh Văn phòng đã phối hợp với ban tuyên giáo tham mưu cho cấp ủy lãnh đạo công tác tư tưởng, định hướng dư luận xã hội, kịp thời quán triệt, triển khai các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đẩy mạnh việc học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nâng cao nhận thức, thống nhất ý chí, hành động trong đảng bộ và sự đồng thuận trong xã hội; phối hợp với uỷ ban kiểm tra và các đơn vị liên quan tham mưu cấp uỷ chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương và của cấp uỷ; phối hợp ban tổ chức tham mưu cho cấp ủy trong việc quản lý tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ, củng cố kiện toàn bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị; phối hợp ban dân vận tham mưu cấp uỷ lãnh đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội, vận động đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân 14 tộc. Theo kết quả điều tra, có 13% số người được phỏng vấn khẳng định công tác này được thực hiện “rất hiệu quả”; 58,1% cho rằng “hiệu quả”, 16% cho rằng “tương đối hiệu quả”; số đánh giá công tác này “chưa hiệu quả” chỉ 0,3%. 9. Tham mưu, giúp cấp uỷ tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ các cấp trong tỉnh Các văn phòng cấp uỷ tham mưu, giúp cấp uỷ chuẩn bị chu đáo các điều kiện, cả nội dung lẫn vật chất, hậu cần để tổ chức thành công đại hội đảng bộ nhiệm kỳ 2010 - 2015. Đặc biệt là đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan giúp cấp uỷ biên tập, chỉnh lý, hoàn thiện các văn kiện đại hội đảng bộ, nhất là hai báo cáo quan trọng: báo cáo chính trị trình đại hội và báo cáo kiểm điểm ban chấp hành, ban thường vụ cấp uỷ. Kết quả phỏng vấn cho thấy, đại đa số người được hỏi đều hài lòng với công tác tham mưu, phục vụ đại hội của các văn phòng cấp uỷ (80,6% nhận xét tốt; 14,5% nhận xét khá; chỉ có 1,9% nhận xét trung bình; không ai đánh giá kém. II. Những hạn chế, yếu kém chủ yếu trong công tác tham mưu, tổng hợp của các văn phòng cấp ủy trong tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 1. Đối với văn phòng cấp ủy tỉnh (Văn phòng Tỉnh ủy) 1.1. Chất lượng công tác tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình công tác chưa cao. Chất lượng tham mưu xây dựng chương trình công tác chưa có mặt còn hạn chế. Chưa xây dựng được chương trình công tác năm của ban thường vụ cấp uỷ. Chương trình công tác quý, chương trình công tác tháng, lịch công tác tuần tính ổn định thấp, sau khi xây dựng còn phải thay đổi, bổ sung nhiều mới thực hiện được. Lịch làm việc Thường trực Tỉnh ủy hai tuần xây dựng một lần, không dự đoán hết được những công việc phát sinh, nhất là theo yêu cầu của Trung ương, gây bị động cho các đơn vị trực thuộc. 1.2. Về công tác tham mưu trên lĩnh vực kinh tế - xã hội: Tham mưu trên lĩnh vực kinh tế xã hội còn có những vấn đề chưa thật trúng và tính bền vững của các cơ chế, chính sách chưa cao. Một số dự án trọng điểm đã được thẩm định trình cấp ủy thông qua nhưng tính khả thi và hiệu quả kinh tế - xã hội thấp. 15 Kinh tế của tỉnh phát triển chưa đồng đều giữa các ngành, các vùng và có mặt thiếu bền vững. Sản xuất nông nghiệp phát triển chưa toàn diện. Dịch vụ phát triển chưa tương xứng với phát triển công nghiệp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển văn hóa - xã hội chưa tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế. 1.3. Tham mưu trên lĩnh vực đối ngoại còn nhiều hạn chế; việc cụ thể hóa một số chủ trương, chính sách lớn của Trung ương vào điều kiện thực tế địa phương còn chậm; phối hợp với các cơ quan có liên quan trong công tác đối ngoại chưa thật chặt chẽ; công tác thông tin đối ngoại chưa đáp ứng được yêu cầu. Công chức làm công tác đối ngoại thiếu chuyên môn, nghiệp vụ đối ngoại. 1. 4. Về công tác tham mưu trên lĩnh vực nội chính, tiếp dân: - Công tác thông tin nội chính chủ yếu dựa trên báo cáo định kỳ của các cơ quan nội chính; việc khảo sát nắm bắt tình hình thực tế cơ sở; đề xuất xử lý những vấn đề tồn đọng, phát sinh, nổi cộm gây bức xúc nhân dân còn hạn chế. - Công tác tiếp dân, chủ yếu là nhận và chuyển đơn thư, việc hướng dẫn công dân trong việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị còn ít. Việc đôn đốc xử lý, cập nhật kết quả giải quyết đơn thư thiếu thường xuyên. Chưa có phần mềm công nghệ thông tin về quản lý đơn thư. Tỷ lệ đơn thư các cơ quan, đơn vị đã giải quyết có phúc đáp trở lại văn phòng chỉ ở mức từ 15 đến 31%. 1.5. Về công tác thẩm định, thẩm tra các đề án trình hội nghị cấp ủy còn lúng túng; sự phối hợp với cơ quan chuẩn bị đề án chưa tốt, đôn đốc thiếu thường xuyên, thẩm định một số đề án chậm về thời gian; chất lượng thẩm định thấp. Trong thẩm định, mới chú ý thẩm định về văn phong, thể thức, câu từ, chưa chú trọng thẩm tra, thẩm định về mặt nội dung. Một số đề án, dự án, công trình kinh tế - xã hội đã được thẩm định trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy thông qua nhưng không triển khai thực hiện được hoặc kết quả đạt thấp so với yêu cầu. 1.6. Về công tác tổng hợp thông tin phục vụ cấp ủy: Thông tin chưa được cập nhật một cách đầy đủ có hệ thống để cung cấp thường xuyên cho cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy. Sản phẩm công tác thông tin còn đơn điệu, chủ yếu là các báo cáo định kỳ và đột xuất theo quy định (chưa có bản tin tháng, tuần, ngày). 16 Nội dung thông tin chưa thật phong phú, có việc chưa kịp thời; thông tin chủ yếu theo chiều thuận mà chưa thu thập xử lý thông tin theo chiều ngược. 1.7. Về công tác tham mưu quản lý tài chính, tài sản của đảng bộ có lúc, có việc còn thụ động, chưa thật sự chủ động, linh hoạt, có việc còn chậm trễ chưa đảm bảo về mặt thời gian. Công tác kiểm tra, giám sát, hướng dẫn nghiệp vụ quản lý tài chính, tài sản đối với cấp dưới và các đơn vị trực thuộc tuy đã được quan tâm thực hiện nhiều hơn nhưng chưa thường xuyên. 2. Đối với văn phòng cấp ủy huyện, thành phố 2.1. Về công tác tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình công tác: Một số văn phòng huyện uỷ chưa giúp cấp uỷ xây dựng được chương trình công tác năm; chưa dự báo chính xác, đầy đủ số lượng và nội dung các hội nghị cấp uỷ cần bàn, thảo luận và thông qua. Tính chủ chủ động trong việc tham mưu tổ chức thực hiện các nội dung được đề ra trong các chương trình công tác chưa cao. Việc chuẩn bị nội dung hội nghị nhiều lúc chưa kịp thời; văn bản hoá kết luận hội nghị của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy huyện, thành phố chưa thực hiện một cách có hệ thống. 2.2. Về công tác tham mưu trên lĩnh vực kinh tế - xã hội: Chất lượng công tác tham mưu cho cấp ủy huyện trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết, chỉ thị về lĩnh vực kinh tế - xã hội chưa cao; chưa thể hiện rõ tính sáng tạo ở từng cấp uỷ địa phương, đơn vị. Những vấn đề bức xúc như: quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, môi trường, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất, đảm bảo an sinh xã hội; những khó khăn vướng mắc trong thực hiện các mục tiêu chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững 6 huyện miền núi… chậm phát hiện và kết quả tham mưu giải quyết hiệu quả còn thấp. 2. 3. Về công tác tham mưu trên lĩnh vực nội chính, tiếp dân: Tham mưu trong lĩnh vực nội chính chưa sâu, chưa bao quát hết tình hình, có việc tham mưu chưa kịp thời. Công tác tiếp dân và tham mưu xử lý đơn thư, khiếu nại còn một số hạn chế, số vụ việc tồn đọng một số địa phương còn lớn. Hầu hết thiếu cán bộ đảm nhận chuyên trách công tác nội chính. 17 2.4. Về công tác thẩm định, thẩm tra các đề án trình hội nghị cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy: Nhiều văn phòng cấp ủy lúng túng, bị động trong công tác thẩm định, thẩm tra các đề trình hội nghị cấp uỷ. Chất lượng công tác thẩm định, thẩm tra thấp; đa số chỉ tham gia thẩm định, thẩm tra về thể thức văn bản, chưa phản biện được nhiều về nội dung đề án. 2.5. Về công tác tổng hợp thông tin phục vụ cấp ủy: Việc nắm bắt, cập nhật, tổng hợp, cung cấp thông tin và tham mưu cho thường trực cấp ủy chỉ đạo xử lý một số vấn đề tồn đọng, nổi cộm gây bức xúc trong nhân dân, các vấn đề phát sinh trên lĩnh vực nội chính còn yếu. Việc thực hiện chế độ thông tin chuyên đề và đột xuất còn bị động, chất lượng còn thấp, một số trường hợp chưa đảm bảo thời gian. 2.6. Về công tác văn thư, lưu trữ, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của văn phòng cấp ủy huyện: Một số văn phòng chưa kịp thời tham mưu ban hành quy định về công tác văn thư; kho lưu trữ chưa đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn cho việc bảo quản tài liệu lâu dài; tài liệu còn chưa được thu nhận, phân loại, xử lý khá nhiều. Mức độ tin học hóa thấp, dưới 70%; một số nơi chưa thực hiện tốt việc truyền đạt thông tin, văn bản trên mạng điện tử của Đảng theo quy định; số văn bản gửi qua đường mạng diện rộng quá ít. III. Nguyên nhân của những thành tựu đạt được và hạn chế, yếu kém trong công tác tham mưu tổng hợp giai đoạn 2006 - 2010 1. Nguyên nhân của những thành tựu đạt được Trước hết, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên về mọi mặt của ban thường vụ, thường trực cấp ủy các cấp trong tỉnh đối với công tác văn phòng cấp uỷ. Thứ hai, tổ chức bộ máy của các văn phòng cấp ủy trong tỉnh từng bước được củng cố, kiện toàn. Thứ ba, đội ngũ cán bộ công chức các văn phòng cấp ủy trong tỉnh không ngừng phát triển, trưởng thành. Thứ tư, sự động viên, phối hợp, hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả của các cơ quan ban ngành liên quan. 18 2. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém 2.1. Tổ chức bộ máy thiếu sự ổn định, chưa phù hợp với chức năng nhiệm vụ được giao - Ở văn phòng cấp ủy tỉnh: + Sau khi giải thể Ban Kinh tế, nhiệm vụ tham mưu lĩnh vực kinh tế, xã hội, đối ngoại giao cho Văn phòng Tỉnh ủy, nhưng không có phòng chuyên môn nên công tác tham mưu về lĩnh vực này gặp nhiều khó khăn, kết quả hạn chế. + Phòng Tổng hợp: khối lượng công việc quá nhiều, gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, do đó công tác thẩm định, thẩm tra các đề án trình cấp uỷ gặp phải không ít khó khăn, lúng túng, chất lượng hạn chế. + Phòng Hành chính - Cơ yếu hình thành trên cơ sở sáp nhập phòng hành chính - quản trị với phòng cơ yếu - công nghệ thông tin. Phòng có ba bộ phận (cơ yếu, hành chính - văn thư, công nghệ - thông tin) mỗi bộ phận có đặc điểm nghề nghiệp riêng, hoạt động có sự độc lập nhất định. - Ở huyện, thành phố: Chưa có quy định chính thức về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy văn phòng cấp ủy huyện. Bộ máy tổ chức văn phòng cấp uỷ cấp huyện chưa ổn định, hầu hết chỉ có hai bộ phận: tổng hợp và hành chính quản trị, không có bộ phận nội chính - tiếp dân, do đó việc nắm bắt tình hình và những phát sinh từ cơ sở trong lĩnh vực nội chính thường không kịp thời. - Ở xã, phường thị trấn: chưa có biên chế văn phòng cấp uỷ chuyên trách, do đó việc triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và thực hiện chế độ thông tin, báo cáo trong hệ thống cấp uỷ gặp khó khăn, không bảo đảm tính hệ thống, thông suốt trong hoạt động của văn phòng cấp uỷ. 2.2. Những hạn chế, yếu kém trong đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ chậm được khắc phục. - Đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp còn thiếu và thường xuyên biến động, nhất là ở các văn phòng cấp huyện và cơ sở. Cán bộ văn phòng cấp uỷ huyện đa số còn trẻ, thiếu kinh nghiệm công tác thực tiễn. Số cán bộ có trình độ cao, sau đại học còn quá ít (5,2%). Số cán bộ chưa kinh qua đào tạo chiếm tỷ trọng lớn (10,4% chưa có chuyên môn, nghiệp vụ; 34,9% chưa có trình 19 độ lý luận chính trị; 24,0% chưa được đào tạo tin học; 30,2% chưa có chứng chỉ ngoại ngữ; 59,4% chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ văn phòng cấp ủy). - Về công tác cán bộ: Thiếu các văn bản quy định cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ theo chức danh và vị trí công tác; về tiêu chí để đánh giá, nhận xét cán bộ… cho nên trong công tác tuyển dụng, nhận xét, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ còn bị chi phối nhiều bởi yếu tố chủ quan, cảm tính, thiếu chuẩn xác. Chưa xây dựng được Đề án phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống cơ quan văn phòng cấp uỷ. 2.3. Công tác phối hợp giữa các văn phòng cấp ủy với một số cơ quan liên quan chưa thật chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả thấp. - Phối hợp trong công tác tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình công tác của cấp ủy chưa thật đồng bộ, chặt chẽ; đôi khi cùng một lúc tổ chức quá nhiều các cuộc họp ở các cơ quan khác nhau, gây khó khăn cho các địa phương đơn vị trực thuộc. - Phối hợp trong việc chuẩn bị tài liệu, đề án trình hội nghị cấp ủy có lúc chưa kịp thời; một số đề án chuẩn bị chưa kỹ, tính khả thi thấp, thông tin thu thập thiếu toàn diện, chất lượng hội nghị không cao, sau hội nghị một số trường hợp văn bản hóa chưa kịp thời. - Chưa có quy chế, quy trình, quy định phối hợp rõ ràng, cụ thể giữa văn phòng cấp ủy với các với các cơ quan liên quan, nhất là Quy chế phối hợp công tác giữa ba văn phòng. 2.4. Thiếu các văn bản hướng dẫn, quy chế, quy định, quy trình thực hiện công tác văn phòng cấp ủy - Thiếu các văn bản quy định, hướng dẫn hoạt động trong nội bộ hệ thống văn phòng cấp ủy. - Thiếu những văn bản quy định, quy trình công tác và quy chế phối hợp hoạt động giữa văn phòng cấp ủy với các cơ quan liên quan. 2.5. Cơ sở vật chất, trang thiết bị và điều kiện, phương tiện làm việc ở các văn phòng cấp ủy còn hạn chế Việc đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm phương tiện, thiết bị phục vụ cho hoạt động của các văn phòng còn hạn chế; một số nơi chuyên viên văn phòng 20 cấp uỷ vẫn chưa có đủ máy tính cá nhân để làm việc, hệ thống máy tính cũ kỹ, trang thiết bị không đồng bộ, thường bị hư hỏng, hoạt động thiếu ổn định đã ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, hiệu quả công tác tham mưu, tổng hợp của cán bộ văn phòng cấp ủy. 2.6. Chưa có cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ thỏa đáng để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao về công tác tham mưu, tổng hợp ở các văn phòng cấp ủy. Cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp ở các văn phòng cấp ủy luôn phải ở trong tình trạng áp lực công việc lớn, khối lượng công việc nhiều, chất lượng công việc phải giải quyết đòi hỏi độ chính xác và khái quát rất cao, nhưng chế độ, chính sách đãi ngộ, phương tiện, điều kiện làm việc vẫn giống như các bộ phận công tác khác, do đó chưa khuyến khích, thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao, cán bộ giỏi về làm công tác tham mưu, tổng hợp. IV. Kinh nghiệm trong công tác tham mưu, tổng hợp của văn phòng cấp ủy Thái Nguyên, Quảng Ninh và một số tỉnh phía Bắc Một số kinh nghiệm của các tỉnh về xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế, chương trình làm việc của cấp uỷ; phục vụ đại hội và hội nghị cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ; soạn thảo, biên tập, phát hành văn bản của cấp uỷ; xây dựng, thẩm định đề án trình hội nghị cấp uỷ; công tác thông tin phục vụ cấp uỷ; tham mưu trên lĩnh vực kinh tế - xã hội; công tác tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo; phối hợp hoạt động với các cơ quan liên quan; về bộ máy tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ văn phòng cấp uỷ... Chương III XÂY DỰNG CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THAM MƯU TỔNG HỢP PHỤC VỤ CẤP ỦY TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Chương III gồm có ba mục lớn: I. Dự báo tình hình thế giới, trong nước và của tỉnh những năm đến
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan