Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của các cộng đồng nông nghiệp nông thôn trong q...

Tài liệu Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của các cộng đồng nông nghiệp nông thôn trong quá trình phát triển các khu công nghiệp (thông qua nghiên cứu trường hợp tỉnh đồng nai) [tt]

.PDF
26
40
138

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM ----------------------NGUYỄN VĂN QUYẾT Nguyễn Văn Quyết NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG NGHIỆP-NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP (Thông qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Nai) Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 62 31 70 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Hà Nội, 2013 1 Công trình được hoàn thành tại: VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Việt Bích PGS.TS. Lương Hồng Quang: P PgsPPGSp. ĐẶNG VIỆT BÍCPGS.TS. LƯƠNG HỒNG QUANG Phản biện 1: PGS.TS. Trần Văn Ánh Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Châm Viện Nghiên cứu Văn hóa Phản biện 3: PGS.TS. Bùi Quang Thanh Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện Họp tại: Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam Số 32, phố Hào Nam, quận Đống Đa, Hà Nội. Vào hồi: giờ ngày tháng năm 2013 Có thể tìm đọc luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình CNH, HĐH đất nước với sự đầu tư của các đối tác nước ngoài đã hình thành ở nước ta các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao (gọi chung là KCN), trong đó tập trung vào các tỉnh Đông Nam Bộ. Các KCN đã tạo nên sự phát triển mới về sức sản xuất, góp phần đưa nước ta tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Ở bình diện các tỉnh, việc phát triển các KCN đang được xem như một phương thức nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện CNH, HĐH trên địa bàn. Cùng với các chuyển đổi kinh tế xã hội là một phần của những biến đổi văn hoá của các cộng đồng nông thôn khi bị lấy đất làm KCN. Đó là sự thay đổi trong lối sống, từ nếp ăn, ở, mặc cho đến các sinh hoạt văn hoá như hưởng thụ văn hoá, sáng tạo văn hoá, rồi đến tư duy, hệ giá trị, chuẩn mực, các phong tục tập quán như tang ma, cưới xin, giỗ chạp, hệ thống niềm tin và tôn giáo… Một quá trình chuyển đổi cơ cấu văn hóa tinh thần đang diễn ra do các biến đổi kinh tế xã hội, với sự xuất hiện của các KCN. Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu thực trạng đời sống của các cộng đồng nông nghiệp-nông thôn khi chuyển sang các cộng đồng có tính chất công nghiệp, đô thị, sẽ có một ý nghĩa góp phần nhận diện thực trạng đời sống văn hoá nước ta hiện nay trong bối cảnh đất nước có những chuyển đổi mạnh mẽ về chính trị, kinh tế và xã hội, đồng thời góp phần vào việc đưa ra các luận cứ khoa học cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cho việc đưa ra các căn cứ thực tiễn và phát triển chính sách cho ngành văn hoá ở trung ương và các tỉnh. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Luận án lấy thực trạng biến đổi trong đời sống văn hóa của các cộng đồng dân cư vốn là các cộng đồng nông nghiệp – nông thôn đang chuyển thành các cộng đồng mang tính đô thị - công nghiệp do những tác động của quá trình xây dựng các KCN, làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu của mình. 3 Phạm vi nghiên cứu của luận án là lấy tỉnh Đồng Nai như một trường hợp nghiên cứu. Thời gian nghiên cứu là từ 1990 trở lại đây, sau khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành 12/1987 và đi vào thực hiện. Luận án tập trung nghiên cứu các xã Hiệp Phước và Long Thọ (thành phố Nhơn Trạch), Thạnh Phú (huyện Vĩnh Cửu), với các mức độ bị ảnh hưởng khác nhau. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Có 3 nhóm công trình có liên quan: các nghiên cứu lý thuyết về sự biến đổi văn hóa chung và ở Việt Nam; các nghiên cứu về tỉnh Đồng Nai và cuối cùng là nhóm các nghiên cứ có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án. Với các công trình nghiên cứu về lý thuyết biến đổi, các động thái biến đổi văn hóa của các cộng đồng nông thôn, là các bài viết đăng trong tuyển tập Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những cách tiếp cận nhân học, Đại học Quốc gia Tp HCM ấn hành năm 2010, công trình Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập năm 2011 của Nguyễn Văn Dân, Lương Văn Hy, Nguyễn Thị Phương Châm, Nguyễn Văn Chính, Lương Hồng Quang, Phan Hồng Giang, Bùi Quang Thắng… đã có các gợi ý về mặt mô hình nghiên cứu về sự biến đổi các cộng đồng nông thôn, phù hợp với đặc điểm văn hóa và lịch sử phát triển của Việt Nam. Trong đó biến đổi văn hoá được hiểu là quá trình vận động của tất cả các xã hội và đây là đối tượng nghiên cứu trọng tâm của Nhân học. Các công trình này là một tham khảo tốt cho đề tài luận án về định hướng nghiên cứu. Về các nhóm tài liệu có liên quan trực tiếp đến đề tài, là nhóm các công trình nghiên cứu về làng Hiệp Phước của nhóm tác giả do Lương Hồng Quang làm chủ biên vào năm 1998. Từ 2001 - 2005, trong khuôn khổ chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX 05 về phát triển văn hoá- con người và nguồn nhân lực, nhóm tác giả do Đình Quang chủ biên đã xuất bản công trình Đời sống văn hóa của các đô thị và KCN Việt Nam, đi chuyên sâu về đời sống văn hóa tinh thần của công nhân KCN gắn với các cộng đồng nông thôn bị mất đất cho KCN, cung cấp một bức tranh khá toàn diện về đời sống văn hóa tinh thần của công nhân các KCN, trong đó thiên về sự tiêu dùng văn hóa của người dân. Vào các năm 2005 và 2006, Sở VHTT Đồng 4 Nai có kết hợp với Viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật đã xây dựng đề tài Khảo sát về Đời sống Văn hóa Công nhân các KCN ở Đồng Nai, nghiên cứu trên nhiều địa bàn của tỉnh, tập trung vào các KCN trên địa bàn tỉnh. Nghiên cứu này là một cơ sở tham khảo hữu ích cho luận án trong thời điểm hiện nay khi muốn mở rộng diện khảo sát và nghiên cứu. Năm 2010, công trình hợp tác giữa Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam và Viện Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc về Nghiên cứu các giải pháp nhằm giảm thiểu xung đột giữa chủ Hàn Quốc và công nhân Việt Nam tại Việt Nam, cũng đã lấy địa bàn Đồng Nai làm đối tượng khảo sát, đã cho thấy một phần đời sống văn hóa tinh thần của công nhân KCN sinh sống trong các cộng đồng ven KCN. Đó chưa phải là các nghiên cứu trực tiếp về các cộng đồng nông nghiệp – nông dân khi các KCN hình thành trên mảnh đất của mình mà là nghiên cứu trực tiếp vào người công nhân các KCN. Các Hội thảo “Xây dựng đời sống văn hóa công nhân lao động ở các KCN đến 2015” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Hội thảo: “Xây dựng môi trường sống cho công nhân xung quanh các KCN tại Việt Nam” do Bộ Kế hoạch Đầu tư phối hợp cùng với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức năm 2010; Hội thảo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư “Vấn đề lao động và điều kiện sống của công nhân KCN, khu kỹ thuật” tổ chức năm 2011 trong khuôn khổ chương trình tổng kết 20 năm phát triển KCN, cho thấy tầm quan trọng của công tác xấy dựng đời sống văn hóa đối với việc phát triển các KCN cũng như gắn với các cộng đồng dân cư xung quanh KCN 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận án tập trung vào việc khảo sát những xu hướng biến đổi trong đời sống văn hoá các cộng đồng dân cư nông nghiệp có liên quan tới quá trình phát triển các KCN ở tỉnh Đồng Nai, từ đây, đề ra các căn cứ khoa học cho việc xây dựng và quản lý văn hoá cộng đồng, góp phần vào sự phát triển chung của KCN cũng như các cộng đồng có liên quan tới KCN. Nhiệm vụ nghiên cứu: 5 - Khảo sát các biến đổi đời sống văn hóa của 3 cộng đồng dân cư nông nghiệp- nông thôn sau khi bị cắt một phần đất nông nghiệp, đất thổ cư để xây dựng các KCN tập trung, đã bị biến đổi như thế nào trong một bối cảnh phát triển nhanh chóng, phát triển “nóng”, mang tính “cưỡng bức” từ trên xuống. - Thông qua sự khảo sát khái quát lên một bức tranh phát triển đời sống văn hóa của những cộng đồng dân cư có KCN tập trung, với tất cả những lợi thế, hạn chế, thời cơ và thách thức đối với họ. - Xây dựng một số giải pháp mang tính lý luận và thực tiễn để góp phần vào việc hình thành các quan điểm, cơ chế chính sách phát triển văn hóa của các cộng đồng nông thôn Đồng Nai có KCN. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận án được phát triển trên cơ sở các luận điểm của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH đất nước. Các lý thuyết về Biến đổi văn hoá được coi là những nền tảng lý thuyết của luận án, với những nhân tố hợp lý của thuyết tiến hoá văn hoá như E. Taylor (1891) hay L. Morgan (1877) với yếu tố coi biến đổi cần phải có quá trình; thuyết Truyền bá văn hoá (đại diện là G.Elliot Smith 1911, W.Rivers 1914,…) cho rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hoá là sự vay mượn hoặc sự truyền bá của các đặc trưng văn hoá từ xã hội này sang xã hội khác; thuyết Vùng văn hoá (đại diện là C.L.Wissler 1923, A.L.Kroeber 1925,…) nhấn mạnh đến sự tác động và ảnh hưởng của các nguồn gốc văn hóa khác nhau khi dân cư cùng sinh sống trong một cộng đồng; thuyết thích nghi văn hoá coi sự biến đổi có nền tảng là sự thích ứng của con người trong môi trường sống mới. Đặc biệt luận án đã tiếp thu quan điểm lý thuyết của Nguyễn Thị Phương Châm trong công trình Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay, của Lương Hồng Quang trong công trình nghiên cứu Câu chuyện làng Giang, gắn biến đổi văn hoá ở làng với quá trình toàn cầu hoá và HĐH, trong đó biến đổi văn hoá được hiểu là quá trình vận động của tất cả các xã hội, các khía cạnh của đời sống xã hội, với các va đập, mâu thuẫn và tiến triển rất đa dạng và phức tạp, không đơn tuyến và một chiều. 6 Phương pháp nghiên cứu của luận án bao gồm: Thống kê, Điều tra xã hội học, Nghiên cứu trường hợp, Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, Quan sát thâm nhập, Phương pháp chuyên gia. 6. Bố cục luận án Ngoài phần Mở đầu (16 trang), Kết luận (5 trang), Tài liệu tham khảo (14 trang) và Phụ lục (40 trang), Luận án gồm 3 chương: Chương 1: Phát triển các KCN trong tiến trình CNH, HĐH ở tỉnh Đồng Nai (45 trang). Chương 2: Các biến đổi trong đời sống văn hoá của các cộng đồng dân cư KCN (47 trang). Chương 3: Phương hướng, giải pháp về xây dựng đời sống văn hóa cho các cộng đồng KCN (33 trang). 7 Chương 1 PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRONG TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH ĐỒNG NAI 1.1. Vài nét về tỉnh Đồng Nai và sự phát triển của KCN Đồng Nai có diện tích 5.903,4 km2, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ. Năm 2010, dân số toàn tỉnh là 2.569.400 người, mật độ dân số: 435,000 người/km2 . Đồng Nai là tỉnh đi đầu trong xây dựng KCN, với 30 KCN có tổng diện tích 9.573 ha, cụm công nghiệp, thu hút 1.130 dự án từ 35 quốc gia và vùng lãnh thổ, có tổng số vốn đăng ký là 13 tỷ USD và hơn 31.600 tỷ đồng, thu hút 375 ngàn lao động, trong đó có hơn 60% là người ngoại tỉnh. Tỉnh Đồng Nai là một tỉnh có tốc độ CNH cao nhất nước, phấn đấu đến năm 2015 trở thành tỉnh CNH, HĐH. Các KCN tập trung đã tạo ra một lượng hàng hóa lớn, đóng góp quan trọng vào cơ cấu GDP tỉnh. 1.2. Mô tả các cộng đồng được khảo sát Các xã Hiệp Phước, Thạnh Phú và Long Thọ là các cộng đồng nông thôn điển hình có vị trí địa lý nằm ở vùng trung tâm trồng lúa của hai huyện Nhơn Trạch và Vĩnh Cửu, đất vườn xanh tươi, trù phú với các loại cây trồng như bưởi, mít, chuối, xoài. Trước 2000, cả 3 xã đều là các xã nông nghiệp điển hình với lợi thế dựa vào tiềm năng đất đai rộng, người dân cần cù sản xuất. Đây là 3 cộng đồng dân cư tiêu biểu của đất Đồng Nai, có truyền thống lịch sử trên dưới 300 năm, gắn liền với lịch sử phát triển, thể hiện trong hệ thống các di tích lịch sử văn hóa, các nghi lễ, phong tục tập quán, lễ hội. Mức độ CNH ở các xã trong mẫu nghiên cứu, chúng tôi thấy được các mức độ phát triển kinh tế - xã hội chung của 3 xã như sau: (1) Do nằm trong các KCN và ven các KCN nên diện tích đất bị thu hồi phục vụ các dự án mở rộng và xây mới các nhà máy của cả 3 xã đều tăng. Chu kỳ 10 năm (2000-2010), diện tích đất của người dân 8 phục vụ các KCN tăng gấp đôi (xã Hiệp Phước và Long Thọ), thậm chí xã Thạnh Phú tăng gấp 4 lần; (2) Sự thay đổi về kết cấu không gian công đồng, từ một không gian của cộng đồng nông nghiệp thành một kiểu không gian mang tính chuyển đổi, với các kiểu không gian phục vụ sản xuất công nghiệp và sinh sống kiểu đô thị, thay vì chỉ có các không gian mang chức năng phục vụ nông nghiệp như xưa; (3) Là quá trình nhập cư mạnh của người dân nông thôn các tỉnh khác vào sinh sống và làm ăn ở các xã này với nhiều hình thức khác nhau, họ sinh sống xen cùng với dân cư tại chỗ; (4) Chuyển dịch cơ cấu lao động – nghề nghiệp, trong đó xu hướng nổi bật nhất là dân tại chỗ đa phần chuyển sang làm công nhân KCN, một bộ phận nhỏ buôn bán dịch vụ; (5) Mức sống tăng chủ yếu từ các khoản thu ngoài nông nghiệp, kèm theo đó là sự cải thiện điều kiện sống, từ nhà ở, tiện nghi sinh hoạt đến các tiêu dùng phục vụ nhu cầu vật chất. Tiểu kết Phát triển các KCN tập trung là một phương thức CNH đất nước, bằng việc thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài và trong nước cho các dự án phát triển sản xuất. Chính chủ trương này làm cho các khu vực nông thôn có những thời cơ lớn trong tiến trình phát triển, CNH, HĐH ngay chính mảnh đất của mình trong bối cảnh tiến trình HĐH không có những nguồn lực tại chỗ. Đó là một thực tiễn khá phức tạp, không đơn giản xuất phát từ chính sách phát triển công nghiệp dựa vào nhân công giá rẻ. Ba xã được khảo sát là 3 xã nằm trên hai huyện có tốc độ phát triển KCN nhanh và mạnh nhất tỉnh. Trong đó Hiệp Phước là xã có tốc độ phát triển cao nhất, kế đến là Thạnh Phú và Long Thọ. Hiệp Phước nẳm tiếp giáp thành phố Nhơn Trạch, nên cũng được “hưởng lợi” từ quá trình đô thị hóa này, bên cạnh quá trình đô thị hóa tại chỗ đang diễn ra mạnh mẽ. Thạnh Phú phát triển được là nhờ ngay các công ty của KCN Thạnh Phú thuộc xã, với lượng công nhân đông, trong khi đó Long Thọ phát triển chậm hơn, mặc dù lượng đất đai lấy cho KCN nhiều nhưng một số chưa xây dựng. 9 Chương 2 CÁC BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ KHU CÔNG NGHIỆP 2.1. Từ bình diện cộng đồng - sự tham gia của người dân vào các nghi lễ cộng đồng Cư dân trong vùng có một số lượng lớn tham gia vào thiết chế văn hóa truyền thống là chùa Phật, với 67% người được hỏi tham gia. Tiếp đến là sự hiện diện của thiết chế miếu 46.2%, đình với 41.4%, và nhà thờ đạo Thiên Chúa là 31.4%. Thiết chế nhà thờ đạo Tin Lành chỉ chiếm 0.8%. Đối tượng tham gia vào các sinh hoạt này chiếm tỉ lệ cao nhất là cư dân địa phương 87%, tiếp đến là người dân nhập cư 74.6% và sau cùng là khách vãng lai 48.6%. Dân nhập cư, trong quá trình sinh sống tại cộng đồng, dù có hộ khẩu, dù có được tham gia vào các hoạt động chính thức của xã, ấp thông qua các đoàn thể, nhưng vẫn chưa được chấp nhận là thành viên chấp sự, tế tự việc làng. Họ có thể cung tiến, cúng lễ, hỗ trợ cộng đồng địa phương tại chỗ nhưng không được tham gia vào các hoạt động tế tự, bởi những nguyên tắc và chuẩn mực truyền thống về dân ngụ cư. Được xác nhận là thành viên của cộng đồng làng, phải qua nhiều thế hệ. 2.1.1. Cúng đình Hằng năm, mỗi đình ở 3 xã đều có nhiều ngày lễ. Các lễ nhỏ chỉ cúng chứ không tế, lễ vật đơn giản và cúng ngắn gọn, như lễ rước ông bà, lễ Khai sơn, tết Đoan ngọ, vía Thổ thần, các ngày lễ mang tính chất tôn giáo như cúng rằm Thượng nguyên (tháng 3), Trung nguyên (tháng 7), Hạ nguyên (tháng 10). Các cư dân là công nhân KCN tham dự vào những dịp lễ này với các mức độ tham dự và lòng thành kính khác nhau. 2.1.2. Cúng chùa Các ngôi chùa ở ba xã đều là các chùa mới xây dựng vài chục năm gần đây. Khác với đình, chùa mang một ý nghĩa tôn giáo và tâm linh cho đời sống hàng ngày, cư dân trong cộng đồng cầu cúng ngày sóc vọng, ngày thường, ở đây không có lễ hội 10 chùa như ở phía Bắc. Dân nhập cư mang vào đây một số vấn hầu đồng, được cư dân tại chỗ chấp nhận. 2.1.3. Sinh hoạt tôn giáo của nhóm cư dân đạo Cao Đài Tại Thánh thất Ngọc Linh ở xã Hiệp Phước, các hoạt động của người dân theo đạo Cao Đài được tổ chức một cách quy củ, có tổ chức, nghiêm cẩn theo đúng quy định về mặt lễ tiết. Tín đồ theo đạo Cao Đài ở Hiệp Phước sống hiền hòa, ít có những tệ nạn xã hội, ứng xử và giao tiếp theo khuôn mẫu truyền thống, hiếu lễ với ông bà cha mẹ, ít tranh cãi, tôn trọng thứ bậc trong gia đình và dòng họ. Dân nhập cư không theo đạo Cao Đài. 2.1.4. Sinh hoạt tôn giáo của nhóm cư dân đạo Thiên Chúa Các cư dân theo đạo Thiên chúa ở 3 xã thuộc giáo phận Xuân Lộc với hơn 700.000 người của 12 giáo hạt. Thành phố Biên Hòa có Giáo hạt Biên Hòa, với 13 giáo xứ, 49.429 giáo dân. Cộng đồng Thiên chúa giáo được tổ chức tốt về sinh hoạt nên ở đây ta thấy các dáng dấp của một xã hội văn minh đô thị. Sinh hoạt tôn giáo của giáo dân là công nhân, họ có thể đề nghị công ty cho về sớm hơn, vào bất cứ Giáo xứ nào để tham dự lễ cho kịp. Về phía Giáo xứ, họ cũng chấp nhận con chiên nơi khác đến được dự lễ ở các nhà thờ khác miễn là họ có giấy giới thiệu của giáo xứ nơi họ sinh ra, được cha nơi giáo xứ mới tiếp nhận. Khi có việc hôn nhân, tang ma, họ phải học các quy định của đạo về hôn nhân gia đình, về trách nhiệm của vợ, chồng, với gia đình, được làm lễ tại nhà thờ bởi cha xứ nơi họ định cư. 2.2. Các nghi lễ tại gia đình 2.2.1. Tang ma Ngày nay, nhiều nghi lễ đã được giản tiện và có thay đổi, thêm, bớt cho phù hợp với từng hoàn cảnh, điều kiện của từng gia đình, từng vùng, nhất là ở vùng thành thị. Các nghi thức từ nhập quan, lễ thành phục, cúng cơm, động quan, cung thổ thần, hạ huyệt vẫn được duy trì. Các tục lệ sau khi đưa đám, bao gồm Cúng ba ngày, Lễ Mở cửa mả, Cúng cơm hàng ngày, Cúng Thất thất lai tuần, Giỗ đầu, Giỗ hết vẫn được 11 lưu giữ, được các gia đình tại chỗ cúng đầy đủ và nghiêm cẩn. Riêng đối với nhóm dân nhập cư, các lễ cúng cơm hàng ngày và sau đó thường ít được tuân thủ nghiêm cẩn bởi một số là do gia đình gốc đảm nhiệm, hoặc điều kiện làm việc không cho phép, họ giản tiện phần nghi lễ, có làm thì cúng sơ rồi mời một nhóm bạn, hàng xóm đến nhậu, không có nhiều ý nghĩa nghi lễ như xưa. Trong các gia đình cư dân tại chỗ, do có người dân nhập cư sinh sống trong khuôn viên nhà mình, do ở lâu, nên khi gia đình có việc tang, họ cũng tham gia vào việc tổ chức cỗ bàn, tiếp khách song họ tuyệt nhiên không được tham gia vào việc nghi lễ. Khi các hộ gia đình người nhập cư là công nhân có người mất, nếu gia đình ở xa, họ cũng hỏi thăm, gửi đồ phúng viếng; nếu chết tại chỗ, họ cử người giúp đỡ, có nêu các nghi thức phải làm song đó chỉ là tham khảo, gia chủ, tùy vào gốc quê hương mà thực hành nghi lễ song giản tiện, thiêu, mang tro cốt về quê nhà. 2.2.2. Cưới Theo tục lệ xứ Đồng Nai, cưới hỏi tiến hành theo: 1/Lễ coi mặt (dạm ngõ); 2/Lễ giáp lời (kết sui); 3/Lễ sơ vấn (đám hỏi); 4/Lễ nạp sinh (nạp tài); 5/Lễ cưới; 6/Lễ phản bái (lại mặt). Khoảng ba bốn năm nay, cưới hỏi chỉ còn hai lễ chính: Lễ hỏi và Lễ cưới. Đối với đám cưới của dân nhập cư, ở các địa bàn thuộc phạm vi khảo sát của luận án đang trong quá trình công nghiệp hóa – đô thị hóa với sự xuất hiện của nhiều công ty, xí nghiệp; kéo theo đó là một đội ngũ dân nhập cư ồ ạt đổ xô lập nghiệp ở địa phương này, phần lớn là thanh niên. Do đó, sự xuất hiện của những người nhập cư, cũng đã phần nào tác động đến cuộc sống của người dân tại cộng đồng khi họ mang theo những nếp sống, chuẩn mực, văn hóa từ các vùng quê đến nơi ở mới. 2.3. Từ bình diện cá nhân - các hưởng thụ văn hóa trong đời sống hàng ngày Luận án đã nghiên cứu riêng nhu cầu hưởng thụ văn hóa trong đời sống hàng ngày của nhóm công nhân và nhóm cư dân tại chỗ. Do trong các khu nhà trọ không có các khoảng không gian công cộng để tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí, cộng với thời gian hạn hẹp nên họ thường ít tổ chức được các hoạt động vui chơi giải trí có ý nghĩa tích cực. Hoạt động 12 văn hoá thường xuyên nhất là nghe đài, xem vô tuyến, chơi bài, nhậu, nghĩa là các hoạt động có tính thụ động và ít tính sáng tạo. Tổ chức sinh nhật cũng đôi nhưng nặng về ý nghĩa ăn nhậu hơn là ý nghĩa văn hoá. Việc đến các thiết chế văn hoá là hầu như không có. Các dịp cưới hỏi, giỗ chạp là những dịp để nhóm công nhân có một sự liên hệ với truyền thống, nghĩa là có cơ hội nghĩ tới gia đình gốc và các mối liên hệ với cội nguồn nhưng họ hầu như không có thời gian, điều kiện tài chính để về quê hay tổ chức các lễ trọng này tại các nhà trọ. Tiểu kết Các biến đổi trong đời sống văn hóa của các cộng đồng dân cư KCN ở nói chung, 3 xã được khảo sát sâu nói riêng đã phản ánh những động thái phát triển của tỉnh và vùng Đông Nam Bộ từ thập niên 90 cho đến nay, đó là sự phát triển các KCN như một yếu tố động lực phát triển vùng và mỗi cộng đồng dân cư. Đi kèm với tiến trình này là làn sóng di dân và sự biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội của chính mỗi cộng đồng theo hướng ĐTH, HĐH, với các chỉ báo thay đổi về cơ cấu kinh tế; cơ cấu dân số; kết cấu cơ sở hạ tầng làm thay đổi kết cấu không gian làng quê cổ truyền; gia tăng mức thu nhập từ công nghiệp - dịch vụ, thay vì chủ yếu từ nông nghiệp như trước những năm 2000; hiện đại hóa nhà ở và trang thiết bị, tiện nghi sinh hoạt; di động xã hội lớn hơn bởi quá trình chuyển dịch nghề nghiệp diễn ra nhanh và mạnh hơn trước. Các quá trình này đặt một nền tảng mới của những biến đổi văn hóa tinh thần của cư dân các xã bị lấy đất xây dựng KCN. Sự biến đổi văn hóa, ở các cộng đồng có KCN, trong hơn 20 năm qua, với 3 bình diện: cộng đồng, gia đình và cá nhân, chúng ta có thể thấy: Các loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống/dân gian đã và đang được bảo lưu trong đời sống cộng đồng, từ lễ cúng đình, cúng miếu, cúng chùa, cho đến các nghi lễ trong tang, cưới, giỗ chạp. Đó là một tiến trình bảo lưu mang tính tự nhiên, được các tổ chức trong cộng đồng và nhóm người cao tuổi bảo lưu và gìn giữ. Khi xuất hiện những thành phần cư dân mới, sự biến đổi của các hoạt động văn hóa là có, thể hiện một sự cộng cư bởi các các quan hệ kinh tế - xã hội và nhờ đó, các hoạt động văn hóa tinh thần được ảnh hưởng 13 qua lại, song đó mới chỉ là tác động vào vỏ bề ngoài (giản tiện, gộp các hoạt động), hạt nhân là các nghi lễ, về cơ bản, là vẫn được lưu giữ, với ý nghĩa tinh thần là cố kết cộng đồng, thể hiện sức mạnh và bản sắc (trong các sinh hoạt văn hóa cộng đồng); bảo lưu giá trị gia đình và dòng họ, biết ơn tổ tiên, sự kính trọng người cao tuổi (trong các sinh hoạt văn hóa ở gia đình); xuất hiện các động thái tiêu dùng văn hóa mới (ở bình diện cá nhân), 14 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CHO CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG THÔN TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP 3.1. Các cơ sở lý luận Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, trong đó xác định: Mục tiêu phát triển các KCN tại Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là hình thành hệ thống các KCN chủ đạo có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hình thành các KCN có quy mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp. Ở bình diện tỉnh, Nghị quyết Đại hội đảng bộ lần thứ IX tỉnh Đồng Nai năm 2010 đã xác định các nhiệm vụ và giải pháp lớn: Phát triển văn hóa nông thôn theo phương châm phát huy vai trò chủ động của cộng đồng dân cư địa phương là chính. Đề án: Phát triển văn hóa nông thôn tỉnh Đồng Nai đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, nhấn mạnh: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Thục tiễn cho thấy cần phải xây dựng các quan điểm chỉ đạo cơ bản sau, gắn các quá trình định hướng sự biến đổi của các cộng đồng nông nghiệp, nông dân và nông thôn khi bị các KCN tác động, đó là: - Gắn phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, coi đây vừa là nền tảng, vừa là một bộ phận không thể tách rời của tiến trình phát triển văn hóa mỗi cộng đồng. Không có phát triển kinh tế xã hội, không có quá trình gia tăng mức sống, 15 chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động – việc làm, không thể có cơ sở và nền tảng để phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay. - Các KCN là động lực, là “đầu tàu” để cho các tiến trình ở trên phát triển. Như một thực thể “lai ghép”, “cấy” vào trong các cộng đồng nông thôn, nó cần phải có thời gian và những định hướng chính sách để cùng với cộng đồng nông thôn phát triển một cách hài hòa, bảo đảm các lợi ích của doanh nghiệp cũng như lợi ích của cộng đồng địa phương. Cần phải coi các doanh nghiệp và văn hóa doanh nghiệp của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn là một bộ phận không thể tách rời của cơ cấu văn hóa nông thôn mới. - Vai trò của chủ thể văn hóa, của các tổ chức văn hóa và thiết chế văn hóa truyền thống, của cá nhân mỗi người dân là rất quan trọng trong tiến trình xây dựng cơ cấu văn hóa mới cũng như tổ chức xây dựng đời sống văn hóa nông thôn. Phát huy vai trò của cộng đồng cùng với sự định hướng và hỗ trợ của Nhà nước là hai mặt của một tiến trình định hướng chính sách nhất quán cho các cộng đồng nông thôn trong bối cảnh CHN, HĐH. - Văn hóa doanh nghiệp và văn hóa cộng đồng nông thôn sẽ “hợp tác” như thế nào, đó là một câu hỏi cần có sự nghiên cứu và xây dựng các mô hình hợp tác. 3.2.Xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô Một hệ thống cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô, vượt ra khỏi khuôn khổ của một tỉnh, sẽ là một khung chính sách chung cho việc phát triển văn hóa cho các cộng đồng dân cư có KCN. Đây là một hệ thống chính sách phản ánh các nỗ lực gắn KCN với cộng đồng dân cư tại chỗ, gắn hoạt động nhà nước với hoạt động của người dân, gắn phát triển kinh tế - xã hội với phát triển đời sống tinh thần. * Nhóm các chính sách điều kiện: Quy hoạch KCN và doanh nghiệp: Quy hoạch về hệ thống cơ sở hạ tầng dành cho văn hoá - nghệ thuật, trong đó trước hết là quy hoạch về các quảng trường nhỏ, công viên nhỏ, các giao lộ phục vụ các sinh hoạt động văn hoá công cộng, các lễ hội, … 16 Quy hoạch về hệ thống các thiết chế văn hoá công cộng như nhà văn hoá (câu lạc bộ), các khu vui chơi giải trí tổng hợp hay chuyên dụng; Quy hoạch về các không gian công cộng trong các khu vực ở, trong mỗi công sở nhằm phát triển các không gian xanh, các không gian chuyển tiếp giữa nơi ở với các hệ thống giao thông, bảo đảm mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên nơi sinh sống, các khu vực nghỉ ngơi, giải trí nhỏ cho mỗi khu nhà, tạo ra một môi trường làm việc “thân thiện” với môi trường tự nhiên. Luật pháp: Bổ sung và phát triển các điều luật và quy định trong thiết kế, xây dựng các thiết chế cơ sở văn hoá trong KCN, các khu vực vui chơi giải trí, có tính đến các nhu cầu sinh hoạt của người tàn tật là công nhân KCN (chỗ ngồi, đường di chuyển, hệ thống vệ sinh…) Xây dựng chính sách về đất đai cho các tụ điểm văn hoá công cộng như dành quỹ đất cho các khu vực công cộng tại KCN và mỗi doanh nghiệp; quỹ đất xây dựng các thiết chế văn hoá công cộng tại khu dân cư như nhà văn hoá (câu lạc bộ), các khu vui chơi giải trí tổng hợp hay chuyên dụng; quỹ đất cho việc xây dựng các không gian công cộng trong các khu vực ở, trong mỗi công sở, nhà xưởng, ấp; Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách kinh tế - tài chính: Chính sách về giảm thuế cho các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội đối với công nhân, bao gồm các phúc lợi xã hội và chăm lo đời sống văn hoá tinh thần cho công nhân, xây dựng các thiết chế văn hoá, có các hoạt động cộng đồng; Chính sách về thuế đất cho các cơ sở văn hoá trên cơ sở phân loại các loại hình văn hoá để có chính sách ưu tiên cho các cơ sở văn hoá công ích, thuế kinh doanh cho các doanh nghiệp văn hoá có chương trình phục vụ công nhân KCN. Các chính sách thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào hạ tầng xã hội phục vụ các KCN, bên cạnh các chính sách về đầu tư xây dựng nhà ở đã ban hành, đó là các chính sách về xây dựng các khu vui chơi giải trí đa chức năng, các công viên xanh, hồ bơi, sân thể thao…, thực hiện chính sách “xã hội hoá” VHTT của Đảng và Nhà nước. 17 Sử dụng có hiệu quả và phát triển thiết chế văn hoá: Xây dựng các kế hoạch hàng năm và dài hơi hơn cho hệ thống các thiết chế VHTT trên địa bàn tỉnh phục vụ công nhân KCN nhằm sử dụng sức mạnh tổng hợp của cả ngành, gắn kết các hoạt động VHTT phục vụ công nhân, tăng mức hưởng thụ văn hoá của công nhân. Nâng cao năng lực của các trung tâm VHTT xã/phường có nhiều công nhân KCN sinh sống bằng việc đầu tư trang thiết bị, chương trình, hướng dẫn nghiệp vụ, đào tạo để họ có thể tự tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ phục vụ công nhân, huy động dân cư tại chỗ và cư dân là công nhân tham gia các hoạt động này. Phát triển các tổ hợp văn hoá đa năng phục vụ nhiều loại hình văn hoá, các dịch vụ thương mại, hội nghị, vui chơi giải trí hiện đại…; Phát triển các trung tâm vui chơi giải trí công nghệ cao, các khu văn hoá thể thao phục vụ tầng lớp thanh niên, đáp ứng nhu cầu tìm tòi, giải trí, tính năng động của tuổi trẻ. Tăng cường sự tham gia: Phát huy vai trò của các tổ chức cấp cơ sở, các tổ chức tự quản tại khu dân cư như đoàn thanh niên, các hội phụ nữ, mặt trận, cựu chiến binh, các tổ dân phố trong các việc tổ chức các hoạt động văn hoá hàng ngày, các phong trào, đợt sinh hoạt văn hoá do trên đưa xuống; Duy trì an ninh trật tự, vệ sinh nơi ở, nếp sống văn minh bởi các tổ chức tự quản, các tổ, đội của các đoàn thể cấp cơ sở tại các khu dân cư là công nhân. Huy động sự tham gia tài trợ của các nhà hảo tâm, các nhân vật xã hội nổi tiếng vào các hoạt động văn hoá nghệ thuật ở đô thị thông qua các hình thức hội chợ, hội diễn, các phiên bán đấu giá các tác phẩm văn học nghệ thuật, trên các “shows” diễn nhằm huy động các nhà hảo tâm, những người yêu thích văn hoá nghệ thuật; Huy động sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức văn hoá quốc tế và các quỹ, tổ chức văn hoá ở nước ngoài tham gia vào việc tổ chức các hoạt động văn hoá ở KCN; Xây dựng một mạng liên kết các nhà tài trợ, các Mạnh thường quân cho văn hoá nghệ thuật nhằm liên kết các nhu cầu, các lợi ích, các phương pháp làm việc, các kế 18 hoạch tổ chức các hoạt động văn hoá nghệ thuật vốn vừa thừa, vừa thiếu các hoạt động văn hoá nghệ thuật. 3.2. Xây dựng các mô hình phát triển văn hóa Mục tiêu của các mô hình tổ chức đời sống văn hóa cho các cộng đồng dân cư có KCN là: Cung cấp một phương thức tổ chức đời sống văn hoá cho các cộng đồng dân cư có KCN theo nguyên tắc phát triển bền vững, tăng cường sự tham gia từ dưới lên, đáp ứng nhu cầu của công nhân KCN và người dân tại chỗ, đa dạng các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, du lịch, từ đây xây dựng năng lực quản lý cho các doanh nghiệp và các thiết chế, điểm văn hoá trên địa bàn dân cư để họ có thể tự tổ chức đời sống văn hoá. Các mô hình này được vận hành trên nguyên tắc: (1) Phát triển bền vững: Các hoạt động trong giai đoạn triển khai thí điểm phải được duy trì bằng những can thiệp nhằm duy trì khả năng tự quản lý của các điểm được can thiệp; (2) Tăng cường sự tham gia từ dưới lên: sự tham gia của cộng đồng và doanh nghiệp sẽ là yếu tố quyết định cho sự duy trì và phát triển của các mô hình, trên tinh thần tự nguyện, tự tổ chức, tự quản lý; (3) Đáp ứng đúng nhu cầu: các hoạt động được xây dựng trên cơ sở nhu cầu của công nhân, trên phương châm là chọn lựa các ưu tiên và khả năng nguồn lực mà tổ chức các hoạt động vào những thời điểm thích hợp; (4) Đa dạng hóa các loại hình hoạt động: nhằm bảo đảm khả năng giao lưu giữa các điểm văn hoá, các doanh nghiệp trong và ngoài KCN, giữa chúng với các hoạt động của các đơn vị thuộc ngành VHTT, các ngành khác trong tỉnh đưa văn hoá đến cơ sở; (5) Xã hội hoá: Huy động các nguồn lực tại chỗ, của các lực lượng xã hội, các cá nhân vào việc tổ chức các hoạt động văn hoá phục vụ công nhân KCN, bao gồm tiền, công sức, các ý tưởng, các sáng kiến, các hình thức đóng góp bằng vật chất và tinh thần khác; (5) Có sự giám sát: nhằm bảo đảm các hoạt động được triển khai trên tinh thần minh bạch, hiệu quả, thiết thực. Hình thức giám sát có thể là do cộng đồng tự tổ chức hay do trên tiến hành. Các hoạt động giám sát là nhằm thúc đẩy các hoạt động tại các điểm triển khai mô hình, chứ không phải là hoạt động kiểm tra, kiểm soát. 19 Để thực hiện tốt mục tiêu, một loạt các hoạt động, bao gồm các hoạt động tại chỗ và từ trên đưa xuống, các hoạt động thường xuyên và các hoạt động theo dịp lễ tết, cần được tổ chức, cụ thể là: - Các hoạt động giao lưu; - Các hoạt động văn hoá văn nghệ; - Các hoạt động học tập, phổ biến kiến thức; - Các hoạt động thể thao, trò chơi; - Các hoạt động an sinh xã hội, hoạt động cộng đồng: 3.3. Các biện pháp tăng cường phát triển văn hóa tại các cộng đồng dân cư có KCN ở tỉnh Đồng Nai 3.3.1. Tham mưu xây dựng cơ chế chính sách, kết hợp nguồn lực nhà nước với nguồn lực xã hội hoá, xây dựng các thiết chế văn hóa Trong quy hoạch KCN và quy hoạch văn hóa nông thôn, cần gắn với quy hoạch phát triển các thiết chế văn hoá để đảm bảo phát triển hài hoà kinh tế và văn hoá; sản xuất và an sinh dân cư. Đầu tư xây dựng Trung tâm văn hoá thể thao liên phường, liên xã. Đặc biệt cần đầu tư xây dựng một số nhà sinh hoạt cộng đồng để tổ chức các cuộc họp, các đám cưới, các sinh hoạt văn nghệ tại nơi cư dân tập trung. Hình thành “Quỹ phát triển đời sống văn hoá công nhân” bằng hình thức xã hội hoá thì có nhiều điều kiện hơn để duy trì, phát triển hình thức hoạt động văn hóa thể thao cho công nhân, người lao động các khu vực tập trung (bởi ngân sách nhà nước còn hạn chế, đồng thời cũng là nâng cao trách nhiệm của các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp sử dụng lao động với đời sống văn hoá công nhân. Kết nối hoạt động nhịp nhàng cùng với Trung tâm văn hoá 11 huyện, thị xã, thành phố, Trung tâm Văn hóa tỉnh, Nhà Thiếu nhi tỉnh thành một hệ thống chặt chẽ. Bằng các phương tiện cổ động trực quan, bằng các chương trình hội, hội diễn (thông tin lưu động, với chủ đề bám sát chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước, phòng chống tệ nạn xã hội, an toàn giao thông…). Các trung tâm văn hoá, nhà văn hoá xã, vừa là nơi sinh hoạt văn hoá, thể thao của nhân dân khu vực, nơi giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, truyền nghề và đào tạo năng khiếu cho lớp trẻ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất