BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VẬT LIỆU POLYME
ĐẶNG HỮU TRUNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP THẠC SĨ KHOA HỌC
Chuyên nghành: Khoa học và kỹ thuật vật liệu
Đề tài:
Nghiên cứu nâng cao độ dai (toughness) của compozit trên nền epoxy gia cường
bằng sợi thuỷ tinh
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TSKH TRẦN VĨNH DIỆU
Hà Nội, tháng 10 /2012
Luận văn thạc sỹ khoa học
MỞ ĐẦU
Nhựa epoxy là loại nhựa nhiệt rắn, sau khi đóng rắn có những ưu điểm nổi bật
như độ bền cơ học cao, khả năng chống ăn mòn tốt, bền nhiệt, bền hóa học, bám dính
tốt lên nhiều loại vật liệu và đặc biệt có độ co ngót thấp khi đóng rắn nên được sử dụng
rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế [29]. Tuy nhiên, do sau khi đóng rắn mật
độ liên kết ngang dày đặc làm cho polyme epoxy có tính chất dòn. Chính điều này đã
hạn chế ứng dụng của nhựa trong một số lĩnh vực.
Các chuyên gia vật liệu đang tìm cách làm giảm tính dòn, đồng thời nâng cao khả
năng dẻo hoá của vật liệu bằng nhiều phương pháp khác nhau như: Biến tính hoá học
làm cho mạch chính mềm dẻo hơn, tăng khối lượng phân tử, giảm mật độ khâu mạch
của nền epoxy hay hợp nhất pha tăng dai phân tán trong nền epoxy[26]. Phương pháp
biến tính hoá học là một trong các phương pháp hết sức quan trọng nhằm tạo ra một
loại vật liệu có tính năng dai cao.
Vì vậy, đề tài “ Nghiên cứu nâng cao độ dai (toughness) của compozit trên nền
epoxy gia cường bằng sợi thuỷ tinh” là một nhiệm vụ quan trọng trong việc tìm cách
nâng cao khả năng ứng dụng của vật liệu, nhằm cải thiện các tính chất cơ lý, đồng thời
đáp ứng được các nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
1
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
PHẦN 1
TỔNG QUAN VỀ VẬT LIỆU POLYME COMPOZIT
1.1 Hiểu biết chung
Vật liệu compozit đã xuất hiện từ rất sớm trong cuộc sống loài người, khoảng
5000 năm trước công nguyên. Thời cổ đại đã biết vận dụng vật liệu compozit vào cuộc
sống, ví dụ: sử dụng bột đá trộn với đất sét để đảm bảo sự dãn nở đều trong quá trình
nung đồ gốm.
Người Ai Cập đã biết vận dụng vật liệu compozit từ khoảng 3000 năm trước công
nguyên, sản phẩm điển hình là vỏ thuyền làm bằng lau, sậy tẩm bitum về sau này là các
thuyền được đan bằng tre trát mùn cưa và nhựa thông hay các vách tường đan tre trát
bùn với rơm, rạ là những sản phẩm compozit được áp dụng rộng rãi trong đời sống xã
hội.
Sự phát triển của vật liệu compozit đã được khẳng định và mang tính đột biến vào
những năm 1930 khi Stayer và Thomat đã nghiên cứu ứng dụng thành công sợi thuỷ
tinh. Fillis và Foster đã dùng sợi thuỷ tinh gia cường cho polyeste không no và giải
pháp này đã được áp dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp chế tạo máy bay, tàu chiến
phục vụ cho Thế chiến lần thứ hai [14].
Từ năm 1970 đến nay vật liệu compozit trên nền chất dẻo đã được đưa vào sử dụng
rộng rãi trong các ngành công nghiệp và dân dụng, y tế, thể thao, quân sự…[29].
1.1.1. Định nghĩa
Vật liệu compozit là vật liệu tổ hợp từ hai hay nhiều vật liệu khác nhau nhằm mục
đích tạo ra một vật liệu mới có tính năng ưu việt hơn vật liệu thành phần riêng rẽ.
Nói chung, trong trường hợp tổng quát nhất, một vật liệu compozit gồm một hay
nhiều pha gián đoạn được phân bố trong một pha liên tục. Khi vật liệu gồm nhiều pha
gián đoạn gọi đó là compozit hỗn tạp, pha gián đoạn thường có tính chất cơ học trội
hơn pha liên tục:
2
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
Pha liên tục được gọi là nền.
Pha gián đoạn được gọi là cốt hay chất gia cường (reinforcement)
1.1.2. Phân loại compozit
Vật liệu compozit được phân loại theo hình dạng và theo bản chất của các vật liệu
thành phần.
Phân loại theo hình dạng:
+ Vật liệu compozit cốt sợi: Khi vật liệu gia cường (cốt) là các sợi thì gọi đó là
compozit độn dạng sợi. Sợi sử dụng có thể là dưới dạng liên tục hay gián đoạn:
sợi ngắn, dài…Chất độn dạng sợi gia cường làm tăng tính chất cơ học cho
polyme nền.
+ Vật liệu compozit cốt hạt.
Khi chất gia cường ở dạng hạt đó là compozit cốt hạt. Hạt khác sợi ở chỗ nó không
có kích thước ưu tiên.
Hạt được sử dụng để cải thiện một số tính chất của vật liệu hoặc của vật liệu nền,
chẳng hạn như tăng độ cứng, tăng khả năng chịu nhiệt, chịu mài mòn, giảm độ co ngót,
đôi khi làm giảm giá thành sản phẩm mà vẫn không làm thay đổi tính chất cơ học của
vật liệu [4].
1.2. Nhựa nền Epoxy
Là chất kết dính, tạo môi trường phân tán và đóng vai trò truyền ứng suất khi có
ngoại lực tác dụng lên vật liệu.
1.2.1. Lịch sử phát triển của nhựa epoxy
Những thử nghiệm đầu tiên mang tính thương mại trong việc chế tạo nhựa epoxy
từ epiclohydrin được tiến hành ở Hoa Kỳ vào năm 1927. Pierre Castan (Thuỵ Sĩ) và S.
O. Greenlee (Hoa Kỳ) đã trở nên nổi tiếng do lần đầu tiên tổng hợp được nhựa epoxy
trên cơ sở bisphenol A vào năm 1936 [14]. Công trình của Castan đã được hãng Ciba
(Thuỵ Sĩ) đăng ký bản quyền sáng chế và Ciba trở thành một trong ba nhà sản xuất
3
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
chính nhựa epoxy trên thế giới. Sau đó công việc kinh doanh nhựa epoxy được chuyển
nhượng vào năm 1990 và hiện là một đơn vị kinh doanh vật liệu tiên tiến của
Huntsman Corporation (Hoa Kỳ). Công trình của Greenlee phục vụ cho hãng DevoeReynolds (Hoa Kỳ). Trong thời gian đầu Devoe-Reynolds tích cực sản xuất nhựa
epoxy, sau đó chuyển nhượng cho Shell Chemical (hiện là Hexion).
Hiện nay, nhựa epoxy có rất nhiều loại nhưng phổ biến nhất là loại nhựa epoxy đi từ
epiclohydrin và bisphenol A (gọi tắt là nhựa epoxy Epidian). Phản ứng tạo thành nhựa
epoxy Epidian trình bày ở Hình 1.1
CH3
CH2 – CH CH2Cl + HO
C
O
OH
+NaOH
CH3
Epiclohydrin
Bisphenol A
O
CH3
CH2-CH - CH2 – O
C
CH3
O-CH2-CHCH2 – O
CH3
n
C
O-
CH3
-CH2 CH – CH2
O
Hình 1.1 Sơ đồ phản ứng tạo thành nhựa epoxy Epidian
Bằng cách thay đổi tỷ lệ giữa epiclohydrin và bisphenol A, có thể sản xuất được
nhựa epoxy ở dạng từ lỏng nhớt đến rắn có nhiệt độ nóng chảy cao, giá trị n trong
khoảng từ 0 đến 30.
Trong các công trình nghiên cứu nhựa epoxy Epidian thường được gọi với tên đầy đủ
là diglyxydylete bisphenol A (DGEBA).
Nhu cầu tiêu thụ nhựa epoxy trên thế giới theo các lĩnh vực được trình bày ở Hình
1. 2 [18].
4
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
Khác
3%
Keo dán
6%
Compozit
18%
Điện tử
8%
Sơn
50%
Điện
2%
Kết cấu
13%
Hình 1.2: Nhu cầu tiêu thụ nhựa epoxy trên thế giới theo các lĩnh vực
Như vậy, khoảng một nửa nhu cầu phân phối cho các loại sơn khác nhau, bao gồm
sơn bột, sơn dung môi nước, sơn dung môi hữu cơ v.v... Lĩnh vực tiêu thụ lớn thứ hai
(chiếm 18%) là compozit cho hàng không, chế tạo dụng cụ, kết cấu và những ứng dụng
khác.
Những nhà sản xuất nhựa epoxy lớn hiện nay chiếm vị trí chủ đạo gồm có: Dow,
Resolution Performance Products (RPP) và Huntsman Advanced Materials (trước đây
là Vantico).
Theo nghiên cứu của Nama Chemicals, nhu cầu tiêu thụ nhựa epoxy trên thế giới là
1,81 triệu tấn vào năm 2014 [2].
1.2.2. Phương pháp tổng hợp nhựa epoxy
Dựa trên cơ sở các phản ứng sau.
-
Trùng ngưng có xúc tác (bazơ) giữa các hợp chất epoxy (điển hình là epiclohydrin)
với các chất cho proton (bisphenol A).
5
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
-
Epoxy hoá các hợp chất không no bằng tác nhân cung cấp oxy
-
Trùng hợp và đồng trùng hợp các hợp chất epoxy không no.
Phổ biến và quan trọng hơn là phương pháp tổng hợp nhựa epoxy từ phản ứng
trùng ngưng giữa các hợp chất epoxy và các chất cho proton, trong đó nhựa epoxy dian
là sản phẩm quan trọng nhất và được sử dụng rộng rãi nhất.
Nhựa epoxy dian là sản phẩm của phản ứng giữa bisphenol A và epiclohydrin (ECH).
a. Nguyên liệu đầu
- Bisphenol A được tạo ra từ phản ứng của axeton và phenol trong môi trường axit ở
100-500C.
+ H2O (1)
Bisphenol A hay diphenolpropan (DPP) tồn tại ở dạng bột, màu trắng không tan
trong nước, tan trong axeton, rượu, nóng chảy ở 1550-1570C.
- Epiclohydrin tạo thành từ nguyên liệu đầu là propylen.
CH2 = CH + Cl2
CH3
CH3 = CH
CH2 = CH
xúc tác
+ HCl (2)
CH2 - Cl
+ H2 O / Cl2
Cl - CH2 - CH - CH2 - Cl + HCl
CH2 - Cl
Cl - CH2 - CH - CH2 - Cl + NaOH
OH
CH2 - CH - CH2 - Cl + NaCl + H2O (4)
OH
O
6
Đặng Hữu Trung
(3)
Luận văn thạc sỹ khoa học
Ngoài ra epiclohydrin còn nhận được từ glyxerin qua hai giai đoạn hydro clo hóa và
đóng vòng epoxy.
xt
CH2 - CH - CH2 + 2HCl (khí)
CH2 - CH - CH2 + 2H2O
OH
Cl
OH OH
CH2 - CH - CH2 + NaOH
Cl
(5)
OH Cl
Cl - CH2 - CH - CH2 + NaCl + H2O (6)
OH Cl
O
ECH là chất lỏng không màu mùi hắc, độc, tỷ trọng 1,18(g/ml), nhiệt độ sôi 117
1180C [29].
b. Phản ứng tạo thành nhựa epoxy-dian
Phản ứng trùng ngưng của bisphenol A với ECH tạo nhựa epoxy sử dụng xúc tác
kiềm xảy ra theo hai giai đoạn.
Giai đoạn 1.
Nhóm epoxy của ECH tác dụng với nhóm hyđroxyl của bisphenol A, phản ứng xảy ra
nhanh ở nhiệt độ 60-700C, toả nhiệt H 17kcal / mol theo phương trình:
CH3
CH2 - CH - CH2Cl + HO
O
C
OH + CH2 - CH - CH2 - Cl
CH3
O
CH3
Cl - CH2 - CH - CH2 - O
C
OH
CH3
O - CH2 - CH - CH2 - Cl (7)
OH
Giai đoạn 2.
Tách HCl tạo diepoxy, phản ứng xảy ra chậm, toả nhiệt( H 29kcal / mol)
7
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
CH3
Cl - CH2 - CH - CH2 - O
C
C
OH
O - CH2 - CH - CH2 - Cl + 2NaOH
CH3
OH
CH3
CH2 - CH - CH2 - O
C
O
C
O - CH2 - CH - CH2 + 2NaCl + 2H2O (8)
CH3
O
Diglyxydylete(DGE)
Tiếp theo phát triển mạnh do DPP cộng hợp vào nhóm epoxy của olygome DGE
DGE + DPP
CH2 - CH - CH2 - O - R - O - CH2 - CH - CH2 - O - R - OH (9)
O
OH
n
CH3
R:
C
(A)
CH3
Nhóm phenol tự do của hợp chất A phản ứng với ECH tương tự kiểu phản ứng
(7), đóng vòng epoxy theo (8), tạo ra oligome epoxy có độ trùng hợp n=1, phát triển
mạch theo phản ứng (7), (8), (9) tạo ra các oligome có n = 2, 3, 4…
Nhựa epoxy nhận được như vậy thường được viết tắt là DGEBA (diglyxidylete
bisphenol A).
Trong quá trình tạo nhựa cần lưu ý tới các quá trình sau:
Thuỷ phân ECH do kiềm
Thuỷ phân nhóm epoxy ở cuối mạch thành nhóm hydroxyl
Trùng hợp ở vị trí nhóm epoxy dẫn đến cấu trúc không gian đôi khi làm cho
nhựa bị keo kết lại. Phản ứng trùng hợp này xảy ra không chỉ giữa các nhóm
epoxy với nhau mà cả giữa nhóm epoxy với nhóm hydroxyl.
8
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
Khối lượng phân tử của nhựa epoxy dao động trong khoảng 300-18000 phụ
thuộc vào tỉ lệ mol EHC và DPP, nhiệt độ, thời gian phản ứng và nồng độ NaOH sử
dụng.
Có thể tổng hợp nhựa epoxy có KLPT cao từ nhựa có KLPT thấp thông qua phản ứng
ngưng tụ với bisphenol A [29].
c. Các loại nhựa epoxy điển hình.
Nhựa epoxy là các oligome, có ít nhất hai nhóm epoxy (hay glyxydyl) trong một
phân tử có thể chia thành 2 loại chính:
-
Nhựa epoxy mạch thẳng :
RCH
CHRCH
O
CHR
O
- Nhựa epoxy mạch vòng :
R
CH
HC
O
O
CH
HC
R
Nhựa epoxy vòng nhận được bằng phương pháp epoxy hoá các hợp chất mạch vòng
nối đôi. Điển hình là các loại nhựa epoxy sau:
O
CH - CH2
O
COOCH2-CH=CH2
O
C
COOCH2-CH=CH2
Vinylhexen-3- dioxit
O
C
CH2
3,4 - epoxy hexan
3,4 - dioxit
diallylcacboxylat este
dixyclohexenyl propan
Nhựa epoxy vòng thường được đóng rắn ở nhiệt độ nâng cao.
9
Đặng Hữu Trung
CH3
O
Luận văn thạc sỹ khoa học
c. Các đặc trưng của nhựa epoxy
Nhựa epoxy thương mại thường được đặc trưng bởi các thông số chủ yếu sau:
-
Hàm lượng nhóm epoxy (HLE) là trọng lượng của nhóm epoxy có trong 100g
nhựa.
-
Đương lượng epoxy (ĐLE) là lượng nhựa tính theo gam chứa một đương lượng
nhóm epoxy
-
HLE và ĐLE liên quan theo công thức:
ĐLE=
43.10
HLE
43: khối lượng phân tử của nhóm epoxy
Nhựa epoxy sau khi đóng rắn có cấu trúc vi mô dị thể dạng hình cầu và sự hình
thành cấu trúc quan sát thấy ngay ở pha lỏng trong các giai đoạn đóng rắn ban đầu.
Kích thước của phân tử hình cầu phụ thuộc vào thành phần tổ hợp và điều kiện đóng
rắn (kích thước phân tử giảm khi tăng nhiệt độ). Khi giảm kích thước của các phần tử
hình cầu thì độ bền điện của polime tăng. Cùng với việc giảm khoảng cách giữa các
mắt lưới khâu mạch, nhiệt độ thuỷ tinh hoá, độ bền hoá học và độ chịu nhiệt tăng
nhưng khi đó thường thì độ giòn của polime lại tăng. Cũng tương tự như vậy khi tăng
hàm lượng nhân thơm trong nhựa epoxy thì làm tăng mật độ kết bó của các đoạn mạch,
làm tăng độ bền cơ lý và độ bền hoá học.
Để biến tính nhựa epoxy đôi khi thêm chất hoá dẻo hay oligome chứa rất ít hay
hoàn toàn không có các nhóm hoạt động hoá học. Những cấu tử như vậy không tham
gia vào mạng lưới cấu trúc, tích tụ trên ranh giới phân chia ở dạng các phần tử hình
cầu, do đó làm giảm đáng kể độ bền cơ lý, độ bền nhiệt và độ bền hoá học của vật liệu.
10
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
1.2.3. Các chất đóng rắn cho nhựa epoxy
Nhựa epoxy được sử dụng hiệu quả sau khi chuyển sang trạng thái nhiệt rắn, nghĩa
là hình thành các liên kết ngang giữa các phân tử nhờ phản ứng với chất đóng rắn, tạo
ra cấu trúc không gian ba chiều, không nóng chảy không hòa tan.
Cấu trúc nhựa epoxy, chất đóng rắn và điều kiện phản ứng quyết định đến nhiệt độ
hóa thủy tinh Tg, độ bền môi trường và tính chất cơ lý của nhựa epoxy. Việc lựa chọn
sử dụng chất đóng rắn tùy thuộc vào mục đích sử dụng và công nghệ gia công.
Các chất đóng rắn này phản ứng với các nhóm chức của nhựa epoxy, đặc biệt với
nhóm epoxy. Các phản ứng chính của nhóm epoxy là cộng hợp với các hợp chất chứa
nguyên tử hydro hoạt động và trùng hợp nhóm epoxy theo cơ chế ion. Do vậy chất
đóng rắn được phân thành hai nhóm chính: chất đóng rắn cộng hợp và chất đóng rắn
trùng hợp.
Chất đóng rắn cộng hợp
Chất đóng rắn cộng hợp gồm hai nhóm chính: chất đóng rắn amin và chất đóng rắn
axit.
Chất đóng rắn amin gồm các hợp chất chứa nhóm amin: amin thẳng, thơm, dị vòng
và các sản phẩm biến tính của amin cũng như oligoamin có nhóm amin ở cuối mạch.
Các chất đóng rắn amin hầu như có thể đóng rắn tất cả các loại nhựa epoxy, ngoại trừ
epoxyeste vì không có nhóm epoxy. Nhóm epoxy của nhựa epoxy mạch vòng no có
khả năng phản ứng hoá học rất yếu với nhóm amin.
Các chất đóng rắn amin được ứng dụng trong một khoảng nhiệt độ rộng 0-150 0C.
Mặc dù có hoạt tính cao, song đối với một số chất đóng rắn amin khi đóng rắn ở nhiệt
độ thấp( 0-20 0C) thường phải bổ sung chất xúc tiến như rượu, mecaptan, phenol, axit
cacboxylic.
Trong một số trường hợp có thể sử dụng amin bậc ba (R3N) hoặc hợp chất triflorua
bo và phức của (BF3:RNH) làm chất xúc tác [27].
11
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
Các amin mạch thẳng thường dùng gồm có: Dietylentriamin (DETA),
trietylentetramin (TETA) và polyetylenpolyamin (PEPA). Những amin này có hoạt
tính hoá học cao nên toả nhiệt nhiều khi đóng rắn, đồng thời có nhược điểm là dễ hút
ẩm làm cho bề mặt vật liệu bị mờ đục, dính và không khâu mạch ở mức độ cao nên làm
giảm tính chất cơ lý và khả năng chịu hoá chất của polyme epoxy.
Để khắc phục những nhược điểm của polyamin mạch thẳng, thường sử dụng chúng
dưới dạng adduct, ví dụ adduct của nhựa epoxy lỏng DGEBA với DETA, adduct của
DETA với butylacrylat và adduct của DETA với acrylonitril [5,19].
Amin thơm có khả năng phản ứng thấp hơn polyamin mạch thẳng. Quá trình đóng
rắn xẩy ra ở nhiệt độ cao (≥ 150 0C) . Để giảm nhiệt độ và rút ngắn thời gian đóng rắn
có thể bổ sung các chất xúc tác như hợp chất cho proton hay axit Lewis (BF3, SnCl4,
TiCl4).
Những amin thơm phổ biến nhất để đóng rắn nhựa epoxy DGEBA gồm có: mphenylendiamin, diamino diphenylmetan (DDM), diaminodiphenylsunfon (DDS).
Vấn đề tổng hợp adduct và hợp chất tương tự có ưu điểm hơn polyamin mạch thẳng
đã được đề cập trong các công trình của Trần Vĩnh Diệu và cộng sự [6,7].
Những
tác giả này cũng đã tổng hợp ketimin từ metyletylxeton và DETA để đóng rắn nhựa
epoxy trong điều kiện độ ẩm cao [08].
Dưới tác dụng của nước có trong môi trường không khí ẩm, ketimin sẽ tạo thành các
amin mới và amin này phản ứng với nhóm epoxy.
So với các chất đóng rắn amin, các chất đóng rắn axit ít gây toả nhiệt hơn khi đóng
rắn. Nhựa epoxy sau khi đóng rắn có độ biến dạng nhiệt cao hơn, tính chất cơ lý, cách
điện và bền hoá học tốt hơn. Tuy nhiên độ bền với kiềm kém hơn so với trường hợp
đóng rắn bằng amin.
Cơ chế phản ứng đóng rắn bằng anhydrit khá phức tạp, song giai đoạn đầu tiên của
phản ứng là mở vòng anhydrit bằng nhóm hydroxyl (của ancol hay vết nước).
Nhóm
hydroxyl cũng phản ứng với nhóm epoxy và như vậy có thể có năm phản ứng xẩy ra:
12
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
1) Phản ứng của nhóm cacboxylic với nhóm epoxy
2) Phản ứng của nhóm hydroxyl với nhóm epoxy
3) Phản ứng của monoeste với nhóm hydroxyl
4) Phản ứng thuỷ phân anhydrit tạo thành axit nhờ nước tách ra ở phản ứng (3)
5) Phản ứng thuỷ phân monoeste bằng nước để tạo thành axit và ancol.
Trong thực tế phản ứng (1) và (2) là quan trọng nhất và tìm thấy các liên kết este và
ete có số lượng gần tương đương nhau.
Phản ứng của axit cacboxylic với nhóm epoxy không có xúc tác thường xẩy ra rất
chậm kể cả khi tăng nhiệt độ. Tuỳ theo yêu cầu và tính chất của sản phẩm, chu trình
đóng rắn có thể kéo dài 16-32 giờ ở 120 0 – 150 0C. Để giảm nhiệt độ và thời gian đóng
rắn thường dùng các amin bậc ba để xúc tác cho phản ứng. Phổ biến hơn cả là
benzyldimetylamin (BDA) và 2,4,6 tri (dimetylaminometyl)phenol có tên thương mại
là DMP-30.
Các amin thơm nêu trên có khả năng chuyển axit cacboxylic thành anion thông qua
tạo phức có chuyển dời điện tích.
R’ – C* = O + OH -
R3N + R’COOH
R3N+
OH - + R’ COOH
H2O + R’COO –
+
Do R’COO – Có độ nucleofil cao nên dễ dàng tấn công mở vòng nhóm epoxy.
Những anhydrit được sử dụng phổ biến hiện nay hexahydrophtalic anhydrit và
metylhexahydrophtalic anhydrit. Khác với anhydrit phtalic và maleic ở dạng rắn (ở
nhiệt độ thường), những anhydrit nêu trên đều ở dạng lỏng nên dễ dàng trộn hợp với
nhựa epoxy, xúc tác thường dùng là metylimidazon.
Chất đóng rắn trùng hợp
Chất đóng rắn này có tác dụng xúc tác mở vòng epoxy để thực hiện phản ứng
trùng hợp cation và anion.
13
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
Trùng hợp cation:
Được khởi đầu bằng axit Lewis như BF3, SnCl4... Thường sử dụng rộng rãi
các phức của triflobo, ví dụ như: BF3(C2H5)2.
Cơ chế trùng hợp cation của nhóm epoxy có thể hình dung như sau: Đầu tiên
triflobo tạo phức với oxy của vòng epoxy tạo thành phức không bền và phức này nhanh
chóng chuyển thành ion cacboni(I) và oxoni(II).
O
F3B--O-CH2-C+H2
BF3 + O
F3B--O-CH2CH2O+
(II)
(I)
Người ta giả định rằng, sự tạo thành ion cacboni có nhiều khả năng hơn và là
trung tâm tham gia vào phản ứng trùng hợp
F3B--O-CH2-C+H2 + O
Nhanh
F3B--O-CH2CH2O+
chậm
F3B--O-CH2-CH2-O -CH2-C+H2
Trùng hợp anion:
Trùng hợp anion nhóm epoxy là một quá trình dễ điều khiển hơn. Phản ứng được
khởi đầu bằng các alcogolat kim loại kiềm và amin bậc 3 (bazơ Lewis).
+ Đối với các alcogolat kim loại kiềm:
R-O-Me+
+
~CH2-O-Me+ +
O
O
R-O-CH2-CH2-O-Me+
~CH2-O-..Me+
~CH2-O-CH2-CH2-O- Me+
14
Đặng Hữu Trung
O
Luận văn thạc sỹ khoa học
+ Đối với amin bậc 3:
R3N+-CH2-CH~
R3N + CH2-CH~
O-
O
R3N+-CH2-CH~ +
O-
CH2-CH~
R3N+CH2CH~
O – CH2CH~
O
O1.2.4 Biến tính nền epoxy
Nhựa nền epoxy có những ưu điểm vượt trội so với các nền nhựa nhiệt rắn khác
như [23]:
1) Tính chất thay đổi trong một khoảng rộng vì có nhiều loại nguyên liệu đầu, chất
đóng rắn và chất biến tính.
2) Không có chất bay hơi khi đóng rắn.
3) Co ngót ít khi đóng rắn.
4) Chịu hoá chất và dung môi tốt.
5) Bám dính tốt vào nhiều loại vật liệu khác nhau.
Mặc dù vậy, nhựa epoxy sau khi đóng rắn có nhược điểm cố hữu điển hình của
nhựa nhiệt rắn là dòn và biến dạng nhỏ khi phá huỷ. Vấn đề này luôn được quan tâm
nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu của thực tế đặt ra từ trên 60 năm nay, kể từ khi nhựa
epoxy ra đời. Kết quả là nhựa epoxy đã được sử dụng nhiều trong các lĩnh vực như
keo dán kết cấu, bịt bọc các linh kiện điện tử và compozit như các tấm nhiều lớp cho
kỹ thuật điện, các chi tiết cho hàng không và ôtô...
15
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
1.2.4.1 Dẻo hoá epoxy [25]
Khác với nhựa nhiệt dẻo, ở đó độ dai phá vỡ (fracture toughness) và khả năng gia
công có thể được cải thiện đáng kể bằng cách trộn hợp (blending) với chất dẻo hoá
(hợp chất không hoạt tính) hay trộn hợp vật lý với polyme nóng chảy. Những phương
pháp dẻo hoá hay trộn hợp như vậy lại không có kết quả đối với nhựa nhiệt rắn như
epoxy. Lý do là khi đóng rắn, chất hoá dẻo lại thoát ra khỏi nền hoặc bị tách pha vĩ mô.
Hơn nữa, việc tích tụ các phân tử chất hoá dẻo tự do ở thể lỏng trên bề mặt có thể tác
động như một lớp ranh giới yếu và làm giảm đáng kể lực liên kết giữa các pha. Chính
vì vậy, các chất hoá dẻo chưa được chấp nhận rộng rãi trong công nghiệp epoxy[3].
Tuy nhiên, trong những trường hợp cần giảm độ nhớt của hỗn hợp đúc, vẫn có thể
sử dụng chất hoá dẻo phân tử thấp như dibutylphtalat (DBP) hay diotylphtalat (DOP)
với hàm lượng khoảng 10 PTL so với 100 PTL nhựa epoxy lỏng [22].
Nhựa epoxy được hoá dẻo bằng dung môi hoạt tính thường là hợp chất mono
epoxy[28]. Ý tưởng chủ đạo là làm giảm mật độ khâu mạch, từ đó làm cho mạng lưới
cấu trúc ít chặt chẽ hơn.
1.2.4.2 Dai hoá epoxy (Toughening of Epoxy) [25]
Sự khác nhau cơ bản giữa dẻo hoá và dai hoá là trong những trường hợp dẻo hoá,
việc cải thiện độ bền va đập kèm theo giảm đáng kể các tính chất cơ nhiệt (đặc biệt
Tg), trong lúc đó với dai hoá lại không làm giảm đáng kể tính chất cơ nhiệt. Sự khác
nhau đó nẩy sinh là do sự khác nhau về hình thái pha (phase morphology). Dẻo hoá kết
hợp với hình thái pha đơn, ngược lại dai hoá nảy sinh từ hình thái pha kép. Khác với
dẻo hoá, ở đó chất biến tính trở thành một phần của pha epoxy, còn khi dai hoá, chất
biến tính lại tạo thành pha riêng rẽ và do vậy hàng loạt tính chất cơ nhiệt của nền epoxy
vẫn giữ nguyên.
16
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
Có bốn phương pháp tăng dai cho nhựa epoxy đã được biết đến[26]:
1. Biến tính hoá học làm cho mạch chính mền dẻo hơn
2. Tăng khối lượng phân tử của nhựa epoxy
3. Giảm mật độ khâu mạch của nền epoxy
4. Hợp nhất pha tăng dai phân tán trong nền epoxy
Biến tính hoá học nhựa epoxy có thể được thực hiện bằng hai phương pháp chủ yếu:
1. Biến tính mạch phân tử chính của epoxy
2. Biến tính thông qua chất đóng rắn
Đối với phương pháp 1, sơ đồ biến tính hoá học nhựa epoxy được trình bày như sau:
O
O
R
+
Epoxy (dư)
O
HX – R’ – XH
chất biến tính
OH
OH
R – CH – CH2X – R’ – X – CH2- CH - R
Epoxy đã biến tính
+
O
O
R
Epoxy
(Chất đóng rắn)
Epoxy đã dai hoá
17
Đặng Hữu Trung
O
Luận văn thạc sỹ khoa học
Trong đó:
R’ = Mạch mềm dẻo, cao su hay nhựa nhiệt dẻo
XH = COOH
Trần Vĩnh Diệu et al, đã sử dụng laccol-một phenol sơn tự nhiên có nhánh phụ dài
không no- để biến tính nhựa epoxy lỏng DGEBA và nhận được kết quả rất khả
quan[10]. Đưa dung môi hoạt tính là một hợp chất phân tử thấp monoepoxy vào nhựa
epoxy lỏng cũng là phương pháp biến tính hoá học có hiệu quả.
Đối với phương pháp 2, thường dùng chất đóng rắn có mạch phân tử mềm dẻo, ví dụ
điển hình là sản phẩm ngưng tụ của axit béo dầu thảo mộc dime hoá với diamin để tạo
thành polyamit phân tử thấp (tên thương mại là versamit).
1.2.5. Lĩnh vực ứng dụng chính của nhựa epoxy.
+ Sơn phủ bảo vệ:
- Sơn phủ chống ăn mòn trên cơ sở nhựa epoxy được dùng để bảo vệ cho các kết
cấu và thiết bị bằng thép trong các nhà máy hoá chất, lọc dầu, thực phẩm, giấy … và
cầu thép.
Các thùng chứa bằng kim loại và bể bê tông được sơn phủ bằng sơn epoxy
chống ăn mòn có thể giữ được độ tinh khiết của các chất đựng trong đó: Rượu vang,
bia, chất tẩy rửa …
Hệ sơn giàu kẽm từ epoxy - nhựa than đá được dùng nhiều trong công nghiệp
đóng tàu biển. Sơn epoxy dạng bột được sử dụng trang trí dụng cụ nhà bếp, buồng tắm,
sơn ô tô, xe đạp ….
+ Keo dán.
Keo dán epoxy được sử dụng trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là trong công nghiệp
hàng không, điện , điện tử và dán gỗ trong sản xuất đồ gỗ cao cấp.
18
Đặng Hữu Trung
Luận văn thạc sỹ khoa học
+ Vật liệu compozit
Vật liệu compozit trên cơ sở nhựa epoxy gia cường bằng sợi thuỷ tinh đã được sử
dụng để chế tạo các thùng chứa chuyên chở axit, dung dịch kiềm, dầu mỏ … với giá
thành thấp, nhẹ và độ bền ăn mòn cao.
Trong công nghiệp hàng không vũ trụ, vật liệu compozit từ epoxy với các chất gia
cường dạng sợi (cacbon, aramit, Bo, grafit ) ngày càng được phát triển mạnh. Do
những ưu việt về độ bền, nhẹ so với kim loại mà việc sử dụng vật liệu compozit trong
máy bay đã giảm được nhiều khối lượng kết cấu, giảm tiêu hao nhiên liệu …
1.3. Sợi gia cường
Đóng vai trò là chất chịu ứng suất tập trung, chất gia cường thường có tính chất
cơ lý cao hơn nhựa. Người ta đánh giá chất gia cường dựa trên các đặc điểm:
Tính gia cường cơ học
Tính kháng hoá chất, môi trường, nhiệt độ
Kết dính với nhựa nền tốt.
Truyền nhiệt tốt
Thuận lợi cho quá trình gia công
Giá thành hợp lý
Tuỳ thuộc vào từng yêu cầu cho từng loại sản phẩm mà người ta có thể chọn
loại vật liệu gia cường cho thích hợp.
1.3.1.Sợi thuỷ tinh:
Sợi thuỷ tinh có nhiều loại nhưng chỉ có 6 loại được sử dụng phổ biến nhất làm
chất gia cường:
E - glass: thuộc loại cách điện. Loại này có tính đa dạng, chất lượng cao và thích
hợp cho hầu hết các ứng dụng.
A - glass: thuỷ tinh kiềm, nhẹ và tương đối bền nhưng chịu nước kém hơn nhiều
so với E – glass.
C – glass: chịu hoá chất.
19
Đặng Hữu Trung
- Xem thêm -