MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU
…………………………………………………………………………...
Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHI PHÍ VÀ GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP KHAI THÁC
KHOÁNG SẢN …….
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất chi phí sản xuất
…………………5
1.1. Những vấn đề chung về chi phí sản xuất ……………………….
1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất ……………………………………….
1.2. Giá thành sản phẩm ……………………………………………...
1.2.1. Khái niệm về giá thành sản phẩm ……………………………….
1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm ……………………………………
1.2.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và gia thành sản phẩm ……...
1.2.4. Các phương pháp tính giá thành ………………………………...
1.2.5. Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ………………
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ………………
1.3.1. Các nhân tố khách quan …………………………………………
1.3.2. Các nhân tố chủ quan ……………………………………………
1.4. Công tác quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
trong Tập đoàn công nghiệp than - khoáng sản Việt Nam …………
1.4.1. Sự cần thiết khách quan của quản trị chi phí, giá thành …………
1.4.2. Các phương pháp hạ giá thành sản phẩm ……………………….
1.4.3. Công tác quản lý chi phí và giá thành sản phẩm của
VINACOMIN
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG GIÁ THÀNH SẢN PHẨM CÁC ĐƠN
VỊ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN CỦA CÔNG TY CỔ PHẢN THAN CAO SƠN
- VINACOMIN GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 …………………………..
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển ………………………………
1
1
5
5
6
10
10
11
12
13
18
22
23
24
26
26
27
29
35
35
35
2.1. Giới thiệu chung về Công ty cổ phần than Cao Sơn
VINACOMIN
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần than Cao SơnVINACOMIN.
2.1.3. Đặc điểm khoáng sàng và công nghệ khai thác than của Công ty
cổ phần than Cao Sơn ………………………………………………….
2.2. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn 2006- 2010
2.2.1. Sản lượng sản xuất ………………………………………………
2.2.2. Doanh thu ……………………………………………………….
2.2.3. Kết quả kinh doanh ……………………………………………..
37
40
49
49
51
52
2.3. Phân tích chi phí và giá thành sản xuất than ở Công ty cổ phần
than Cao Sơn giai đoạn 2006 – 2010 …………………………..
54
2.3.1. Cơ chế quản lý chi phí và giá thành của Công ty cổ phần than
Cao Sơn – VINACOMIN ……………………………………………… 54
2.3.2. Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở Công ty cổ
phần than Cao Sơn-Vinacomingiai đoạn 2006-2010 ………………….. 65
CHƯƠNG 3. MỘT SÓ GIẢI PHÁP GIẢM GIÁ THÀNH SẢN
XUẤT THAN LỘ THIÊN, ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
THAN CAO SƠN-VINACOMIN
87
……………………………………………………………………...
3.1. Quan điểm, phương hương và mục tiêu phát triển của Công ty 87
3.1.1. Mục tiêu phát triển của Công ty ………………………………… 87
3.1.2. Quan điểm phát triển ……………………………………………. 87
3.1.3. Cơ hội và thách thức ……………………………………………. 88
3.2. Một số giải pháp giảm giá thành than sản xuất, tiêu thụ của
công ty cổ phần than Cao Sơn – VINACOMIN ……………………. 89
3.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn ………………………………………. 89
3.2.2. Các giải pháp giảm giá thành áp dụng cho sản xuất, tiêu thụ than
tại Công ty cổ phần than Cao Sơn- VINACOMIN ……………………. 93
3.3. Hiệu quả sản xuất của các giải pháp …………………………… 102
2
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
…………………………………………………….
TÀI LIỆU THAM
KHẢO ......................................................................................
PHỤ LỤC
104
106
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, trong quá trình đó cơ hội mở ra rất nhiều nhưng thách thức
cũng không hề ít đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế phải nắm bắt được thời cơ, vượt qua khó khăn thử thách để
tồn tại và phát triển.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành than đã
và đang khẳng định vị thế của một tập đoàn kinh tế vững mạnh.
Ngoài việc cung cấp than đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất
nước, Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam đã và
đang đặt những bước chân ra thị trường thế giới. Do dự báo nhu cầu
than cho nền kinh tế đất nước tăng nhanh, Thủ tướng Chính phủ yêu
cầu ngành than nâng cao sản lượng đến năm 2025 phải cung cấp
cho nền kinh tế đất nước 120 triệu tấn than - gấp 3 lần sản lượng
hiện nay. Để đạt được mục tiêu này, ngành than phải đương đầu và
khắc phục các vấn đề cơ bản là : điều kiện khai thác than càng ngày
càng khó khăn do các khoáng sàng than dễ khai thác đã gần hết;
phải tiến hành khai thác than thân thiện với môi trường để giữ gìn
môi trường sống chung của loài người.
Do các điều kiện khai thác xuống sâu và ngày càng khó khăn,
cung độ vận chuyển tăng, tỷ trọng than hầm lò tăng và giá cả đầu
vào, chính sách thuế, chi phí môi trường tăng nên giá thành than
năm 2010 tăng 76,5% so với năm 2006 và dự kiến tiếp tục tăng
khoảng 5 đến 10% một năm trong các năm tiếp theo. Nếu so với giá
thành sản xuất than của các nước sản xuất than lớn như Trong
3
Quốc, Mỹ... thì giá thành sản xuất than của nước ta tương đối cao
do năng suất thấp.
Đối với trong nước, chủ yếu cung cấp than cho bốn hộ lớn:
điện, xi măng, giấy và đạm, trong đó than điện chiếm phần lớn và
tiếp tục tăng mạnh trong các năm tới để đáp ứng tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên giá bán than cho các hộ này còn thấp hơn giá thành
(không theo cơ chế thị trường) do Nhà nước khống chế để ổn định
đời sống dân sinh và nền kinh tế quốc dân, nhưng hiện nay Nhà
nước không còn bù đắp phần chi phí chênh lệch như trước nên tiêu
thụ than trong nước không mang lại lợi nhuận cho ngành than.
Do đó, bên cạnh việc không ngừng hoàn thiện công tác tổ
chức sản xuất, đầu tư thêm thiết bị, công nghệ tiên tiến để nâng cao
sản lượng và năng suất, thì việc tăng cường quản lý, sử dụng tiết
kiệm chi phí, hạ giá thành sản xuất than là yêu cầu có tính tiên quyết
để đảm bảo sự phát triển bền vững của Tập đoàn TKV hiện nay và
trong tương lai.
Vinacomin đã, đang và sẽ đặt mục tiêu quản lý sử dụng tiết
kiệm chi sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh lên hàng
đầu. Công tác này đó hoàn thiện qua từng giai đoạn, hoàn thiện cả
về cơ chế và phương pháp quản trị và đó tạo ra lợi nhuận và tiêm
lực tài chính chủ yếu của Tập đoàn. Hiện nay, VINACOMIN áp
dụng khoán giá thành theo đơn giá công đoạn tổng hợp, một phương
pháp quản lý chi phí, giá thành tiên tiến, khoa học; đơn giá được
ban hành niêm yết công khai từng công đoạn sản xuất ; trên cơ sở
đơn giá công đoạn và điều kiện sản xuất cụ thể Tập đoàn ban hành
giá bán than nội bộ cho từng đơn vị. Theo cơ chế đó, để tăng lợi
nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh các công ty thành viên phải
có biện pháp quản lý tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản xuất.
Tuy nhiên, do mục tiêu sản lượng, nên các công ty khai thác
than thuộc VINACOMIN nhiều lúc chưa thật sự quan tâm đến giảm
giá thành sản xuất, còn có tình trạng "sản xuất bằng mọi giá", dẫn
đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tăng cao, làm giảm hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khai thác than nói riêng
và của ngành than nói chung.
4
Xuất phát từ thực tế đó, vấn đề "Nghiên cứu một số giải pháp
giảm giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần than Cao Sơn –
VINACOMIN” là vấn đề có ý nghĩa thiết thực về lý luận, thực tiễn
và có tính khả thi cao.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở lý luận cơ bản về quản lý giá thành và kết quả nghiên
cứu, đánh giá thực trạng quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm tại Công ty cổ
phần than Cao Sơn - VINACOMIN, đề tài sẽ đưa ra một số giải
pháp quản lý chi phí và quản trị sản xuất hợp lý nhằm mục tiêu
giảm giá thành sản phẩm.
3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài, đối tượng nghiên cứu
của luận văn là các biện pháp quản trị chi phí và quản trị sản xuất
hợp lý nhằm làm giảm giá thành sản xuất than.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu
thực trạng quản lý chi phí, giảm giá thành sản xuất than tại Công ty
cổ phần than Cao Sơn. Nguồn tài liệu được sử dụng là các thông tin
và số liệu thực tế đã khảo sát tại Công ty than Cao Sơn trong những
năm gần đây làm luận cứ để tìm ra các giải pháp quản lý giảm giá
thành sản phẩm áp dụng tại Công ty cổ phần than Cao Sơn VINACOMIN giai đoạn 2010 - 2015
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
để đưa ra và phân tích các cơ sở lý luận; sử dựng phương pháp
thống kê, nghiên cứu so sánh, phân tích, quy nạp, diễn dịch và
phương pháp thực chứng để phân tích và làm sáng tỏ vấn đề nghiên
cứu.
Sử dụng điều tra thực tế, thu thập số liệu bằng các phương
pháp khảo sát, thống kê, tổng hợp từ thực tế sản xuất kinh doanh
của Công ty cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN. Kết hợp với
phương pháp tham khảo tài liệu hoặc công trình nghiên cứu của các
5
chuyên gia, các tổ chức tư vấn về các vấn đề quản lý giá thành sản
phẩm nói chung và giá thành sản xuất than nói riêng.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ góp phần hệ
thống hoá các lý luận về quản trị chi phí, quản trị sản xuất nhằm
mục tiêu giảm giá thành sản xuất trong các doanh nghiệp.
Đề tài đánh giá thực chất hiệu quả công tác quản lý giá thành
sản xuất than lộ thiên của Tập đoàn VINACOMIN nói chung và của
Công ty Cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN nói riêng. Từ đó
đưa ra các giải pháp tăng cường quản lý chi phí sản xuất, hợp lý hoá
quá trình sản xuất để giảm giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần
than Cao Sơn - VINACOMIN nói chung và của ngành than nói
chung.
7. Nội dung đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được trình bày
thành 3 phần với kết cấu như sau :
Chương 1 . Tổng quan về chi phí và giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp khai thác khoáng sản
Chương 2. Phân tích thực trạng giá thành sản phẩm của Công
ty cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN giai đoạn 2006 - 2010
Chương 3 . Một số giải pháp giảm giá thành sản phẩm tại
Công ty cổ phần than Cao Sơn -VINACOMIN.
8. Cơ sở tài liệu
Để thực hiện luận văn tác giả đã đi thực tế, thu thập số liệu,
tham khảo lý thuyết, văn bản pháp quy có liên quan đến đề tài ở
Vinacomin, thư viện quốc gia, giáo trình cao học của Trường Đại
học Mỏ Địa chất, nhất là sự giúp đỡ của các thầy cô giáo ở Khoa
Kinh tế - QTKD và nhiều trường Đại học khác. Nhân đây, tác giả
muốn bày tỏ lòng biết ơn và cảm ơn chân thành sự giúp đỡ của các
cơ sở thực tế, trường Đại học Mỏ - Địa chất trong quá trình thu thập
số liệu và viết luận văn.
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP KHAI THÁC
KHOÁNG SẢN
1.1. Những vấn đề chung về chi phí sản xuất [1; 2; 3]
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm, bản chất chi phí sản xuất
7
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với
quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản
xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao của các yếu tố
cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác quá trình sản xuất
hàng hoá là quá trình kết hợp của ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối
tượng lao động và sức lao động. Đồng thời quá trình sản xuất cũng
là quá trình tiêu hao các yếu tố trên. Sự tham gia của các yếu tố đó
vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp có sự khác nhau và hình
thành khoản chi phí tương ứng. Để tạo ra sản phẩm, lao vụ dịch vụ
thì các doanh nghiệp phải chi ra các khoản chi phí chủ yếu đó là:
hao phi về lao động vật hoá như: chi phí nguyên vật liệu, công cụ
dụng cụ, khấu hao tài sản cố định.... hao phí lao động sống cần thiết
như: chí phí về tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động,
các khoản tính theo lương....Đó chính là chi phí sản xuất kinh doanh
trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp.
Như vậy chi phí có thể hiểu một cách trìu tượng là biểu hiện
bằng tiền của những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá
phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chi
phí là những phí tổn về nguồn lực, tài sản cụ thể sử dụng trong sản
xuất kinh doanh. Những nhận thức về chi phí có thể khác nhau về
quan điểm, hình thức thể hiện nhưng tất cả đều thừa nhận một vấn
đề chung: chi phí là phí tổn về tài nguyên, vật chất, lao động và phải
phát sinh gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh.
Bản chất của chi phí sản xuất là sự dịch chuyển vốn - chuyển
dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ).
Về mặt lượng thì chi phí sản xuất phụ thuộc vào 2 nhân tố:
Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất tham gia vào một thời
kỳ nhất định. Giá cả của các tư liệu sản xuất đã tiêu hao và tiền
công của một đơn vị lao động đã hao phí. Chi phí là một phạm trù
chung, khái quát nên khi hoạt động chi tiêu còn đơn giản việc sử
dụng phạm trù này không gây ra nhiều rắc rối song khi kinh doanh
đã ở qui mô lớn, chu kì kinh doanh kéo dài,... thì việc sử dụng chỉ
riêng phạm trù chi phí sẽ trở thành bất tiện và thậm chí rất bất tiện.
Vì lẽ đó, phạm trù chi phí đã được phát triển thành ba phạm trù cụ
thể hơn là chi tiêu, chi phí tài chính và chi phí kinh doanh.
8
Chi tiêu (chi ra): là lượng tiền một doanh nghiệp đã trả cho một
người, một nhóm người hoặc một tổ chức nào đó. Chi tiêu gắn chặt
với các quá trình thanh toán thuần tuý tài chính cho nên chỉ được sử
dụng trong kế toán tài chính.
Chi phí tài chính: là sự giảm tài sản ròng, là hao phí của một
thời kỳ tính toán được tập hợp ở kế toán tài chính. Chi phí tài chính
của một thời kỳ tính toán xác định là chi tiêu gắn liền với kết quả
của thời kỳ đó. Chi phí tài chính là chi phí gắn với kế toán tài chính.
Chi phí kinh doanh: là là sự hao phí xét trên phương diện giá
trị các vật phẩm và dịch vụ để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng
như để duy trì năng lực sản xuất cần thiết cho việc sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm đó.
Chi phí kinh doanh có ba đặc trưng bắt buộc: một là, chi phí
kinh doanh phải là sự hao phí vật phẩm và dịch vụ gắn với từng thời
kì; hai là, sự hao phí vật phẩm và dịch vụ phải gắn liền với kết quả
do sự hao phí đó gây ra; ba là, những vật phẩm và dịch vụ hao phí
đó phải được đánh giá theo nguyên tắc bảo toàn tài sản về mặt hiện
vật. Chi phí kinh doanh là chi phí gắn với kế toán quản trị.
Mặc dù cùng là chi phí nhưng chi phí kinh doanh khác với chi
phí tài chính về cả nội dung và độ lớn. Về bản chất, có nội dung chi
phí mà có sự trùng lặp giữa chi phí kinh doanh và chi phí tài chính,
cũng có các nội dung chi phí mà chi phí kinh doanh khác biệt so với
chi phí tài chính và cũng có nội dung chi phí mà chi phí tài chinh
khác biệt so với chi phí kinh doanh.
1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất
Khi xét về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí .. của
chi phí trong quá trình kinh doanh, chi phí có rất nhiều loại khác
nhau. Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán
chi phí, cần phải phân loại chi phí hay sắp xếp các loại chi phí khác
nhau vào từng nhóm theo đặc trưng nhất định. Trên thực tế, có rất
nhiều cách phân loại khác nhau, tuy nhiên, lựa chọn tiêu thức phân
loại nào là phải dựa vào yêu cầu của công tác quản lý. Sau đây, ta
xem xét một số cách phân loại chi phí sản xuất chủ yếu:
a) Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố chi phí
(theo tính chất, nội dung kinh tế của chi phí
9
Đây là cách phân loại dựa vào nội dung kinh tế của chi phí. Về
thực chất chủ yếu có ba yếu tố chi phí là chi phí về sức lao động, chi
phí về đối tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy nhiên
để cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ
cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động, việc lập,
kiểm tra và phân tích dự toán chi phí, các yếu tố chi phí trên có thể
được chi tiết hoá theo nội dung kinh tế cụ thể của chúng. Theo cách'
phân loại này thì chi phí được chia làm bảy yếu tố:
Yếu tố nguyên vật liệu : Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật
liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ, . . . sử
dụng vào sản xuất - kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không
hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh
Yếu tố tiền lương và các khoản có tính chất lương: phản ánh
tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho
người lao động Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: tính theo tỷ lệ qui
định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho người lao
động
Yếu tô khâu hao tài sản cố định: phản ánh tổng số khấu hao tài
sản cố định phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng cho
sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ dịch vụ
mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.
Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác
bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào việc sản xuất
kinh doanh trong kỳ. Cách phân loại này là để tập hợp chi phí theo
nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của chi phí mà không xét đến
công dụng, địa điểm phát sinh của chi phí. Cách phân loại này có ý
nghĩa rất lớn trong quản lý chi phí sản xuất, nó cho biết tỷ trọng
từng yếu tố chi phí qua đó đánh giá, phân tích tình hình thực hiện
chi phí sản xuất, cung cấp tài liệu cho việc lập dự toán chi phí sản
xuất. Tuy nhiên cách phân loại này có nhược điểm là không tính
được giá thành cho từng đơn vị sản phẩm do không phân biệt được
chi phí theo mục đích và công dụng.
10
b) Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo chức năng
hoạt động
Cách phân loại này căn cứ vào chức năng hoạt động mà chi
phí phát sinh để phân loại. Toàn bộ chi phí được chia thành 2 loại là
chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
Chi phí sản xuất: là toàn bộ chi phí liên quan đến việc chế
tạo sản phẩm hoặc dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. Đối với các
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, chi phí sản xuất được chia
thành 3 loại:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm giá trị của nguyên
vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu,.. dùng trực tiếp cho sản xuất
sản phẩm.
Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, phụ cấp
lương và các khoản trích theo lương cho các quỹ bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, kinh phí công đ/tấn của công nhân trực tiếp sản xuất
sản phẩm.
Chi phí sản xuất chung: là những chi phí cần thiết còn lại để
sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí
nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh tại phân xưởng,
bộ phận sản xuất của doanh nghiệp.
Chi phí ngoài sản xuất: là các chi phí phát sinh trong quá
trình tiêu thụ sản phẩm và quản lý chung toàn doanh nghiệp, bao
gồm:
Chi phí bán hàng: là toàn bộ những chi phí phát sinh cần thiết
để tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm; bao gồm các khoản chi phí như vận
chuyển, bốc vác, bao bì, lương nhân viên bán hàng, hoa hồng bán
hàng, khấu hao TSCĐ và những chi phí liên quan đến dự trữ, bảo
quản sản phẩm, hàng hoá, . .
Chi phí quản lý doanh nghiệp: là toàn bộ những chi phí chi ra
cho việc tổ chức và quản lý trong toàn doanh nghiệp. Đó là những
chi phí hành chính, kế toán, quản lý chung . .
Cách phân loại này giúp thấy rõ được chức năng của từng
khoản mục chi phí mà không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh
tế như thế nào và giúp cho nhà quản trị dự toán được các khoản mục
trọng yếu trong chi phí sản xuất sản phẩm, cung cấp số liệu cho việc
xây dựng kế hoạch giá thành và quản lý giá thành theo khoản mục
11
chi phí, từ đó xác định nguyên nhân, đề ra các giải pháp nhằm tiết
kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
c) Phân loại chi phí sản xuất theo cách thức kết chuyển chi
phí
Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản
phẩm và chi phí thời kỳ.
Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với các sản phẩm
được sản xuất ra hoặc được mua. Đối với các doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp thì các chi phí này bảo gồm: chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Chi
phí sản phẩm được xem là gắn liền với từng đơn vị sản phẩm, hàng
hoá khi chúng được sản xuất ra hoặc được mua vào, sản phẩm, hàng
hoá tồn kho và khi sản phẩm, hàng hoá được tiêu thụ thì mới trở
thành phí tổn để xác định kết quả kinh doanh.
Chi phí thời kỳ: là những chi phí làm giảm lợi tức trong một
kỳ nào đó, bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất
hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra
từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. Đối với các doanh nghiệp
có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài hoặc trong kỳ không có hoặc có
ít doanh thu thì chúng được tính thành phí tổn của kỳ sau để xác
định kết quả kinh doanh.
d) Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với đối tượng
chịu chi phí
Cách phân loại này căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí với đối
tượng chịu chi phí để phân loại, chi phí được chia thành 2 loại:
Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan trực tiếp đến đối
tượng chịu chi phí và được hạch toán vào đối tượng có liên quan.
Thông thường chi phí trực tiếp là các chi phí đơn nhất cấu tạo bởi
một yếu tố như: chi phí nguyên vật liệu, chi phí tiền lương,..
Chi phí gián tiếp: là những chi phí liên quan đến nhiều đối
tượng chịu chi phí, do đó nó được phân bổ vào các đối tượng có liên
quan theo các tiêu thức nhất định. Chi phí gián tiếp thường là những
chi phí tổng hợp của nhiều chi phí đơn nhất.
e) Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo cách ứng xử
của chi phí
12
Với các cách phân loại nêu trên, các chi phí phát sinh được xem là
các thông
tin quá khứ, độ lớn của nó chỉ có thể được xác định sau khi các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh và thực sự hoàn thành. Chính vì vậy, các
cách phân loại chi phí trên chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin cho
các nhà quản trị trong việc xác định các xu hướng biến động và mối
quan hệ giữa chi phí phát sinh, sản lượng thực hiện và lợi nhuận thu
được; lập kế hoạch và lựa chọn các phương án kinh doanh hiệu quả
nhất. Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí thường được áp
dụng trong kế toán quản trị, cách phân loại này sẽ khắc phục những
hạn chế kể trên. Nguyên tắc phân loại dựa trên mối quan hệ của chi
phí phát sinh với mức độ, quy mô của hoạt động làm phát sinh chi
phí ấy. Theo cách phân loại này, chi phí được chia thành biến phí
(chi phí biến đổi), định phí (chi phí cố định) và chi phí hỗn hợp.
Biến phí. là những khoản mục chi phí mà độ lớn của nó có
quan hệ tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động. Tuỳ thuộc vào đặc điểm
và nội dung cụ thể của hoạt động mà người ta lựa chọn tiêu thức
phù hợp để xác định mức độ hay quy mô của hoạt động tương ứng.
Biến phí có đặc điểm là tổng biến phí tỷ lệ thuận với mức độ hoạt
động còn biến phí đơn vị thì mang tính ổn định, không biến động
khi mức độ hoạt động thay đổi. Biến phí thường bao gồm các khoản
mục chi phí trực tiếp trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
như: chi phí nguyên, nhiên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp...
Định phí. là những khoản mục chi phí mà độ lớn của nó không
đổi về tổng số khi mức độ hoạt động thay đổi trong phạm vi phù
hợp. Phạm vi phù hợp là phạm vi giữa mức độ hoạt động tối thiểu
và mức độ hoạt động tối đa mà đơn vị dự tính thực hiện. Định phí
có đặc điểm là tổng định phí ổn định, không biến động khi mức độ
hoạt động thay đổi còn định phí đơn vị tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt
động. Định phí thường bao gồm các khoản chi phí gián tiếp như các
chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê mặt bằng, phương
tiện kinh doanh...
Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí và
yếu tố định phí, chẳng hạn như chi phí điện thoại, chi phí sửa chữa
thường xuyên tài sản cố định. ở một khối lượng sản phẩm sản xuất
13
nhất định thì chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí, vượt
trên khối lượng đó thì chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của biến
phí.
f) phân loại chi phí theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh:
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh
doanh, toàn bộ chi phí được chia ra làm 3 loại:
Chi phí sản xuất kinh doanh: Bao gồm những chi phí liên
quan đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, quản lý doanh
nghiệp.
Chi phí hoạt động tài chính: Bao gồm các chi phí liên quan
đến hoạt động vay nợ, đầu tư tài chính, mua bán chứng khoán.
Chi phí hoạt động khác: Gồm các chi phí ngoài dự kiến như
chi phí về thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, chi phí về nộp phạt.
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp bao gồm nhiều loại và có thể
được phân chia ra nhiều tiêu thức khác nhau phục vụ cho công tác
quản lý, kiểm tra tính hiệu quả sử dụng chi phí cho từng bộ phận
sản xuất và cho toàn doanh nghiệp. Từ việc xem xét chi phí ở từng
góc độ khác nhau và mục đích, yêu cầu quản lý mà ta chọn lựa tiêu
thức phân loại cho phù hợp với thực tế doanh nghiệp.
1.2. Giá thành sản phẩm
1.2.1. Khái niệm về giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các
khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan
đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Bản chất
giá thành là chi phí và là chi phí có mục đích được sắp xếp theo yêu
cầu của các nhà quản lý. Là sự dịch chuyển giá trị của các yếu tố vật
chất vào giá trị sản phẩm hoàn thành và được tiêu thụ. Tính toán giá
trị sản phẩm chính là tinh toán xác định sự dịch chuyển các yếu tố
vật chất tham gia vào khối lượng sản phẩm vừa được sản xuất hoàn
thành và tiêu thụ nhằm mục đích thực hiện chức năng của giá thành
sản phẩm là chức năng bù đắp, chức năng lập giá và chức năng đòn
bẩy kinh tế. Về mặt bản chất chi phí và giá thành sản phẩm giống
nhau, nghĩa là cùng biểu hiện bằng tiền những hao phí về lao động
sống và lao động vật hóa bỏ ra, nhưng khác nhau về mặt lượng. Khi
nói đến chi phí sản xuất là giới hạn chúng cho một thời kỳ nhất
14
định, không phân biệt là cho loại sản phẩm nào, đã hoàn thành hay
chưa, còn khi nói đến giá thành sản phẩm là nói là xác định một
lượng chi phí sản xuất nhất định tinh cho một đại lượng kết quả
hoàn thành nhất định. Đứng trên giác độ quá trình hoạt động để xem
xét, thì quá trình sản xuất là một quá trình hoạt động liên tục, còn
việc tính giá thành sản phẩm là một điểm cắt có tính chu kỳ để so
sánh chi phí với đại lượng kết quả, nên tại thời điểm tính giá thành
có thể có khối lượng sản phẩm chưa hoàn thành, chứa đựng một
lượng chi phí cho nó, gọi là chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
Tương tự như vậy, đầu kỳ có thể có một lượng sản phẩm sản xuất
chưa hoàn thành ở kỳ trước chuyển sang kỳ này để tiếp tục sản xuất
chứa đựng một lượng chi phí sản xuất cho nó, gọi là chi phí sản xuất
dở dang đầu kỳ. Như vậy giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ
bao gồm chi phí sản xuất của kỳ trước chuyển sang và một phần chi
phí phát sinh trong kỳ. Hơn nữa, giá thành sản phẩm mang tính chủ
quan, phụ thuộc vào những phương pháp tính toán phân bổ như việc
ghi nhận trước vào giá thành sản phẩm những khoản được coi là chi
phí nhưng thực tế chưa phát sinh hoặc những chi phí thực tế đã chi
ra nhưng được phân bổ cho nhiều kỳ, nhằm đảm bảo một sự ổn định
tương đối cho giá thành sản phẩm qua các thời kỳ.
1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá, giá
thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán
khác nhau, có nhiều cách phân loại giá thành khác nhau.
a) Theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành,
giá thành được chia làm ba loại:
Giá thành kế hoạch: là giá thành được xác định trước khi bước
vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định
mức, dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. Giá thành kế hoạch là mục
tiêu phấn đấu, là căn cứ để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện
kế hoạch giá thành, thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành, tăng lợi nhuận
của doanh nghiệp.
Giá thành định mức: được xác định trước khi bắt đầu sản xuất
sản phẩm. Trong khi giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở
các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ
15
kế hoạch thì giá thành định mức được xây dựng trên cơ sở các định
mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế
hoạch nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với các thay
đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất.
Giá thành thực tế. là chi tiêu được xác định sau khi kết thúc
quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong
quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế là chỉ tiêu tổng hợp
phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và
sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn trong việc vận dụng các giải pháp
về kinh tế, tổ chức, kỹ thuật, . . . để tiến hành quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, là căn cứ để nhà quản lý xem xét, định giá
bán sản phẩm và xác định nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước đồng
thời phân chia kết quả kinh doanh. Cách phân loại này có tác dụng
trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được nguyên nhân
vượt hay hụt định mức chi phí trong kỳ hạch toán từ đó để có biện
pháp điều chỉnh chi phí cho phù hợp.
b) Xét theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành
hai loại:
Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản
ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến sản xuất, chế tạo
sản phẩm trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất, bao gồm chi
phí vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn
bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm (chi phí sản xuất, quản lý và bán hàng). Giá thành tiêu thụ còn
được gọi là giá thành đầy đủ hay giá thành toàn bộ và được tính theo
công thức:
Giá thành
toàn bộ
=
Giá thành +
sản xuất sản
phẩm
Chi phí
+
quản lý
doanh Chi
nghiệp phí
tiêu
(1.
1)
thụ
sản
16
phẩ
m
1.2.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và gia thành sản
phẩm
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau vì quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất
bao gồm hai mặt: hao phí sản xuất và kết quả sản xuất. Cả chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm đều là biểu hiện bằng tiền của
những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế trong
đó chi phí sản xuất phản ánh hao phí sản xuất còn giá thành sản
phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Hơn nữa trong công tác hạch
toán kế toán, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm là hai công việc liên tiếp và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, sự tiết kiệm
hay lãng phí chi phí sản xuất có thể ảnh hưởng đến giá thành sản
phẩm. Đồng thời công tác tập hợp chi phí sản xuất chính xác, đầy
đủ, một cách khoa học và hợp lý sẽ làm tăng tính chính xác của
thông tin giá thành sản phẩm.
Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có
những điểm khác nhau. Về mặt thời gian, chi phí sản xuất gắn liền
với một thời kỳ nhất định còn giá thành sản phẩm liên quan đến
nhiều kỳ. Về mặt giá trị chi phí sản xuất bao gồm toàn bộ chi phí bỏ
ra trong kỳ sản xuất kinh doanh không tính đến việc chi phí đó có
liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành hay chưa trong
khi đó giá thành sản phẩm là chỉ tiêu luôn gắn với sản phẩm hoàn
thành, bao gồm những chi phí tính cho khối lượng sản phẩm hoàn
thành trong kỳ mà không tính đến chi phí đó phát sinh ở kỳ nào.
Ta có công thức thể hiện mối liên hệ giữa giá thành sản phẩm
và chi phí sản xuất như sau:
Tổng giá = Chi phí + Chi phí sản + Chi phí
thành sản
sản
xuất phát
sản xuất
phẩm
xuất dở
sinh trong kỳ
dở dang (1.2)
hoàn
dang
(đã trừ các
cuối kỳ
thành
khoản thu hồi
17
ghi giản chi
phí)
Như vậy, nếu giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng
nhau hay không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm
bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Nói một cách khác,
chi phí sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Chi
phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm. Nếu tiết kiệm chi
phí sản xuất thì sẽ hạ giá thành sản phẩm.
1.2.4. Các phương pháp tính giá thành
1.2.4.1. Phân biệt đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính
giá thành.
a) Đối tượng tập hợp chi phí: Đối tượng tập hợp chi phí sản
xuất là phạm vi, giới hạn mà chi phí sản xuất cần được tập hợp theo
nó. Thực chất là việc xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi
phí để cung cấp số liệu tính giá thành và phục vụ cho công tác quản
lý.
Nơi phát sinh chi phí: Phân xưởng, đội sản xuất, bộ phận chức
năng...
Nơi gánh chịu chi phí: Sản phẩm, công việc, lao vụ, công
trình, hạng mục công trình, đặt hàng...
Căn cứ vào đặc điểm tình hình cụ thể của doanh nghiệp và dựa
trên những căn cứ sau để xác định đúng đồi tượng tập hợp chi phí
sản xuất :
+ Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp: Có
phân xưởng, không có phân xưởng.
+ Căn cứ vào đặc điểm của quy trình công nghệ sản xuất sản
phẩm: sản xuất giản đơn, sản xuất phức tạp, quy trình công nghệ
liên tục...
b) Đối tượng tính giá thành: Đối tượng tính giá thành là
những sản phẩm, công việc lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành cần phải
tính tổng giá thành và giá thành đơn vị Tuỳ theo đặc điểm, tình hình
của doanh nghiệp mà đối tượng tính giá thành có thể là:
Từng công việc, đơn đặt hàng, sản phẩm đã hoàn thành.
Từng loại thành phẩm, bộ phận chi tiết sản phẩm.
Từng công trình, hạng mục công trình.
18
Như vậy, xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất chính là
việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi
phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Còn xác định đối tượng tính
giá thành chính là việc xác định sản phẩm, công việc, lao vụ nhất
định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng đó có thể là
sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây
chuyền sản xuất, tuỳ theo yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế mà
doanh nghiệp áp dụng.
1.2.4.2. Các phương pháp tính giá thành
a) Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản
đơn)
Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc
loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối
lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn như các nhà máy điện, nước, các
doanh nghiệp khai thác (quặng, than, gỗ...).
Giá thành sản phẩm được tính trực tiếp như sau:
Trường hợp cuối kỳ không có sản phẩm dở dang thì không phải tổ
chức đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ và khi đó:
Giá thành đơn vị
Sản phẩm hoàn thành
=
Tổng chi phí sản xuất
Số lượng sản phẩm hoàn
thành
(1.3)
Trường hợp cuối kỳ có nhiều sản phẩm dở dang và không ổn định
thì kế toán phải tổ chức đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ và khi đó:
Chi phí sản
Chi phí
Chi phí sản
xuất phát
sản xuất
xuất dở dang
+
sinh trong
dở dang
(1.4)
kỳ
đầu kỳ
cuối kỳ
Tổng giá thành sản xuất thực tế
(1.5)
Giá thành đơn vị
=
sản phẩm h
Khối lượng sản phẩm hoàn thành
b) Phương pháp tính giá thành
Phương pháp này áp dụng trong những doanh nghiệp thuộc
loại hình sản xuất phức tạp kiểu chế biến liên tục. Bán thành phẩm
của bước trước là đối tượng chế biến của bước sau và đến bước cuối
cùng mới tạo ra được thành phẩm. Để tính được giá thành của thành
Tổng giá
thành sản =
xuất thực tế
19
phẩm ta phải lần lượt tính giá thành của bán thành phẩm bước trước
tuần tự theo các bước kế tiếp sau và cuối cùng mới tính được giá
thành của thành phẩm.
Đối tượng hạch toán chi phí là từng bước của quy trình công
nghệ. Đối tượng tính giá thành có thể là bán thành phẩm từng bước
và thành phẩm ở bước cuối cùng, hoặc cũng có thể chỉ là thành
phẩm ở bước cuối cùng.
* Tính giá thành phân bước theo phương án có bán thành
phẩm:
Phương pháp này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có yêu
cầu hạch toán nội bộ cao hoặc có bán bán thành phẩm ra bên ngoài. Đặc
điểm của phương pháp này là khi tập hợp chi phí sản xuất của các giai
đoạn công nghệ, giá trị bán thành phẩm của các bước trước chuyển sang
bước sau được tính theo giá thành thực tế và được phản ánh theo từng
khoản mục chi phí và gọi là kết chuyển tuần tự.
Dở dang
đầu kỳ +
bước 1
Z bán
thành
phẩm
Bước 1
Chi phí
NVL
Chi phí
+ chế biến
Bước 1
+ Dở dang + Chi phí
đầu kỳ
chế biến
Bước 2
Bước 2
-
Dở
dang
đầu kỳ
Bước 1
Dở
dang
cuối kỳ
Bước 2
=
Z bán
thành
phẩm
Bước 1
=
Z
b
á
n
th
à
n
h
p
h
ẩ
m
B
ư
ớ
c
20
- Xem thêm -