A, MỞ ĐẦU
EU là một thị trường rộng lớn gồm 27 quốc gia thành viên, có
diện tích 4 triệu km2, dân số 456 triệu người, GDP gần 13.000 tỷ
USD (chiếm 27% toàn thế giới). Kim ngạch ngoại thương 1.400 tỷ
USD/năm (chiếm 20% toàn thế giới, nếu tính cả buôn bán nội khối
thì tổng kim ngạch mậu dịch lên tới 3.100 tỷ USD (chiếm 41,5%
toàn thế giới). XK dịch vụ chiếm 43,8% toàn thế giới, đầu tư ra
nước ngoài chiếm 47% và nhận đầu tư từ nước ngoài chiếm 20%
toàn thế giới.
Tháng 11/1990, Việt Nam và Cộng đồng châu Âu thiết lập quan
hệ ngoại giao. Ngày 17/7/1995, Việt Nam và Cộng đồng châu Âu
ký Hiệp định hợp tác. Tháng 1/1996, Ủy ban châu Âu (EC) lập Phái
đoàn đại diện thường trực và cử Đại sứ - Trưởng Phái đoàn tại Hà
Nội.
1
Đề án tổng thể quan hệ Việt Nam - EU: Ngày 14/6/2005, Chính
phủ đã phê duyệt Đề án Tổng thể quan hệ Việt Nam - Liên minh
châu Âu và Chương trình Hành động của Chính phủ về phát triển
quan hệ Việt Nam - Liên minh châu Âu đến 2010 và định hướng tới
2015. Việt Nam là nước đầu tiên ở Đông Nam Á chủ động có chiến
lược tổng thể về hợp tác với EU và EU là đối tác đầu tiên, duy nhất
mà Việt Nam có chiến lược phát triển quan hệ. Cho tới nay đã có 2
cuộc họp về triển khai Đề án giữa Lãnh đạo các Bộ, ngành của Việt
Nam với Đại sứ các nước EU tại Hà Nội.
Ngày 29/3/2007, Uỷ ban châu Âu đã thông qua Chiến lược Hợp
tác với Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2013 với ngân sách 304
triệu Euro. Nội dung hỗ trợ tập trung vào hai lĩnh vực chính: hỗ trợ
việc thực hiện Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội của Việt Nam
(SEDP) và hỗ trợ ngành y tế. Ngoài ra, các lĩnh vực cũng được đưa
2
vào nội dung Chiến lược hợp tác gồm: Trợ giúp liên quan đến
thương mại và Hỗ trợ đối thoại chiến lược EC - Việt Nam.
Tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (12/2006), EU
cam kết tài trợ 720 triệu Euro cho năm 2007, thể hiện mức cam kết
tiếp tục tăng cho Việt Nam.
Kể từ năm 1995 đến nay, quan hệ thương mại của Việt Nam với
các nước thành viên EU tăng trung bình 15-20%/năm. EU là đối tác
thương mại lớn nhất của Việt Nam, chiếm 17% tổng giao dịch
thương mại (sau đó là Mỹ: 14%; Nhật Bản: 13%; và Trung Quốc:
11%).
Năm 2006, Kim ngạch thương mại hai chiều tăng 22,2% đạt 9,9
tỷ USD (so với 8,2 tỷ USD năm 2005), trong đó xuất khẩu tăng
25% đạt 6,9 tỷ USD và nhập khẩu tăng 16% đạt 3 tỷ USD.
3
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam và thị
trường các nước Liên minh Châu Âu (EU) đạt 8,5 tỷ USD, tăng 0,6
tỷ USD so với năm 2006.
Cũng theo dự báo của Bộ Công Thương, trong năm 2008, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU sẽ đạt trên 10 tỷ USD, trong
đó các mặt hàng về nông-lâm-thủy sản cũng sẽ tăng mạnh về sản
lượng và giá trị. Thủy sản ước sẽ đạt khoảng 1,15 tỷ USD, cà phê là
hơn 800 triệu USD, đồ gỗ là 780 triệu USD.
Về việc Việt Nam gia nhập WTO: Nhân dịp Hội nghị ASEM 5,
Việt Nam và EU đã kết thúc đàm phán song phương về việc Việt
Nam gia nhập WTO. Nhân chuyến thăm EC (9/2006) của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng, Việt Nam và EC cũng đã tuyên bố kết
thúc đàm phán đa phương về việc Việt Nam gia nhập WTO. Đây là
những bước tiến mang tính chất đột phá, có tác động tích cực đến
4
đàm phán song phương của ta với các đối tác khác, đặc biệt trong
"giai đoạn nước rút" của Việt Nam trong quá trình hòa nhập một
cách đầy đủ vào cộng đồng thương mại quốc tế.
Thương mại Việt Nam – EU được đánh giá là rất “năng động”,
tổng kim ngạch hai chiều đạt 14,23 tỷ USD( năm 2007) (tăng
39,26%), vượt mức dự báo trước đó. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu
9,1 tỷ USD (tăng 28,2%) và nhập khẩu 5,14 tỷ USD (tăng 64,3%).
Trong các mặt hàng xuất khẩu vào thị trường khu vực EU, hàng
nông sản chiếm lượng rất lớn. Hầu hết các mặt hàng nông sản chủ
lực của Việt Nam như cà phê, hạt điều, hồ tiêu, thủy sản đều có vị
trí quan trọng trong tỉ trọng xuất khẩu vào thị trường các nước trong
khối EU.
Với 27 quốc gia thành viên, EU là một thị trường tiêu thụ hàng
hóa lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, đây cũng là một trong những thị
5
trường khó tính với nhiều tiêu chuẩn nghiêm ngặt và chặt chẽ được
lập ra áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu.
Đối với mỗi một mặt hàng, thị trường châu Âu đều có những tiêu
chuẩn áp dụng riêng, chẳng hạn như: mặt hàng rau quả tươi yêu cầu
đạt chứng chỉ chất lượng GAP, mặt hàng thủy sản phải đạt chứng
nhận chất lượng của Cục Quản lý an toàn vệ sinh và thú y thủy sản
(NAFIQUAVED) cấp, mặt hàng lâm sản, đồ gỗ khi xuất vào thị
trường châu Âu phải có chứng chỉ rừng FSC (Forest Stewardship
Council - Hội đồng Quản lí rừng Quốc tế).Cũng chính vì những quy
định này mà trong vụ cà phê 2005-2006, trong đợt kiểm tra tại 10
cảng khác nhau ở Châu Âu và trong số 1.485.750 bao cà phê bị loại
của 17 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu, có đến hơn 72% là cà phê
xuất xứ từ VN.
6
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là cần phải
nghiên cứu các quy định và tiêu chuẩn về môi trường của EU đối
với nhập khẩu hàng nông sản; xác định khả năng đáp ứng các yêu
cầu của EU về môi trường của hàng nông sản Việt Nam, từ đó đưa
ra những giải pháp đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường
đối với hai nhóm hàng này nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và
đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU.
Hơn nữa, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh
tế thế giới với việc thực thi các cam kết quốc tế về thương mại và
môi trường. Hội nhập với thương mại thế giới, Việt Nam sẽ có
nhiều thuận lợi trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, nhưng
cũng phải chấp nhận sự cạnh tranh hết sức gay gắt với các nước
khác. Một trở ngại đặt ra cho xuất khẩu của ta trong tương lai là khi
các hàng rào thương mại được bãi bỏ thì sức cạnh tranh của hàng
7
hoá Việt Nam trong buôn bán quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào việc
đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, đặc biệt là các tiêu chuẩn môi
trường. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì “hàng
rào xanh” trong buôn bán quốc tế như là một thách thức đối với
thương mại của ta trong tương lai. EU là một thị trường lớn và có
vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế, nhưng cũng là một
trong những thị trường có “hàng rào xanh” cao nhất thế giới. Nếu
chúng ta đáp ứng tốt các quy định về môi trường của EU, thì không
những hàng nông sản Việt Nam có thể xuất khẩu sang thị trường
này, mà còn có thể xuất khẩu sang các thị trường khác, thực hiện
được phương châm "đa dạng hoá thị trường xuất khẩu", bảo vệ môi
trường và góp phần thực hiện tốt các cam kết quốc tế về môi trường.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc thực hiện đề tài:
8
“Nghiên cứu một số các quy định và tiêu chuẩn môi trường
của EU ảnh hưởng đến việc xuất khẩu hàng nông sản của Việt
Nam”
là hết sức cần thiết và cấp bách.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu các quy định và tiêu chuẩn về môi trường của EU
đối với nhập khẩu hàng nông sản, kinh nghiệm của một số nước
trong việc đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường của EU
khi xuất khẩu hàng nông sản vào thị trường này.
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào
thị trường EU dưới tác động của các quy định môi trường của EU
và khả năng đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn môi trường của
hàng nông sản Việt Nam.
9
- Đề xuất các giải pháp đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi
trường của EU nhằm nâng cao sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất
khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường này.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng: Hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường EU.
Hàng nông sản trong đề tài này được hiểu theo nghĩa hẹp, tức
không bao hàm hàng lâm sản vì EU có quy định về môi trường
riêng đối với hàng lâm sản; còn hàng nông sản thì có quy định về
môi trường vì EU có quy định về môi trường đối với hàng thực
phẩm
- Phạm vi: Các quy định và tiêu chuẩn môi trường của EU đối
với nhập khẩu hàng nông sản và thực trạng xuất khẩu nhóm hàng
10
này của Việt Nam vào thị trường EU dưới tác động của các quy
định EU về môi trường.
Nội dung nghiên cứu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài chia làm ba phần
chính:
Phần thứ nhất: Giới thiệu một số quy định và tiêu chuẩn môi
trường của EU ảnh hưởng tới việc xuất khẩu nông sản của Việt
Nam
Phần thứ hai: Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi
trường của EU đối với một số mặt hàng nông sản Việt Nam
Phần thứ ba: Các giải pháp đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn
EU về môi trường đối với hàng nông sản của Việt Nam nhằm nâng
cao sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU
Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
11
- Tìm hiểu các quy định và tiêu chuẩn môi trường của EU đối
với nhập khẩu hàng nông sản.
- Khảo sát thực tế ở một số doanh nghiệp sản xuất và chế biến
hàng nông, thuỷ sản xuất khẩu sang EU về việc thực hiện các quy
định môi trường của EU.
- Thu thập tài liệu, số liệu về xuất khẩu hàng nông sản của Việt
Nam sang thị trường EU giai đoạn 2006 – 2008, và có sự so sánh
với số liệu các năm trước đó; Phân tích và tổng hợp tài liệu, số liệu.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong việc đáp ứng
các quy định môi trường của EU khi xuất khẩu hàng nông sản vào
thị trường này.
- Xin ý kiến chuyên gia.
- Viết báo cáo khoa học.
12
B. PHẦN THÂN
Chương I. GIỚI THIỆU MỘT SỐ QUY ĐỊNH VÀ TIÊU CHUẨN
MÔI TRƯỜNG CỦA EU ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC XUẤT KHẨU
NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM
I. Các quy định môi trường của EU ảnh hưởng tới việc xuất
khẩu nông sản của Việt Nam
1. Quy định về giám sát HACCP
HACCP (Hazarrd Analysis and Critical Control Point)
Định nghĩa: Hệ thống phân tích mối nguy hiểm và xác định
điểm kiểm soát trọng yếu là một hệ thống sản xuất và kiểm tra dựa
trên cơ sở khoa học nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm. Hệ thống
HACCP áp dụng đối với toàn bộ ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm trong EU, từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Quy định về
vệ sinh thực phẩm (93/43/EC) ghi rõ rằng: “các công ty thực phẩm
13
sẽ xác định từng khía cạnh trong các hoạt động của mình có liên
quan đến vấn đề an toàn thực phẩm và đảm bảo rằng các trình tự an
toàn đã được thiết lập, áp dụng, duy trì và tái xét trên cơ sở hệ thống
HACCP”
Hệ thống HACCP thường áp dụng đối với ngành chế biến
thực phẩm.Chỉ thị về vệ sinh thực phẩm của EU (93/43/EC có hiệu
lực vào tháng 11/1996 qui định "các công ty thực phẩm phải xác
định từng khía cạnh trong hoạt động của họ đều có liên quan tới an
toàn thực phẩm và việc đảm bảo thủ tục an toàn thực phẩm phải
được thiết lập, áp dụng, duy trì và sửa đổi trên cơ sở của hệ thống
HACCP.Tất cả các nhà chế biến thực phẩm của EU theo quy định
pháp luật phải áp dụng hệ thống HACCP hoặc là họ sẽ phải phối
hợp thực hiện một hệ thống HACCP. hệ thống HACCP có thể có
hiệu lực đối với các công ty chế biến, xử lý, bao bì, vận chuyển,
14
phân phối hay kinh doanh thực phẩm. Những công ty này bắt buộc
phải hiểu và phải chống lại các nguy cơ liên quan đến sản xuất thức
ăn ở mọi công đoạn, từ nuôi trồng, chế biến, sản xuất, phân phối đến
tiêu thụ. Đây là những rủi ro sinh học vĩ mô (súc vật), vi mô (vi rút
vi khuẩn, mốc), độc tố (phóng xạ hoá học với thuốc trừ sâu) hay vật
chất ( gỗ, kim loại, thuỷ tinh, nhựa, xơ)
Các định nghĩa liên quan:
Điểm kiểm soát tới hạn:Critical control point (CCP)
Một bước mà tại đó việc kiểm soát có thể áp dụng và phát triển
để ngăn ngừa hoặc loại trừ một mối nguy thực phẩm hoặc giảm nó
đến mức chấp nhận được. Một điều “ phải làm ”.
Điểm chất lượng tới hạn: Critical Quality point (CQP)
Một bước mà ở đó một mối nguy chất lượng, nghề nghiệp, môi
trường hoặc an toàn và sức khỏe nghề nghiệp có thể được ngăn
ngừa, loại trừ hoặc làm giảm xuống mức có thể chấp nhận được.
15
Một điều “ cần phải làm ”.
Giới hạn tới hạn:Critical limit (CL)
Một dung sai qui định (một đặc tính kỹ thuật) cho một phương
pháp kiểm soát mà nó không thể bị vượt quá nếu mối nguy được
kiểm soát tại bước quan trọng trong quá trình – các giới hạn của
kiểm soát.
việc kiểm soát tính nghiêm trọng của các mối nguy cho an toàn
thực phẩm trong dây chuyền chế biến thực phẩm.
Phân tích mối nguy
Quá trình thu thập và đánh giá các thông tin về các mối nguy và
các điều kiện đưa đến để họ quyết định điểm nào là mối nguy trầm
trọng cho an toàn thực phẩm và do đó phải xử lý theo kế hoạch
HACCP.
Các nguyên tắc:
16
Bảy nguyên tắc của HACCP
Nguyên tắc 1: Phân tích mối nguy và xác định các biện pháp
phòng ngừa
Mối nguy là các yếu tố hoặc tác nhân sinh học, hoá học và vật lý
có thể làm cho thực phẩm không an toàn khi sử dụng. Phân tích mối
nguy là bước cơ bản của hệ thống HACCP. Để thiết lập các biện
pháp phòng ngừa có hiệu quả các mối nguy về an toàn thực phẩm,
điều mấu chốt là phải xác định được tất cả các mối nguy đáng kể và
các biện pháp phòng ngừa chúng.
Để nhận biết được các mối nguy cụ thể ở mỗi công đoạn nhất
định (của quá trình chế biến) hoặc ở một trạng thái vật chất nhất
định (nguyên vật liệu, thành phần) chúng ta cần đánh giá mức độ
quan trọng của mối nguy đó để xác định xem đó có phải là mối
nguy hại đáng kể hay không. Việc này rất phức tạp, vì dễ có khả
17
năng đề xuất phải kiểm soát tất cả các mối nguy ảnh hưởng đến an
toàn thực phẩm. Nhưng thực ra HACCP chỉ tập trung vào các mối
nguy đáng kể hay xảy ra và có nhiều khả năng gây những rủi ro
không chấp nhận được cho sức khoẻ người tiêu dùng. Sau khi hoàn
tất việc đánh giá các mối nguy đáng kể thì phải tiến hành xác lập
các biện pháp kiểm soát cụ thể. Có thể dùng các biện pháp tổng hợp
để kiểm soát một mối nguy nhưng cũng có thể dùng một biện pháp
để kiểm soát nhiều mối nguy khác nhau. Khi xác định các biện pháp
kiểm soát cần lưu ý các mối nguy nào có thể kiểm soát được bằng
việc áp dụng chương trình tiên quyết thì ghi rõ kiểm soát bằng GMP
hay SSOP. Còn đối với các mối nguy không thể kiểm soát đầy đủ
tại cơ sở (như mối nguy đối với nguyên vật liệu) thì cần ghi rõ các
biện pháp kiểm soát và nơi thực hiện các biện pháp đó (nông trại,
nhà cung ứng...).
18
Nguyên tắc 2: Xác định các điểm kiểm soát tới hạn (CCP)
Điểm kiểm soát tới hạn là điểm, bước hoặc thủ tục tại đó có thể
tiến hành các biện pháp kiểm soát nhằm ngăn ngừa, loại trừ hoặc
giảm thiểu các mối nguy đáng kể về an toàn thực phẩm tới mức
chấp nhận được. Đối với mỗi mối nguy đáng kể đã được xác định
trong nguyên tắc 1 thì cần phải có một hay nhiều CCP để kiểm soát
các mối nguy đó. Các CCP là những điểm cụ thể trong quá trình sản
xuất mà ở đó diễn ra các hoạt động kiểm soát của chương trình
HACCP. Các CCP có thể thay đổi tuỳ theo sự khác nhau về bố trí
mặt bằng xí nghiệp, định dạng sản phẩm, quy trình công nghệ, loại
thiết bị sử dụng, nguyên vật liệu và các chương trình tiên quyết. Để
xác định các CCP trong suốt quá trình sản xuất của doanh nghiệp ta
có thể dùng “sơ đồ quyết định”. Nếu sử dụng đúng, “sơ đồ quyết
định” có thể trở thành công cụ hữu ích để xác định CCP. Tuy nhiên,
19
“sơ đồ quyết định” không thay thế được kiến thức chuyên gia, vì
nếu chỉ dựa hoàn toàn vào “sơ đồ quyết định” có thể dẫn tới những
kết luận sai.
Nguyên tắc 3: Thiết lập các ngưỡng tới hạn
Ngưỡng tới hạn là một chuẩn mực nhằm xác định ranh giới giữa
mức chấp nhận được và mức không thể chấp nhận. Mỗi CCP phải
có một hoặc nhiều giới hạn tới hạn cho mỗi mối nguy đáng kể. Khi
vi phạm giới hạn tới hạn, phải tiến hành hành động sửa chữa để đảm
bảo an toàn thực phẩm. Trong nhiều trường hợp, giới hạn tới hạn có
thể không rõ ràng hoặc không có, do vậy vẫn phải tiến hành thử
nghiệm hoặc thu thập thông tin từ các nguồn như các tài liệu khoa
học, các hướng dẫn, quy định của cơ quan có thẩm quyền, các
chuyên gia hoặc các nghiên cứu thực nghiệm. Nếu không có các
thông tin cần thiết để xác định ngưỡng tới hạn thì cần phải chọn trị
20
- Xem thêm -