Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu loại hình học tác gia văn học thiền sư qua thiền uyển tập anh...

Tài liệu Nghiên cứu loại hình học tác gia văn học thiền sư qua thiền uyển tập anh

.PDF
101
128
86

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi Tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi & nh©n v¨n ---------- PHẠM THỊ MINH THUẬN NGHIÊN CỨU LOẠI HÌNH HỌC TÁC GIA VĂN HỌC THIỀN SƯ QUA THIỀN UYỂN TẬP ANH LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hµ Néi - 2012 ®¹i häc quèc gia hµ néi Tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi & nh©n v¨n ---------- PHẠM THỊ MINH THUẬN NGHIÊN CỨU LOẠI HÌNH HỌC TÁC GIA VĂN HỌC THIỀN SƯ QUA THIỀN UYỂN TẬP ANH LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60.22.0121 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Kim Sơn Hµ Néi - 2012 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 1.Lý do chọn đề tài. .................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài ............................................................ 6 4. Đóng góp của luận văn ........................................................................... 6 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 7 6. Cấu trúc luận văn.................................................................................... 7 CHƯƠNG 1: THIỀN HỌC, THIỀN HỌC VÀ THIỀN GIA THỜI LÝ 8 1.1 Thiền học.......................................................................................... 8 1.1.1Phật học. ...................................................................................... 8 1.1.2 Phật giáo Việt Nam. .................................................................... 9 1.1.3 Thiền học và Thiền học Việt Nam .............................................. 13 1.2 Thiền học và Thiền sư thời Lý. .................................................... 16 1.2.1 Thiền học thời Lý. ...................................................................... 16 1.2.2 Thiền sư thời Lý. ....................................................................... 18 CHƯƠNG 2: THIỀN SƯ VÀ TU ĐẠO CẦU GIẢI THOÁT .............. 22 2.1 Tu đạo cầu giải thoát. .................................................................... 22 2.1.1Giải thoát luận ........................................................................... 22 2.1.2 Tu đạo Thiền tông ..................................................................... 24 2.2 Thiền sư tu đạo cầu giải thoát. ..................................................... 26 2.2.1 Thiền sư ra đời và thời niên thiếu .............................................. 26 2.2.2 Thiền sư tu đạo .......................................................................... 28 2.2.3 Thiền sư quy tịch. ...................................................................... 40 CHƯƠNG 3: THIỀN SƯ VÀ SÁNG TÁC VĂN HỌC ........................ 44 3.1 Thiền sư và tác gia Thiền sư ......................................................... 44 3.1.1 Về các khái niệm tác gia văn học, thi, kệ. .................................. 44 3.1.2 Phật học, Thiền học và văn học. ................................................ 48 3.1.3 Thiền sư không sáng tác văn học. .............................................. 51 3.1.4 Tác gia Thiền sư ........................................................................ 52 3.1.5 Khuynh hướng văn học thời Lý .................................................. 54 3.2 Tác gia Thiền sư và những bài thơ nhập thế. .............................. 56 3.2.1 Những bài thơ bàn quốc sự và ngoại giao ................................. 56 3.2.2 Những bài thơ về thiên nhiên và cuộc sống. .............................. 67 3.3 Tác gia Thiền sư và những bài thơ Thiền. ................................... 74 3.3.1Diện mạo thơ Thiền trong Thiền uyển tập anh............................ 74 3.3.2 Thơ Thiền của phái Vô Ngôn Thông và Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi. .................................................................................................... 75 3.4 Tác gia Thiền sư và hệ thống chủ điểm thơ Thiền trong Thiền uyển tập anh. ........................................................................................ 76 3.4.1 Quan hệ sinh - tử ....................................................................... 76 3.4.2 Quan hệ hữu - vô ....................................................................... 80 3.5 Tác gia Thiền sư và hệ thống ngôn từ nghệ thuật trong thơ Thiền.............................................................................................. 83 3.5.1Hệ thống từ ngữ.......................................................................... 83 3.5.2 Hệ thống Thiền ngữ ................................................................... 84 3.5.3 Điển cố, Phật tích ...................................................................... 85 KẾT LUẬN ............................................................................................. 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 90 MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài. Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ II, trong chiều dài mấy nghìn năm lịch sử ấy, dưới thời Lý - Trần, Phật giáo có thể nói là phát triển cực thịnh, chúng ta có Luy Lâu (vùng chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) cùng với Bành Thành và Lạc Dương của Trung Quốc được xem là ba trung tâm Phật giáo lớn nhất Đông Á bấy giờ. Đặc biệt trong hai thế kỷ nhà Lý cầm quyền Phật giáo giữ vị trí độc tôn và trở thành Quốc giáo. Không phủ nhận vai trò cuả các tôn giáo khác như Nho giáo, Đạo giáo với sự nghiệp xây dựng nhà nước phong kiến, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội thời Lý - Trần và lại càng không thể phủ nhận vai trò nhân tố nòng cốt trong đời sống tư tưởng văn hóa Lý - Trần của Phật giáo. Do là nhân tố nòng cốt trong đời sống văn hóa Lý - Trần, Phật giáo đương nhiên có ảnh hưởng lớn nhất tới nghệ thuật phản ánh, cả nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật tạo hình. Riêng đối với văn học nghệ thuật, dòng văn học Phật giáo mang bản sắc riêng là một bộ phận độc đáo trong lịch sử văn học dân tộc. Cho đến nay việc tìm hiểu, nghiên cứu văn học Phật giáo vẫn còn là thách thức bởi nó là một đối tượng nghiên cứu chứa nhiều ẩn số không dễ gì lý giải được. Trải qua bao công trình nghiên cứu, đến nay chúng ta vẫn chưa có được một bức tranh toàn cảnh về văn học Phật giáo trong nền văn học dân tộc. Thiền uyển tập anh là tập sách nói về các vị Thiền sư Việt Nam từ cuối thế kỉ thứ VI đến đầu thế kỉ thứ XIII. Ngoài việc là tài liệu cổ nhất về đạo Phật mà chúng ta hiện có Thiền uyển tập anh còn là “một tập chân dung các nhà Thiền học, với những phác họa đôi khi rất có cá tính, đã vượt khỏi mọi tiểu sử nhạt nhẽo mà đạt đến những chân dung văn học có giá trị…” (Nguyễn Huệ Chi). Giới nghiên cứu trong và ngoài nước đã có 1 những công trình tìm hiểu, nghiên cứu về Thiền uyển tập anh trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, triết lý và cả văn học. Trong lĩnh vực văn học nói riêng đã có nhiều bài báo, chuyên luận, luận văn, luận án… nghiên cứu Thiền uyển tập anh trên nhiều phương diện như văn bản học, loại hình tác phẩm, thơ văn của một số Thiền sư tiêu biểu… Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào trong số ấy xác lập địa vị cho các Thiền sư như là những tác gia văn học trong nền văn học dân tộc. Do đó khảo sát văn bản Thiền uyển tập anh chúng tôi mong muốn góp một cái nhìn đầy đủ hơn về đội ngũ tác gia Thiền sư qua luận văn : Nghiên cứu loại hình học tác gia văn học qua Thiền uyển tập anh. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Thiền uyển tập anh là “một trong những tài liệu xưa nhất của lịch sử Việt Nam còn lưu giữ được cho đến nay, tập sách nói về các vị Thiền sư Việt Nam từ cuối thế kỷ VI đến đầu thế kỷ XIII. Trong đó ghi lại tiểu sử của ba mươi tám vị Thiền sư thuộc phái Vô Ngôn Thông, hai mươi tám vị Thiền sư thuộc phái Tì Ni Đa Lưu Chi và danh sách của mười chín người thuộc Thiền phái Thảo Đường. Với vai trò là “nguồn tài liệu quý giá, minh định được những điều mà các sử quan và các bác học Việt Nam ở thế kỷ XVIII và XIX nói đến…” [13; tr21] như vậy, trải qua trên tám thế kỷ kể từ khi ra đời Thiền uyển tập anh đã được khảo sát, nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực như: sử học, văn học, triết học, văn hóa dân gian… Riêng trong lĩnh vực văn học, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về Thiền uyển tập anh được công bố: Có thể nói công trình nghiên cứu đồ sộ nhất trong lĩnh vực văn học hiện nay về Thiền uyển tập anh là chuyên luận Loại hình tác phẩm - Thiền uyển tập anh (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002) của PGS. TS Nguyễn Hữu Sơn, trong đó chuyên luận “…tập trung tìm hiểu cấu trúc văn bản, 2 phân tích các thành tố nội dung và nghệ thuật, các phương thức tư duy và motif tương đồng ở từng tiểu truyện Thiền sư, từ đó xác định những đặc điểm về loại hình tác phẩm.” [42; tr16]. Sau đó là một số đầu sách của TS. Nguyễn Phạm Hùng như: Văn học Lý - Trần, nhìn từ thể loại (NXB Giáo dục, Hà Nội, 1996); Thơ Thiền Việt Nam - Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1998); Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1999); Các khuynh hướng văn học thời Lý - Trần (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2008)… và hàng loạt bài báo như Thơ Thiền và việc lĩnh hội thơ Thiền đời Lý (TCVH, số 4, 1992); Vài nét về khuynh hướng văn học Thiền thời Lý (Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2, 2006)… đã tập trung khảo sát, nghiên cứu thể tài ngữ lục và ngôn ngữ văn học của Thiền uyển tập anh. Đồng thời phân chia các khuynh hướng văn học thời Lý - Trần và tuyển tập, nghiên cứu nhằm xác định đặc điểm chung của thơ Thiền Việt Nam cũng như giới thiệu, phác họa chân dung các tác gia Thiền sư tiêu biểu, trong số đó có các vị Thiền sư đã được ghi chép trong Thiền uyển tập anh như: Thiền sư Mãn Giác, Thiền sư Viên Chiếu, Thiền sư Dương Không Lộ… Tiếp theo là những công trình nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Công Lý như: Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền thời Lý - Trần, chuyên luận (NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997); Văn học Phật giáo thời Lý - Trần: Diện mạo và đặc điểm (NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, 2002) và một số bài báo như: Về thuyết “Tâm Pháp nhất như” của thiền sư Cứu Chỉ (Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 3,1997); Sự quân bình giữa Tâm và Trí trong Thiền học thời Lý - Trần qua thuyết “Tam ban” của Ngộ Ấn thiền sư (Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 4, 1997); Mối quan hệ giữa Phật giáo với Văn học (Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 4, 1998); Mấy đặc điểm văn học 3 Lý - Trần (Tạp chí Hán Nôm, số 2, 2001); Tinh thần dung hợp Phật Lão Nho trong văn học Phật giáo thời Lý - Trần (Tạp chí Hán Nôm, số 2, 2002); Mấy ý kiến về vấn đề bản thể luận trong văn học Phật giáo (Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 5, 2002); Mấy ý kiến về vấn đề giải thoát luận trong văn học Phật giáo (Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 6, 2002); Mấy nét đặc sắc về nghệ thuật văn học Phật giáo (Tạp chí Hán Nôm, số 2, 2004)… đã góp phần nêu lên diện mạo và đặc điểm của nền văn học Phật giáo thời Lý - Trần, trong đó ít nhiều nhắc tới một số tác giả Thiền sư và tác phẩm thơ Thiền của họ được ghi lại ở Thiền uyển tập anh. Lê Văn Siêu với công trình Văn học sử Việt Nam [39] đã nêu lên nội dung và hình thức nghệ thuật của thi ca thời Lý; đồng thời cũng đề cập và phân tích một số bài thi - kệ nổi tiếng của một vài Thiền sư trong Thiền uyển tập anh. Thích Thanh Từ với cuốn sách Thiền sư Việt Nam [72] đã trình bày khá đầy đủ những tiểu truyện và thi - kệ của các vị Thiền sư của ba dòng Thiền Việt Nam. Nhưng theo tinh thần dịch và liệt kê các vị Thiền sư là chủ yếu. Trong Thơ văn Lý - Trần [63] Tập I, các tác giả của Viện Văn học đã trình bày tiểu sử và thơ văn của một số vị Thiền sư trong Thiền uyển tập anh trên tinh thần chọn lọc những tác gia, tác phẩm tiêu biểu nhất. Ngoài ra, hai cuốn sách Việt Nam văn học - Văn học thời Lý của Ngô Tất Tố và Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi cùng các bộ sách chuyên khảo và giáo trình văn học sử dành cho sinh viên Đại học như: Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, quyển III và Văn học Việt Nam (Thế kỉ X nửa đầu thế kỉ XVIII), Thơ văn Lý - Trần… đã đưa ra cái nhìn khái quát về nền văn học trung đại nói chung, văn học Phật giáo nói riêng, về một số tác 4 giả, tác phẩm thời Lý - Trần, trong đó có cả các Thiền sư có mặt trong Thiền uyển tập anh. Cuối cùng là những bài viết trên Tạp chí Văn học, Tạp chí Nghiên cứu Phật học của các tác giả: Bùi Văn Nguyên, Kiều Thu Hoạch, Nguyễn Đổng Chi, Phạm Ngọc Lan, Trần Thị Băng Thanh… phần nào đề cập đến một số tác gia Thiền sư tiêu biểu trong số các vị Thiền sư của Thiền uyển tập anh và phân tích, đánh giá một vài tác phẩm của họ như các bài báo: Về mấy câu thơ đối đáp giữa sư Thuận và sứ nhà Tống Lý Giác (Bùi Văn Nguyên, TC NCVH, số 6, 1963); Tìm hiểu thơ văn của các nhà sư Lý Trần (Kiều Thu Hoạch, TCVH, số 6, 1965); Các yếu tố Phật, Nho, Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như nào trong đời sống tư tưởng và văn học Lý - Trần (Nguyễn Huệ Chi, TCVH, số 6, 1978); Nghĩ về văn học thời Lý (Nguyễn Huệ Chi, TCVH, số 6, 1986); Mãn Giác và bài thơ Thiền nổi tiếng của ông (Nguyễn Huệ Chi, TCVH, số 5, 1987); Chất trữ tình trong thơ Thiền thời Lý (Phạm Ngọc Lan, TCVH, số 4, 1986); Một vài tìm tòi bước đầu về văn bản “Thơ văn Lý - Trần”(Trần Thị Băng Thanh, TCVH, số 5, 1972);… Như đã kể trên, ta có thể thấy riêng lĩnh vực văn học đã có không ít những công trình, tác phẩm khảo sát, nghiên cứu Thiền uyển tập anh ở nhiều góc độ và mức độ khác nhau như: loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh, tác gia - tác phẩm tiêu biểu trong Thiền uyển tập anh… Những công trình nghiên cứu về tác gia Thiền sư trong Thiền uyển tập anh kể trên đã phác họa được những chân dung văn học khá rõ nét về một số các tác gia Thiền sư tiêu biểu của thời Lý như: Thiền sư Pháp Thuận, Thiền sư Mãn Giác, Thiền sư Viên Chiếu, Thiền sư Dương Không Lộ… Tuy nhiên trong số những công trình ấy chưa có một công trình nào tập trung khảo sát, nghiên cứu Thiền uyển tập anh nhằm xác lập địa vị cho các Thiền sư trong 5 Thiền uyển tập anh như một loại hình tác gia văn học: loại hình tác gia Thiền sư. Vì vậy chúng tôi thấy rằng, khảo sát Thiền uyển tập anh - tập sách không chỉ lưu giữ tiểu sử của các vị Thiền sư thời Lý mà còn lưu giữ bộ sưu tập lớn nhất thơ văn từ thời Lý trở về trước với bảy mươi bảy bài thơ, kệ và chín mươi tám đoạn thơ của các tác gia Thiền sư nhằm tôn vinh họ là một loại hình tác gia văn học của văn học Việt Nam là một việc làm cần thiết và cấp bách. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Luận văn chủ yếu khảo sát, nghiên cứu Thiền uyển tập anh - bản dịch của Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga nhằm: - Nhận diện và xác lập địa vị cho các Thiền sư với tư cách là một loại hình tác gia văn học của nền văn học Việt Nam. - Đánh giá những đóng góp của các Thiền sư với nền văn học dân tộc và giới thiệu những tác gia Thiền sư tiêu biểu trong số đó. 4. Đóng góp của luận văn Khác với những nghiên cứu trước đó về Thiền uyển tập anh, luận văn này của chúng tôi chủ yếu đi sâu miêu tả, phân tích, đánh giá đội ngũ tác gia Thiền sư dưới các phương diện tiêu biểu như: hệ tư tưởng, khuynh hướng ứng xử, quan điểm thẩm mỹ, xu hướng nghệ thuật… và mối quan hệ giữa thân phận chính trị xã hội, định hướng ứng xử, công việc tu hành, đặc điểm đời sống tinh thần nội tại của họ với tác phẩm thi ca mà họ sáng tác ra nhằm mục đích cuối cùng là xác lập địa vị là một loại hình tác gia văn học đầu tiên trong nền văn học nước nhà cho họ: loại hình tác gia văn học Thiền sư. 6 5. Phương pháp nghiên cứu -Phương pháp nghiên cứu loại hình học. -Phương pháp nghiên cứu thi pháp học. -Phương pháp nghiên cứu liên ngành. -Phương pháp phân tích văn bản. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung Luận văn sẽ được triển khai với cấu trúc gồm 3 chương như sau: Chương 1: Thiền học, Thiền học và Thiền gia thời Lý. Chương 2: Thiền sư và tu đạo cầu giải thoát. Chương 3: Thiền sư và sáng tác văn học. 7 CHƯƠNG 1: THIỀN HỌC, THIỀN HỌC VÀ THIỀN GIA THỜI LÝ Phật giáo là một trong số những học thuyết lớn của nhân loại, ra đời và truyền vào Việt Nam sớm nhất. Dưới thời Lý, Phật giáo không chỉ có ảnh hướng lớn trong đời sống tâm linh, đời sống văn hóa của dân tộc mà còn chi phối đến chính trị, xã hội… Vì vậy chúng tôi muốn dành chương đầu tiên của luận văn để đưa ra những đặc điểm cơ bản nhất của Phật học, Thiền học và Thiền sư dưới triều Lý. 1.1 Thiền học. 1.1.1Phật học. Phật giáo là trào lưu tôn giáo triết học xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN. Người sáng lập là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tất Đạt Đa (Siddhattha), họ là Cù Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt Đa là thái tử của vua Tịnh Phạn, một nước nhỏ nằm ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất Nepan). Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của ba phạm trù: Vô ngã, Vô thường và Duyên. Thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học Phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên hệ, vận động, biến đổi không ngừng. Nguyên nhân của sự vận động, biến đổi nằm chính trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn mộc mạc chất phác nhưng rất đáng trân trọng. Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ diệu đế” (Tứ thánh đế - Catvary Arya Satya) tức là bốn 8 chân lý tuyệt diệu đòi hỏi mọi người phải nhận thức được nếu muốn giải thoát: Khổ đế, Nhân đế (tập đế), Diệt đế và Đạo đế. Vấn đề nhân sinh quan là vấn đề trọng tâm của đạo Phật. Mục đích cuối cùng mà đạo Phật hướng tới vẫn là giải thoát con người khỏi nỗi đau khổ. Vì vậy mà đạo Phật đã xây dựng cả một hệ thống triết lý về nỗi đau khổ con người: từ việc chỉ ra những nỗi đau khổ trong đời con người, đến căn nguyên của nó rồi quan trọng nhất là con đường chuyển mê thành ngộ để giải thoát những nỗi khổ mà không ai tránh khỏi ấy. Như vậy, Phật giáo nguyên thủy có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng khi nhìn nhận về thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghĩ thiện và làm việc thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên triết lý nhân sinh và con đường giải phóng của Phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về xã hội. 1.1.2 Phật giáo Việt Nam. Không bao lâu khi Phật giáo ra đời, nó được truyền vào đất Việt nhờ sự nỗ lực hoạt động truyền giáo của các tăng sĩ Ấn Độ, Luy Lâu - thủ phủ của Giao Chỉ lúc bấy giờ đã trở thành một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất trong vùng. Tại đây, với những sinh hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Đà La (người Ấn Độ đến Luy Lâu khoảng năm 168 - 168) đã xuất hiện một mô hình Phật giáo Việt Nam hóa đầu tiên qua hình tượng Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu (hình tượng Phật Nữ). Một chứng liệu lịch sử quan trọng khẳng định Phật Giáo Việt Nam đã bắt rễ sớm ở Giao Châu là sự việc ngài Mâu Bác (sinh cuối thế kỷ II, người Trung Quốc trước theo Lão giáo, về sau cư ngụ tại Giao Chỉ, theo học đạo Phật ở đây và trở thành một Phật tử rất thuần thành) theo mẹ từ Trung Quốc sang Giao Châu khi ngài còn rất trẻ, rồi lớn lên, tại đây ngài đã viết bài “Lý hoặc Luận” và dịch một số kinh sách, chứng tỏ ngài đã học Phật giáo tại Giao 9 Châu và như thế Phật giáo Giao Châu đã phát triển khá mạnh, ít nhất là vào nửa đầu thế kỷ III. Sang thế kỷ III, có ba nhà truyền giáo nước ngoài đến hoằng Pháp tại Giao Châu là các vị Khương Tăng Hội (gốc người Sogdiane, Khương Cư); Chi Cương Lương Tiếp (người Nhục Chi) và Ma Ha Kỳ Vực (người Ấn Độ). Đến thế kỷ thứ V, có hai Thiền sư xuất hiện là Đạt Ma Đề Bà (Oharmadeva) và Huệ Thắng (người Việt). Thiền sư Đạt Ma Đề Bà là người Ấn Độ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ V để giảng dạy về phương pháp Thiền học. Thiền sư Huệ Thắng người địa phương là một trong những học trò của ông. Sau một nghìn năm Bắc thuộc, năm 905 (thế kỷ X) Giao Châu chính thức độc lập. Năm 968 Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua, lập ra nhà Đinh, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, mở ra thời kì độc lập và thống nhất phát triển lâu dài trong lịch sử Việt Nam. Đạo Phật thời này cũng không là ngoại lệ, đã phát triển đến đỉnh cao và tham dự vào nhiều sự kiện hệ trọng của đất nước. Khởi đầu là việc vua Đinh Tiên Hoàng lập ra chức tăng thống người đứng đầu phật giáo của đất nước trong lịch sử. Nhà Lý ra đời đã đưa đạo Phật lên hàng Quốc đạo, nhiều triều vua nối tiếp nhau đã thực hiện rất nhiều Phật sự, không chỉ góp phần phát triển việc tu học mà còn qua đó phát triển một nền văn hóa riêng của Đại Việt khác biệt với Trung Hoa. Phật giáo Đại thừa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông. Thiền tông (còn có tên gọi là Zen hay Ch'an) là một tông phái Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma (Boddidharma) sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ IV. "Thiền" là cách gọi tắt của "Thiền na" 10 (Dhyana), có nghĩa là "Tĩnh tâm", chủ trương tập trung trí tuệ để quán định (Thiền) nhằm đạt đến chân lý giác ngộ của đạo Phật. Theo Thiền tông, "Thiền" không phải là "suy nghĩ" vì suy nghĩ là "tâm vọng tưởng", làm phân tâm và mầm mống của sinh tử luân hồi. Cách tu theo Thiền tông đòi hỏi phải tập trung toàn bộ công sức và thời gian cộng với phải có khả năng đốn ngộ. Yêu cầu đó chỉ có những kẻ căn cơ cao mới có được nên người tu Thiền thì nhiều nhưng người chứng ngộ quả thật rất là hiếm hoi. Tuy nhiên lịch sử Thiền tông ở Việt Nam cũng có một lịch sử rõ ràng hơn cả. Tịnh Độ tông hình thành khá sớm ở Trung Quốc, Phật phái này thờ A Di Đà (Amitabha) - vị Phật ngự trị ở Tịnh Độ (Sukavati) tức cõi Tây phương cực lạc. Đi theo Phật A Di Đà còn có các Bồ Tát, Quan Thế Âm (Avalokitesvara) và Đại Thế Chí (Mahāsthāmaprāptā). Kinh Ban chu tam muội (Pratyutpanna sammukhavasthita samadhi sūtra) là kinh nói về sự tưởng niệm đức Phật A Di Đà đã được Lokaksema dịch ra chữ Hán từ thời Đông Hán. Nhưng phái Tịnh Độ thường được coi là thành lập với nhà sư Huệ Viễn thời Đông Tấn. Năm 402 Huệ Viễn đã cùng với 123 đồ đệ làm lễ rước tượng A Di Đà thề nguyện rằng ai đến cõi Tây phương cực lạc trước thì phải cố gắng cứu độ người khác. Tịnh Độ tông cho rằng chỉ cần niệm tên Phật A Di Đà là có thể đến Tây phương cực lạc. Cho nên phái này còn có tên là Niệm Phật. Sau khi hình thành, Tịnh Độ tông đã phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc và lan sang các nước khác. Tịnh Độ tông chủ trương tu dựa trên tha lực của Phật A Di Đà. Tha lực này rất quan trọng đối với căn cơ con người thời nay. Việc tu hành được mở rộng ra những hành động đơn giản như đi thăm chùa, tụng danh Phật A Di Đà. Nhờ cách như vậy mà Tịnh Độ tông là tông phái phổ biến khắp cõi Việt Nam. Đi đến đâu ta cũng gặp người dân tụng niệm câu "Nam mô A Di Đà Phật" (có nghĩa là "Nguyện quy theo Đức Phật A Di Đà"). 11 Tượng Phật A Di Đà là tượng có mặt ở khắp mọi nơi và có mặt từ rất lâu đời. Mật tông là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép tu tụng niệm các mật chú để đạt đến chân lý giác ngộ. Cũng còn gọi là Lạt Ma tông, Mật tông là sự hợp nhất giới luật của thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) và nghi thức phụng hành của Kim Cương thừa. Khi vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa lẫn vào dòng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma, chữa bệnh... Khi được truyền vào Việt Nam Phật giáo đã được các vị sư người Việt bản địa hóa, khiến nó hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị sư có vị trí quan trọng trong các triều đại đó. Phật giáo Việt Nam có những đặc điểm khác biệt như sau: Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống: người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất. Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo: các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát. Các chùa miền Nam còn có xu hướng kết hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng còn có áo nâu, áo lam. 12 Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác: Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích). Tính chất hài hòa linh hoạt: Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà nhà Phật thường gọi là "tùy duyên bất biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản của nhà Phật. Ví dụ: Các vị Bồ tát, các vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật hay Bụt, Phật Bà Quan Âm, Phật Di Lặc (vốn là bồ tát)… Ngoài ra hình tượng và tôn hiệu Phật ở Việt Nam có khi mang tính cách hiền hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca Tuyết Sơn),... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt Nam. 1.1.3 Thiền học và Thiền học Việt Nam Như chúng tôi đã nói rõ ở trên, Phật giáo truyền vào Việt Nam hình thành và phát triển nhiều Phật phái, tuy nhiên do luận văn của chúng tôi lựa chọn khảo sát Thiền uyển tập anh - tập sách “nói về các vị Thiền sư” cho nên chúng tôi đặc biệt chú trọng tìm hiểu về Phật phái Thiền tông. THIỀN là nói tắt, nói đủ chữ là THIỀN NA, phiên âm theo Ấn ngữ Dhyana hoặc Jhana; nguồn gốc ấy đủ chứng tỏ Thiền có nhiều liên quan đến phương pháp tu luyện cổ truyền ấy có từ thưở ban sơ của Phật giáo, hơn nữa, có lẽ từ thưở khởi nguyên của văn hóa Ấn Độ. Dhyana thường được dịch là tịnh lự và đại khái có nghĩa là trầm tư về một chân lý, triết hoặc đạo, đến chỗ triệt ngộ và in sâu trong nội thức. Tu Thiền cần tìm đến chỗ thanh vắng, xa cảnh náo nhiệt và loạn động của thế gian. Văn học Ấn 13 Độ dẫy đầy những đoạn văn ngụ ý ấy; và câu nói “tìm đến chỗ vắng, trụ tâm ngồi tịnh” là câu nói gặp khắp cùng trong các bộ kinh A Hàm. [83; tr 69] Thiền đầu - sơ Thiền - là do công phu tập trung tư tưởng vào một vật duy nhất kỳ cho đến trong tâm mờ nhạt hết tham dục mà chỉ còn lại cảm giác hỉ lạc. Nhưng trí thức còn hoạt động, nên sự phán đoán và suy đoán còn tác động vào đối tượng của sự quán tưởng. Khi tất cả động tác ấy hoàn toàn lắng đứng và tâm an trụ ở một điểm, đó là chứng Thiền thứ hai - nhị Thiền - trong ấy vẫn còn cảm giác hỉ lạc. Ở Thiền thứ ba - tam Thiền - tâm càng thâm quán càng thanh tịnh, nhưng những hoạt động vi tế nhất của tâm vẫn chưa xả trừ hết, đồng thời niềm hỉ lạc vẫn còn nguyên. Khi Thiền thứ tư, tột bực - tứ Thiền - chứng đến thì cả đến hỉ lạc cũng dứt tuyệt, và đó là trạng thái tuyệt đối thanh tịnh của tâm đi vào đại định. Tất cả yếu tố về cảm giác và thức giác khuấy động sự thanh tịnh của tâm đều lần lượt được điều chế, và tâm, tự tịnh tự định, hoàn toàn thu nhiếp trong tam muội. Đó là chứng đến cảnh giới tuyệt đối quân bình giữa chỉ (samatha) và quán (vipasayana), nghĩa là giữa Thiền và định. [83; tr247] Thực hành công án là một hình thức sinh hoạt tôn giáo rất đặc thù của Thiền tông Phật giáo. Thiền, dù là đốn ngộ hay tiệm ngộ, thì cốt tủy của nó vẫn là Ngộ. Tu công án là một phương thức thực hành gắn liền với sự kiện chứng ngộ của các Thiền sư. Điều hiển nhiên là các tổ sư Thiền Trung Hoa trước khi tạo ra một nền công án độc đáo vô song thì họ cũng đã tìm thấy nhiều phương thức chứng ngộ, những phương cách mà Suzuki gọi là “trang bị tâm lý trước thời đại công án”. Thời sơ khởi của Phật giáo Trung Hoa, hình thức hỏi đáp, nói nghịch, im lặng, hành động khó hiểu… của các thiền sư đều ít nhiều liên quan đến hình thức công án sau này. 14 Từ yêu cầu chuẩn bị một nền tảng trí năng và trực giác để có thể đón bắt sự ngộ đạo bất kỳ lúc nào, các thiền sư Trung Hoa từ sau thời Huệ Năng (khoảng thế kỷ IX) đã “phát minh” ra hệ thống tu tập thông qua công án. “Công án nhằm phổ thông hóa Thiền, đồng thời trở thành phương tiện duy trì kinh nghiệm Thiền” [84; tr126]. Công án có thể được hình dung như những phát ngôn và hành xử của thiền sư dành cho đệ tử tu tập, với chủ đích khơi mở tâm lý Thiền, cơ duyên Thiền và chuẩn bị trực tiếp cho con đường Ngộ đạo của các Thiền sinh sơ cơ ấy. Mục tiêu đặc biệt của công án là chặn đứng dòng chảy suy nghĩ lý trí và làm chín muồi ý thức Thiền, tiếp cận trạng thái chứng ngộ càng gần càng tốt. Đó là “sự khẩn trương tinh thần” trong tình trạng “khổ cầu” mà Suzuki đã nói đến trong Thiền luận. Tu Thiền đòi hỏi hành giả phải có nhiều công phu và khả năng trí tuệ, do vậy chỉ phổ biến ở tầng lớp trí thức và giới thượng lưu. Ở Việt Nam tồn tại những dòng Thiền chính như sau: *Dòng Thiền thứ nhất được tổ Tì Ni Đa Lưu Chi sáng lập khoảng năm 580. Dòng Thiền này truyền được 19 thế hệ. *Dòng Thiền thứ hai là Thiền phái Vô Ngôn Thông do Thiền sư Vô Ngôn Thông người Trung Hoa sáng lập tại chùa Kiến Sơ năm 820. Đây là Thiền phái chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Hoa sâu đậm tuy nhiên vẫn gần gũi với người dân Việt. Thiền phái này truyền được 17 thế hệ. *Dòng Thiền thứ ba là Thiền phái Thảo Đường do Thiền sư Thảo Đường người Trung Hoa sáng lập. Thiền phái này có khuynh hướng Thiền tông trí thức và văn chương do đó khó cắm rễ trong quần chúng nhân dân mà chỉ ảnh hưởng tới một số trí thức và vua quan có khuynh hướng văn học. Dòng này truyến đến 6 thế hệ. *Dòng Thiền thứ tư đó là Thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập. Đây là Thiền phái đầu tiên của Việt Nam và nó còn có công 15 thống nhất được các Thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối. Sau thời đại Lý - Trần các dòng Thiền Việt Nam dường như bị lu mờ và mai một dần. Đến cuối thế kỉ XX Thiền tông mới được Thiền sư Thích Thanh Từ phục hưng. 1.2 Thiền học và Thiền sư thời Lý. 1.2.1 Thiền học thời Lý. Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) là phái Thiền lấy tên vị Thiền sư Ấn Độ. Đây là dòng Thiền đầu tiên ở Việt Nam. Dòng Thiền này chú trọng việc tu luyện Thiền định để khai thác trí tuệ Bát nhã (trực giác nội quán) và các nội năng kỳ diệu trên cơ sở thuyết tính không của Trung quán luận. Thiền phái này chủ trương tư duy siêu việt ngôn ngữ, với “tinh thần không chấp trước,… vô trú nghĩa là không chấp có cũng không chấp không, không trú ở có, cũng không trú ở không… cảnh giới của Thiền định siêu việt ngôn ngữ văn tự và tư duy khái niệm”. Các Thiền sư Việt Nam thuộc các thế hệ sau của phái này đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng đó. Điển hình là vua Lý Thái Tông (thế hệ thứ 7), Đạo Hạnh (thế hệ 12) và Huệ Sinh (thế hệ 13) đều đề cao quan điểm về nhận thức này. Vô Ngôn Thông là phái Thiền thứ hai vào Việt Nam, lấy pháp hiệu của một Thiền sư Trung Quốc. Tư tưởng cơ bản của Thiền phái này là tu luyện Thiền định để đạt tới cảnh giới vô niệm, vô ngôn. Đó là “một thế giới nội tâm hoàn toàn vắng lặng, khi dòng suy nghĩ miên man, liên tục, lộn xộn của tâm thức được chấm dứt. Khi ấy, trí tuệ vốn có của con người bừng sáng, thực tại sẽ hiển lộ rõ ràng trước mắt. Đó chính là sự giác ngộ và giải thoát. Đó chính là Niết Bàn”. Các thế hệ sau của dòng Thiền Vô Ngôn Thông, như Cảm Thành (tổ thứ 2) và Thiện Hội (tổ thứ 3), … tiếp tục khẳng định rằng, “chân lý không phải ở đâu xa, mà ở ngay hiện tiền, ở 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan