Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu khả năng tính toán chỉ tiêu gdp xanh ở việt nam...

Tài liệu Nghiên cứu khả năng tính toán chỉ tiêu gdp xanh ở việt nam

.PDF
27
29
97

Mô tả:

ĐỀ TÀI KHOA HỌC SỐ: 2.2.11-CS06 NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TÍNH TOÁN CHỈ TIÊU GDP XANH Ở VIỆT NAM 1. Cấp đề tài : Cơ sở 2. Thời gian nghiên cứu : 2006 3. Đơn vị chủ trì : Viện Khoa học Thống kê 4. Đơn vị quản lý : Viện Khoa học Thống kê 5. Chủ nhiệm đề tài : CN. Đinh Thị Thúy Phƣơng 6. Những ngƣời phối hợp nghiên cứu: CN. Phạm Thị Ngọc Yến; CN. Vũ Văn Tuấn; CN. Nguyễn Thị Hƣơng; CN. Tăng Thanh Hoà. 7. Điểm đánh giá nghiệm thu đề tài: 9,05 / Xếp loại: Giỏi 245 PHẦN I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHƢƠNG PHÁP TÍNH CHỈ TIÊU GDP XANH 1. Khái niệm GDP xanh GDP xanh là phần còn lại của GDP thuần sau khi đã khấu trừ chi phí về tiêu dùng tài nguyên và mất mát về môi trƣờng do các hoạt động kinh tế. Chỉ tiêu GDP xanh ra đời với mục đích chính để đánh giá chi phí của thiệt hại môi trƣờng với tiêu thụ và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên đến GDP thuần. Nhƣ vậy chỉ tiêu GDP xanh sẽ phản ánh đƣợc thực chất phát triển kinh tế của một đất nƣớc trên cả ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Chỉ tiêu này không những phản ánh tăng trƣởng về số lƣợng mà còn phản ánh cả chất lƣợng tăng trƣởng, đây là điều quan tâm của mọi quốc gia trên thế giới. 2. Phƣơng pháp tính chỉ tiêu GDP xanh Việc tính toán chỉ tiêu GDP xanh hay nói cụ thể hơn là hạch toán môi trƣờng trong tài khoản quốc gia, đây chính là bƣớc hoàn thiện tài khoản quốc gia của Liên hợp quốc, do vậy phƣơng pháp tính chỉ tiêu GDP xanh đƣợc xem xét trên cơ sở của phƣơng pháp tính chỉ tiêu GDP trong hệ thống tài khoản quốc gia. Theo thống kê Liên hợp quốc, tính chỉ tiêu GDP xanh có thể xuất phát từ bảng I/O hoặc theo cách hạch toán môi trƣờng. 2.1. Phương pháp tính GDP trong Hệ thống Tài khoản Quốc gia Trong Hệ thống tài khoản quốc gia, các tài khoản chủ yếu đƣợc tính toán/hạch toán dựa theo đẳng thức sau (4): * Đẳng thức về nguồn - sử dụng, được thể hiện như sau: O + M = IC + C + CF + X Trong đó: O: Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ sản xuất ra; M: Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ; IC: Tiêu dùng trung gian; C: Tiêu dùng cuối cùng; CF: Tổng tích luỹ tài sản; X: Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. (4) Nguồn: Bartelmus P. and Tongeren J., “Enviromental Accounting: An Operational Perspective”, 1994, trang.4 246 * Đẳng thức về gia tăng đối với một ngành kinh tế, được thể hiện như sau: NVAi = Oi - IIi - CCi Trong đó: NVAi: Giá trị gia tăng thuần ngành i; Oi: Giá trị sản phẩm vật chất, dịch vụ ngành i sản xuất ra; IIi: Chi phí trung gian của ngành i; CCi: Tiêu dùng tài sản cố định của ngành i; * Đẳng thức về sản phẩm trong nước, được thể hiện như sau: GDP = C + CF + (X - M) Trong đó: GDP: Tổng sản phẩm trong nƣớc; C: Tiêu dùng cuối cùng; CF: Tổng tích luỹ tài sản; M: Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ; X: Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. 2.2. Phương pháp tính GDP xanh trong SEEA (5) Trong SEEA, các đẳng thức nói trên đƣợc điều chỉnh tƣơng ứng, gắn với chi phí do những tổn thất và do sự xuống cấp môi trƣờng mà các hoạt động kinh tế - xã hội gây ra. Theo đó, đẳng thức nguồn và sử dụng đƣợc điều chỉnh bằng việc dựa vào đó đại lƣợng IC - vừa là chi phí môi trƣờng, nhƣng đồng thời cũng chính là sự tổn thất và sự xuống cấp môi trƣờng do hoạt động kinh tế gây ra. Còn hai chỉ tiêu: VA và GDP sẽ đƣợc điều chỉnh tƣơng ứng thành các chỉ tiêu VA có tính tới môi trƣờng (EVA) và GDP có tính tới môi trƣờng (EDP) hoặc GDP xanh Ứng với ba đẳng thức trên, tính toán/hạch toán gộp môi trƣờng vào các tài khoản kinh tế tƣơng ứng với hệ thống SEEA đƣợc biểu thị nhƣ sau: * Đẳng thức về nguồn - sử dụng, được thể hiện như sau: O + M = (IC + ECc) + C + (CF - ECt) + X (5) Nguồn: UNEP, “Integrated Environmental and Economic Accounting: An Operation Manual”, Handbook for National Accounting, United Nations, 2000, tr. 39. 247 Trong đó: O: Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ sản xuất ra; M: Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ; IC: Tiêu dùng trung gian; ECc: Chi phí môi trƣờng; C: Tiêu dùng cuối cùng; CF: Tổng tích luỹ tài sản; ECt: Giá trị tổn thất và xuống cấp tài nguyên môi trƣờng X: Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. * Đẳng thức về giá trị gia tăng (có tính đến yếu tố môi trường) đối với một ngành kinh tế, được thể hiện như sau: EVAi = Oi - IIi - CCi - ECi = NVAi - ECi Trong đó: EVAi: Giá trị gia tăng thuần có yếu tố môi trƣờng của ngành i; Oi: Giá trị sản phẩm vật chất, dịch vụ ngành i sản xuất ra; IIi: Chi phí trung gian của ngành i; CCi: Tiêu dùng tài sản cố định của ngành i; ECi: Chi phí do tổn thất và xuống cấp môi trƣờng của ngành i gây ra NVAi Giá trị gia tăng thuần của ngành i * Đẳng thức về sản phẩm trong nước có tính đến yếu tố môi trường, được thể hiện như sau: EDP EVAi ECh NDP EC C CF CC EC X M Trong đó: EDP: Tổng sản phẩm trong nƣớc thuần có yếu tố môi trƣờng hay GDP xanh; EVAi : Tổng VA thuần có yếu tố môi trƣờng. ECh: Chi phí xử lý ô nhiễm môi trƣờng do tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình gây ra; NDP: Tổng sản phẩm trong nƣớc thuần; EC: Chi phí bảo vệ môi trƣờng và giá trị tổn thất, xuống cấp tài nguyên môi trƣờng; CF: Tích luỹ tài sản; 248 CC: Tiêu dùng tài sản (Khấu hao tài sản). Trong SEEA, các tài khoản liên quan tới môi trƣờng đƣợc gắn kết với tài khoản kinh tế nhƣ trình bày trong 3 đẳng thức trên. Theo đó đã có hai khoản đƣợc bổ sung vào SNA truyền thống dƣới dạng hiện vật và giá trị, đó là: Thứ nhất, đó là sự tiêu hao tài sản môi trƣờng do hoạt động kinh tế gây ra, thể hiện ở “tiêu dùng vốn tài nguyên thiên nhiên”, bao gồm các loại tài nguyên nhƣ nƣớc, đất, rừng, v.v... Đây là những loại tài sản thƣờng không đƣợc thể hiện trong tài sản kinh tế của SNA; Thứ hai, đó là những chi phí môi trƣờng mà các ngành kinh tế và hộ gia đình đã chi trả cho việc sử dụng các tài sản môi trƣờng trong quá trình sản xuất, làm cho các tài sản đó cạn kiệt, xuống cấp. Những khoản chi phí này thể hiện ở “chi phí môi trƣờng của ngành kinh tế (EC i)” và “chi phí môi trƣờng của hộ gia đình (ECh)”. Trên cơ sở hai khoản mục đó, một số chỉ tiêu kinh tế đƣợc điều chỉnh lại nhƣ: “tổng tích luỹ tài sản (CF)” đƣợc chuyển thành “Tổng tích luỹ tài sản có gắn với môi trƣờng (ECF)”; “Giá trị gia tăng thuần (NVA)” đƣợc chuyển thành “Giá trị gia tăng thuần có tính tới môi trƣờng (EVA)”; và “Tổng sản phẩm trong nƣớc thuần (GDP)” chuyển thành “Tổng sản phẩm trong nƣớc thuần có tính tới môi trƣờng (GDP xanh)”. Xuất phát từ phƣơng pháp hạch toán GDP xanh trong SEEA, phƣơng pháp tính chỉ tiêu GDP xanh đƣợc thực hiện theo ba phƣơng pháp: Phương pháp sản xuất: GDP xanh bằng (=) Tổng giá trị gia tăng thuần có tính đến yếu tố môi trƣờng của các ngành kinh tế trừ (-) chi phí xử lý ô nhiễm môi trƣờng do tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình gây ra. Phương pháp thu nhập: GDP xanh bằng (=) Tổng sản phẩm trong nƣớc thuần (NDP) trừ (-) chi phí bảo vệ môi trƣờng và giá trị tổn thất, xuống cấp tài nguyên môi trƣờng. NDP tính đƣợc bằng GDP trừ (-) khấu hao tài sản. Phương pháp tiêu dùng: GDP xanh bằng (=) Tiêu dùng cuối cùng cộng (+) tích luỹ tài sản, trừ (-) khấu hao tài sản, trừ (-) chi phí bảo vệ môi trƣờng và giá trị tổn thất, xuống cấp tài nguyên môi trƣờng, cộng (+) chênh lệch xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. 2.3. Một số điểm khác biệt giữa tính toán GDP trong SNA và SEEA Thông qua phƣơng pháp tính toán/hạch toán GDP trong SNA và tính toán/hạch toán GDP trong SEEA, đề tài thấy có một số vấn đề khác biệt nhƣ sau: - Tính toán/hạch toán GDP trong SNA chƣa thể hiện đầy đủ những chi phí liên quan tới bảo vệ môi trƣờng cũng nhƣ chƣa phản ánh hết sự xuống 249 cấp, suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên do các hoạt động kinh tế - đời sống của con ngƣời gây ra (theo Salah Serafy và Ernst Lutz, 1989. tr 24). Một trong những nhƣợc điểm của hạch toán GDP trong SNA truyền thống đó là: Chƣa thể hiện đầy đủ các khoản chi phí có liên quan tới bảo vệ môi trƣờng và suy thoái tài nguyên, cụ thể nhƣ sau: Thứ nhất, trong các tài khoản của SNA truyền thống không thể hiện riêng biệt các khoản chi để bảo vệ môi trƣờng hoặc để giảm bớt sự xuống cấp của môi trƣờng. Ví dụ: Những chi phí mà nhà máy phải bỏ ra để mua thiết bị kiểm soát hoặc xử lý ô nhiễm; chi phí mà ngƣời sử dụng phải bỏ ra để mua thiết bị lọc khí thải lắp vào xe ô tô; chi phí phải bỏ ra để phục hồi lại những tài sản đã mất đi do lũ lụt gây ra (6),... cho đến nay đều đƣợc hạch toán gộp chung lại với những khoản chi khác trong hệ thống kế toán doanh nghiệp hoặc đƣợc hạch toán vào tài khoản thu nhập của quốc gia (7). Song vấn đề ở chỗ những chi phí này không đƣợc hạch toán riêng biệt để từ đó, những chủ thể đã gây ra tác động tới môi trƣờng có thể thấy đƣợc mức độ chi phí mà họ phải bỏ ra để bù đắp tổn hại cho môi trƣờng nhƣ thế nào? Chính vì vậy, các chi phí này dƣờng nhƣ không tác động tới hành vi thân thiện với môi trƣờng của các nhà sản xuất cũng nhƣ của những nhà hoạch định chính sách (vì đã bị ẩn lẫn với các khoản mục chi khác). Thứ hai, môi trƣờng cung cấp cho con ngƣời nhiều loại sản phẩm, trong đó có nhiều loại sản phẩm tuy có giá trị, nhƣng lại không đƣợc trao đổi mua bán trên thị trƣờng hoặc chỉ đƣợc mua với giá thấp (ví dụ nhƣ nguồn tài nguyên nƣớc, v.v...), do vậy nhiều trƣờng hợp, giá trị của những loại sản phẩm đó không đƣợc biểu thị trong giá sản phẩm (do bị bỏ qua) hoặc không thể tách riêng biệt từ giá của sản phẩm đƣợc đem bán trên thị trƣờng. Thứ ba, trong thực tế môi trƣờng cung cấp nhiều loại dịch vụ cho đời sống con ngƣời (nhƣ rừng có tác dụng bảo vệ lƣu vực sông, điều hoà khí hậu; hệ sinh thái có tác dụng lọc chất ô nhiễm trong nƣớc và không khí, v.v...). Tuy nhiên những loại dịch vụ này không đƣợc tính trong SNA, mà cụ thể là giá trị sản phẩm dịch vụ phục vụ cho tiêu dùng cuối cùng của dân cƣ. Một trong những lý do của sự bỏ qua này là trong nhiều trƣờng hợp, ngƣời ta không thể định giá các sản phẩm và dịch vụ của môi trƣờng bằng giá thị trƣờng. Thứ tư, GDP trong SNA tính cả phần khấu hao tài sản cố định (máy móc, thiết bị) vào tài khoản khấu hao. Trong khi đó, phần trữ lƣợng tài (6) (7) Nguyên nhân sâu xa là do tài nguyên rừng bị con ngƣời tàn phá. Vấn đề hạch toán môi trƣờng trong tài khoản quốc gia, Tr 30. 250 nguyên bị mất đi do bị khai thác và do đƣợc sử dụng trong quá trình sản xuất lại đƣợc tính vào tài khoản thu nhập. Theo các nhà môi trƣờng, nguồn tài nguyên cũng phải đƣợc coi là một loại tài sản. Do đó, sự suy giảm trữ lƣợng nguồn tài nguyên trong quá trình sản xuất cũng phải đƣợc tính vào tài khoản khấu hao giống nhƣ các tài sản cố định khác. - Tính toán/hạch toán GDP trong SEEA (hay GDP xanh) về cơ bản dựa trên sự hạch toán GDP trong SNA, tuy nhiên hạch toán GDP trong SEEA đã trừ phần khấu hao tài sản cố định đồng thời có sự bổ sung thêm những thông tin về tài sản môi trƣờng dƣới dạng hiện vật và giá trị, về quá trình sử dụng tài sản đó vào sản xuất, tiêu dùng của hộ dân cƣ và xã hội, hay nói một cách khác hạch toán GDP trong SEEA (hay GDP xanh) đã thể hiện khá đầy đủ những chi phí liên quan tới bảo vệ môi trƣờng cũng nhƣ phản ánh sự xuống cấp, suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên do các hoạt động kinh tế - đời sống của con ngƣời gây ra. Tuy nhiên để tính toán đầy đủ bằng giá trị các tài khoản môi trƣờng và việc ƣớc tính chỉ tiêu GDP xanh không chỉ phụ thuộc vào giá trị các tài sản đƣợc sản xuất ra mà còn phụ thuộc vào giá trị của các tài sản tự nhiên không do sản xuất tạo ra. Liên hợp quốc đã giới thiệu ba phƣơng pháp định giá môi trƣờng trong hệ thống SEEA (8) đó là: Định giá nguồn tài nguyên theo giá thị trƣờng; Định giá việc bảo vệ, phục hồi tài sản môi trƣờng; Định giá dịch vụ môi trƣờng theo phƣơng pháp ngẫu nhiên. 2.3.1. Định giá nguồn tài nguyên thiên nhiên theo giá thị trường. Phƣơng pháp định giá nguồn tài nguyên theo giá thị trƣờng đƣợc sử dụng để tính mức khấu hao tài nguyên. Qua đó có thể tính đƣợc những thay đổi về giá trị của nguồn tài nguyên đã đƣợc ghi trong mục “sự thay đổi về lƣợng khác” trong tài khoản tài sản của SNA. Sự thay đổi này bao gồm: khấu hao tài nguyên; sự cạn kiệt nguồn tài nguyên do khai thác và sự xuống cấp chất lƣợng tài nguyên do ô nhiễm môi trƣờng gây ra (đƣợc tính bằng giá thị trƣờng của trữ lƣợng tài nguyên đó). Trong SEEA, giá thị trƣờng của khấu hao tài nguyên, sự cạn kiệt và sự xuống cấp chất lƣợng tài nguyên đƣợc chuyển từ tài khoản mục “sự thay đổi về lƣợng khác” trong tài khoản Tài sản sang tài khoản Sản xuất. Trên thực tế, có thể sử dụng giá thị trƣờng để xác định giá trị của nguồn tài nguyên. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy, có thể áp dụng một số phƣơng pháp tính sau: (8) Handbook on “Intergrated Environmental and Economic Accounting - An Operational Manual”, 2000. 251 Tính giá trị hiện tại thuần (net present value - NPV) của trữ lượng tài nguyên: Bằng cách lấy giá thị trƣờng của hàng hoá, dịch vụ (dự kiến) mà nguồn tài nguyên có thể cung cấp, trừ (-) chi phí (dự kiến) phải bỏ ra để khai thác nguồn tài nguyên đó sẽ đƣợc phần thu hồi tịnh, rồi từ đó chuyển thành giá hiện tại bằng cách sử dụng tỷ lệ chiết khấu. Tuy nhiên khó khăn của việc áp dụng phƣơng pháp này là khó có thể tính giá hiện tại của trữ lƣợng tài nguyên nào đó, nếu nhƣ tài nguyên này do nhiều ngành kinh tế khác nhau đồng thời cùng khai thác sử dụng. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy đòi hỏi phải có thông tin về chi phí và khai thác tài nguyên của mỗi ngành kinh tế. Để có đƣợc thông tin chi tiết nhƣ vậy là rất phức tạp. Hơn nữa việc áp dụng tỷ lệ chiết khấu là bao nhiêu để tính NPV của trữ lƣợng nguồn tài nguyên cũng là một vấn đề đang còn tranh cãi. Nếu áp dụng các tỷ lệ chiết khấu khác nhau thì sẽ cho kết quả giá trị hiện hành của các tài nguyên khác nhau. - Tính giá tịnh (net price) của tài nguyên: Phƣơng pháp này bỏ qua sự giảm sút giá trị của tài nguyên do bị xuống cấp theo thời gian. Đơn giá tịnh của một đơn vị tài nguyên đƣợc tính bằng giá thị trƣờng thực tế của nó trừ (-) chi phí khai thác một đơn vị tài nguyên. Giá trị của nguồn tài nguyên sau đó được tính bằng khối lượng của nguồn tài nguyên nhân (x) với đơn giá một đơn vị tài nguyên. - Xác định tương đối giá trị xuống cấp, cạn kiệt nguồn tài nguyên, đƣợc tính đơn giản bằng hiệu giá trị của trữ lƣợng tài nguyên (theo cách tính trình bày ở trên) vào đầu kỳ trừ (-) giá trị trữ lƣợng tài nguyên vào cuối kỳ xem xét. Ngoài ra, có thể thay thế cách tính này qua cách tính tổng thu nhập nhận đƣợc từ việc khai thác nguồn tài nguyên trong thời kỳ xem xét. 2.3.2. Định giá việc bảo vệ, phục hồi tài sản môi trường Phƣơng pháp tính giá trị tài nguyên môi trƣờng bằng giá trị thị trƣờng nêu trên chỉ đƣợc áp dụng đối với những loại tài nguyên có thể tính đƣợc giá trị kinh tế của nó. Nói cách khác, nó chỉ đƣợc áp dụng đối với những loại tài nguyên có thể giao dịch đƣợc trên thị trƣờng (nhƣ các loại khoáng sản, một số loại đất đai, v.v...) trong khi đó đối với một số loại tài nguyên khác (chẳng hạn nhƣ nƣớc, không khí, đất hoang, đa dạng sinh học, v.v...) thì không thể áp dụng cách tính trực tiếp giá trị của chúng theo giá thị trƣờng vì những tài nguyên này ít đƣợc đem ra thị trƣờng mua bán. Để tính đƣợc sự thay đổi về giá trị của những loại tài nguyên môi trƣờng này, ngƣời ta có thể sử dụng cách tính chi phí để duy trì, bảo toàn nguồn tài nguyên thay thế cho cách tính dựa vào giá thị trƣờng nói trên. 252 Chi phí để bảo vệ, phục hồi tài nguyên môi trƣờng là chi phí lẽ ra phải bỏ ra trong một thời kỳ nhất định để tránh sự xuống cấp hay tránh những tác động tiêu cực có thể xảy ra cho môi trƣờng do hoạt động kinh tế gây ra. Giá trị tổn thất về môi trƣờng do các hoạt động kinh tế gây ra, nó không chỉ xảy ra trong hiện tại (trong thời kỳ xem xét) mà nó còn có khả năng ảnh hƣởng đến tƣơng lai. Nói cách khác, đây là tổng thể của những tổn thất về khả năng cung ứng của môi trƣờng do các hoạt động kinh tế hiện tại có thể gây ra (vào thời điểm hiện tại hay trong tƣơng lai). Với cách tiếp cận nhƣ vậy thì giá trị kinh tế của những tổn thất môi trƣờng đã xảy ra trong giai đoạn hiện tại mới chỉ phản ánh một phần các tác động của môi trƣờng đến đời sống kinh tế - xã hội trong hiện tại mà chƣa phản ánh khả năng ảnh hƣởng đến tƣơng lai. Trong trƣờng hợp các hoạt động kinh tế không gây tác động xấu tới chất lƣợng môi trƣờng thì chi phí duy tu, bảo toàn chất lƣợng môi trƣờng đƣợc coi nhƣ bằng 0. Ví dụ nhƣ: Tốc độ khai thác rừng và nguồn hải sản bằng hoặc nhỏ hơn tốc độ tái tạo tự nhiên của các loại tài nguyên đó; hay nguồn nƣớc tự nhiên đủ thoả mãn nhu cầu của hoạt động kinh tế, sinh hoạt mà không làm xấu đi chất lƣợng nƣớc; hay môi trƣờng tự nhiên có đủ khả năng hấp thụ lƣợng chất ô nhiễm thải ra từ hoạt động kinh tế, sinh hoạt, v.v.... Chi phí bảo vệ, phục hồi chất lƣợng môi trƣờng cũng đã phần nào đƣợc tính và đƣa vào “tổng tích luỹ tài sản” (CF) là một bộ phận hợp thành GDP theo phƣơng pháp sử dụng cuối cùng trong SNA truyền thống. Tuy nhiên, trong hệ thống SEEA đã khuyến nghị nên loại ra từ GDP hay tổng VA những chi phí mà các khu vực kinh tế phải bỏ ra để duy trì và bảo đảm chất lƣợng môi trƣờng theo tiêu chuẩn quy định. 2.3.3. Định giá dịch vụ môi trường theo phương pháp ngẫu nhiên Định giá dịch vụ môi trƣờng theo phƣơng pháp ngẫu nhiên liên quan tới việc đƣa ra các tình huống giả định để hỏi một nhóm đối tƣợng có liên quan xem họ sẵn sàng chi trả bao nhiêu tiền để đƣợc hƣởng thụ một loại dịch vụ môi trƣờng nào đó. Trong một số trƣờng hợp khác, các đối tƣợng có liên quan đƣợc hỏi xem họ sẵn sàng chi trả bao nhiêu tiền bồi thƣờng để chấp nhận không hƣởng thụ dịch vụ môi trƣờng. Phƣơng pháp này đƣợc thực hiện dƣới dạng các cuộc phỏng vấn trực tiếp các đối tƣợng có liên quan hay trả lời của họ qua các phiếu hỏi. Trong SEEA, định giá theo phƣơng pháp ngẫu nhiên thƣờng đƣợc áp dụng khi phải xác định giá trị của các dịch vụ môi trƣờng hay mức độ thiệt hại, tổn thất đối với môi trƣờng. Chẳng hạn, để tính mức độ tổn hại của sự cố 253 môi trƣờng nào đó, ngƣời ta sử dụng phƣơng pháp ngẫu nhiên để xác định không chỉ những tổn thất về kinh tế mà cả những tổn thất về sức khoẻ của những ngƣời đƣợc hỏi. Trong trƣờng hợp này câu hỏi sẽ đặt ra là “Bạn chấp nhận bao nhiêu tiền để bù đắp những tổn hại về vật chất và sức khoẻ do sự cố môi trƣờng gây ra?”, tiếp đó sẽ đƣa ra một số mức kinh phí và hình thức thanh toán đƣợc đƣa ra để ngƣời đƣợc hỏi lựa chọn sao cho phù hợp với sự đánh giá của cá nhân đƣợc phỏng vấn. Nhìn chung phƣơng pháp ngẫu nhiên rất khó đo đƣợc một cách chính xác giá trị thực của dịch vụ môi trƣờng cũng nhƣ về mức độ tổn hại (theo giá trị) đối với môi trƣờng. Đặc biệt, rất khó có thể đảm bảo độ chính xác của phƣơng pháp khi đƣợc sử dụng để xác định giá trị của các tổn hại môi trƣờng có thể xảy ra trong tƣơng lai. Trên thực tế, việc áp dụng các phƣơng pháp nêu trên để xác định giá trị tài nguyên và mức độ tổn hại của môi trƣờng do các hoạt động kinh tế - xã hội gây ra là không hề đơn giản, giá trị các sản phẩm và lao động có thể xác định đƣợc khi đƣa ra thị trƣờng và giá trị của chúng đƣợc phản ánh qua giá thị trƣờng. Nhƣng còn yếu tố môi trƣờng thì sẽ phản ánh nhƣ thế nào? vì khi nó không đƣa vào thị trƣờng. Do vậy theo một số chuyên gia kinh tế đã khuyến nghị nên thay Chi phí tiêu dùng tài nguyên và mất mát về môi trường do các hoạt động kinh tế bằng chi phí của những hoạt động chống ô nhiễm. Chi phí môi trƣờng hay chi phí của những hoạt động chống ô nhiễm của một dự án cụ thể là chỉ tiêu có thể ƣớc tính đƣợc theo giá thị trƣờng hay chi phí thực tế một dự án đã chi ra để chống ô nhiễm môi trƣờng. 3. Phƣơng pháp tính GDP xanh xuất phát từ mô hình I/O mở rộng Mô hình I/O đƣợc mở rộng và sử dụng các công cụ để phân tích các vấn đề ô nhiễm môi trƣờng. Xuất phát từ mô hình I/O rút gọn đƣợc thể hiện đó là quan hệ của các số lớn phản ánh các quan hệ giữa các ngành trong nền kinh tế của quá trình sản xuất và sử dụng sản phẩm trong nƣớc và sản phẩm nhập khẩu theo một hệ thống hàm tuyến tính. Hàm này thể hiện mối quan hệ về công nghệ sản xuất và sử dụng sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Mô hình I/O sẽ thể hiện một cách khái quát cấu trúc bởi các ngành theo cột và đƣợc coi là các ngành sản xuất; các ngành theo dòng đƣợc coi là các ngành sử dụng (theo sơ đồ số 1). 254 Sơ đồ số 1. Mô hình I/O Các ngành sản xuất Sử dụng cuối cùng (Final demand - FD) Tổng sử dụng (Gross output) Các ngành Tiêu dùng trung gian (Intermediate Y X sản phẩm consumption - IC); Ô1 Ô2 Giá trị tăng VA; Ô3 thêm Tổng đầu vào hoặc tổng chi phí (Gross input - GI); X - Ô1. Tiêu dùng trung gian: Thể hiện chi phí trung gian của các ngành, bao gồm các ngành sản xuất ra sản phẩm vật chất và các ngành sản xuất ra sản phẩm dịch vụ; phần tử aij của ma trận A thể hiện ở Ô1 phản ánh ngành j sử dụng sản phẩm i làm chi phí trung gian trong quá trình sản xuất ra sản phẩm j. - Ô2. Sử dụng cuối cùng: Thể hiện những sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ đƣợc sử dụng cho nhu cầu cuối cùng, bao gồm đƣợc sử dụng cho: tiêu dùng cuối cùng, tích luỹ tài sản, xuất khẩu và nhập khẩu. - Ô3. Tổng giá trị tăng thêm: Bao gồm các khoản thu nhập của ngƣời lao động; thuế sản xuất; thặng dƣ sản xuất và khấu hao tài sản cố định. Quan hệ hàm số cơ bản của mô hình I/O có dạng: AX + Y = X Hoặc (1) X = (I - A)1 Y Trong đó: A là hệ số chi phí trung gian trực tiếp; X là véc tơ giá trị sản xuất; Y là véc tơ sử dụng cuối cùng. Tuy nhiên theo sơ đồ số 1 (Mô hình I/O) đơn giản chƣa thấy thể hiện rõ nét sự thay đổi tổng sử dụng (GO) của mỗi ngành sản phẩm hay tổng chi phí của mỗi ngành sản xuất sẽ ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến vấn đề môi trƣờng. Do 255 vậy để xác định mức độ ảnh hƣởng đến môi trƣờng do các hoạt động sản xuất gây ra bằng cách thông qua sự mở rộng của mô hình I/O hay nói cách khác xác định tính GDP xanh thông qua mô hình I/O mở rộng. Trong mô hình I/O mở rộng thừa nhận có 2 loại hình hoạt động, đó là: (1) Tất cả các hoạt động kinh tế (2) Hoạt động chống chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng (gồm chất thải đầu vào và chất thải đầu ra) của các hoạt động kinh tế. GDP xanh = GDP - Chi phí của những hoạt động chống ô nhiễm Mô hình I/O mở rộng dựa trên cơ sở n ngành (loại trừ các hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng); m là số loại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng, đƣợc xác định theo các véc tơ và ma trận nhƣ sau: A1: là hệ số chi phí trung gian trực tiếp ma trận cấp (n x n) của n ngành kinh tế, các chi phí sản xuất từ các hoạt động kinh tế (đo lƣờng bằng đơn vị tiền tệ) so với đơn vị giá trị sản xuất của các hoạt động kinh tế. X1: là véc tơ giá trị sản xuất cấp (n x 1) của các hoạt động kinh tế, (đo lƣờng bằng đơn vị tiền tệ). Y1: là véc tơ sử dụng sản phẩm cuối cùng cấp (n x 1) từ các hoạt động kinh tế, (đo lƣờng bằng đơn vị tiền tệ). Xg: là véc tơ giá trị sản xuất cấp (m x 1) của các hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng do các ngành kinh tế tạo ra, (đo lƣờng bằng đơn vị vật chất). g1: là ma trận hệ số các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng trực tiếp từ các hoạt động kinh tế, ma trận cấp (m x n), với m là số loại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng và n là số ngành sản phẩm đƣợc nghiên cứu trong mô hình, phần tử của ma trận phản ánh khối lƣợng chất thải (đơn vị tính là vật chất) trên 1 đơn vị sản phẩm (đơn vị tính là tiền tệ) đƣợc tạo ra trong quá trình sản xuất ra sản phẩm đó; g2: là ma trận hệ số các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng trực tiếp từ các hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng, ma trận cấp (m x n), m là số loại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng, phần tử của ma trận phản ánh khối lƣợng chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng (đơn vị tính vật chất) trên 1 đơn vị khối lƣợng chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng đƣợc xử lý (đơn vị tính là vật chất) đƣợc tạo ra từ các hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm; 256 g3: là ma trận hệ số các chất thải trực tiếp gây ô nhiễm môi trƣờng từ tiêu dùng cuối cùng hộ gia đình, ma trận cấp (m x n), m là số loại các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng (đơn vị tính vật chất), phần tử của ma trận phản ánh khi hộ gia đình tiêu dùng sản phẩm j thì sẽ tạo ra chất thải loại i. H: là ma trận hệ số chi phí trung gian trực tiếp của các hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng, ma trận cấp (n x m), phần tử của ma trận thể hiện hoạt động chống lại chất thải loại j thì cần phải sử dụng sản phẩm i làm chi phí trung gian. Yg: là véc tơ thể hiện các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng không đƣợc xử lý, cấp của véc tơ là (1 x m). Xác định các véc tơ của chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng tạo ra trong các hoạt động kinh tế và các véc tơ của chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng từ các hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng, vận dụng từ mô hình I/O đƣợc thể hiện nhƣ sau: X1 = AX1 + HXg + Y1 (2) Xg = g1X1 + g2Xg + g3Y1 - Yg (3) + Công thức (2) dựa trên quan hệ hệ thống I/O, nó chỉ ra việc sử dụng giá trị sản phẩm của các hoạt động kinh tế, trong đó: - AX1: là chi phí sản xuất đầu vào đƣợc sử dụng trong quá trình sản xuất ra sản phẩm của các hoạt động kinh tế; - HXg: là chi phí đầu vào của hoạt động xử lý các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng; - Xg: là số lƣợng chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng đƣợc xử lý; - H: là ma trận hệ số chi phí trung gian trực tiếp của các hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng; - Y1: là sản phẩm của các hoạt động kinh tế nó đƣợc sử dụng cho tiêu dùng cuối cùng, giả sử không có sử dụng cuối cùng nào khác. + Công thức (3) chỉ ra tổng số khối lƣợng chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng Xg đƣợc xử lý. Nó tƣơng đƣơng với khối lƣợng chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng do các ngành kinh tế tạo ra (ví dụ: g1X1), các chất gây ô nhiễm môi trƣờng đƣợc tạo ra bởi đầu ra của các hoạt động xử lý các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng (ví dụ các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng đƣợc tạo ra từ 257 các hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng) Xg (ví dụ. g2Xg), các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng đƣợc tạo ra bởi tiêu dùng cuối cùng (ví dụ g3Y1), (-) trừ đi các chất gây ô nhiễm môi trƣờng nó không đƣợc xử lý Y g cùng với việc xác định mức độ ô nhiễm môi trƣờng do các hoạt động kinh tế gây ra mà đƣợc xã hội chấp nhận ở một mức độ nhất định, điều này đã đƣợc thực hiện ở một số quốc gia và Chính phủ đã đƣa ra những tiêu chuẩn chung nhằm bảo vệ môi trƣờng. Từ công thức (2) và (3) đƣợc trình bày theo khuôn khổ của một ma trận đơn giản đó là mô hình I/O thông thƣờng nhƣ sau: 1 g1 g 2 g 1 Y1 g g3 (4) 1 g Để tính toán chỉ tiêu GDP xanh dựa vào mô hình I/O thông thƣờng, xuất phát từ công thức (2) và (3) có hai trƣờng hợp: * Trường hợp 1: Giả định tiêu dùng cuối cùng hàng hoá và dịch vụ đƣợc thừa nhận là không tạo ra các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng, tức là g 3 = 0 và toàn bộ các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng đƣợc tạo ra từ các ngành đều đƣợc xử lý, tức là Yg = 0, công thức (2) và (3) đƣợc viết lại nhƣ sau: X1 = AX1 + HXg + Y1 (5) Xg = g1X1 + g2Xg (6) Công thức (6) đƣợc viết lại thông qua thay X g bằng X1 và X1 thay thế bằng Xg vào công thức (5) và công thức đƣợc viết lại nhƣ sau: Xg = (I – g2)-1g1X1 (7) X1 = AX1 + H(I – g2)-1g1X1 + Y1 (8) Hay công thức (8) đƣợc viết lại nhƣ sau: X1 Hay 258 = A + H ( I g 2 ) 1 g1 X 1 + Y1 Chi phí trực tiếp đƣợc sử dụng cho các hoạt động kinh tế Chi phí trực tiếp sử dụng cho các hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng Sử dụng cuối cùng Y1 = X1 – A + H ( I g 2 ) 1 g1 X 1 (9) (9) Trong công thức (9), Y1 là GDP xanh không bao gồm chi phí để chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng, là một phần lớn giá trị thực dùng cho sử dụng cuối cùng Y* = H(I – g2)-1g1X1 + Y1 (10) Do vậy, chỉ tiêu GDP xanh Y1 nó nhỏ hơn rất nhiều so với chỉ tiêu GDP thông thƣờng Y* là do chỉ tiêu GDP thông thƣờng Y* phải trừ đi (-) chi phí trực tiếp sử dụng cho các hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng. * Trường hợp 2: Giả định mối quan hệ trong mô hình bao gồm các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng, nguyên nhân là do sử dụng cuối cùng tạo nên (g3Y1 trong công thức (4) và trong đó cũng không bao gồm toàn bộ các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng đã đƣợc xử lý, nhƣng bên cạnh đó còn mức ô nhiễm môi trƣờng đã đƣợc xã hội chấp nhận (Yg trong công thức (4)) và nó đƣợc giới thiệu nhƣ sau: Công thức (2) đƣợc viết lại và Y1 đƣợc biểu diễn qua X1 nhƣ sau: Y1 = (I – A)X1 - HXg (11) Thay thế Y1 trong công thức (3) và Xg đƣợc biểu diễn qua X1, nhƣ sau: g I (g2 g3 H ) 1 g1 g3 (I A) X 1 I (g2 1 g 3 H ) Yg (12) Nó đƣợc thay thế bằng: R = I – (g2 – g3 H), Công thức (12) đƣợc đơn giản hoá nhƣ sau: Xg R 1 g1 g3 (I A) X 1 R 1Yg (13) Thay thế Xg trong công thức (2) vào công thức (13) viết lại công thức (2) theo thuật ngữ X1 và biến ngoại sinh Yg đƣợc biến đổi nhƣ sau: X1 = A + HR 1 g1 g3 (I A) X1 - HR-1 Yg + Y1 Chi phí trực tiếp đƣợc sử dụng cho Chi phí trực tiếp đƣợc sử dụng cho các hoạt động Trừ đi: Chi phí trực tiếp của chất thải gây ô Sử dụng cuối sản xuất giá trị sản phẩm của các chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng nhiễm môi trƣờng mà chất thải đó không cùng ngành kinh tế (14) đƣợc xử lý 259 Mối quan hệ đƣợc thể hiện trong công thức (14) nó miêu tả một cách đơn giản trong trƣờng hợp công thức (9) của mô hình I/O giản đơn. Trong trƣờng hợp này, ô nhiễm môi trƣờng GDP (Y *) tƣơng đƣơng với ô nhiễm môi trƣờng GDP (Y1), cộng với chi phí trực tiếp sử dụng cho các hoạt chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng. Nếu toàn bộ các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng đƣợc xử lý, trừ đi chi phí trực tiếp các chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng không bị xử lý. Y* Y 1 HR 1 g 1 g 3 (I A) X1 HR 1 Y g GDP xanh đƣợc tính là: Y1 Y * HR 1 g 1 g3 (I A) X1 HR 1Yg (15) 4. Kinh nghiệm tính toán chỉ tiêu GDP xanh của Nhật Bản và Trung Quốc 4.1. Tính chỉ tiêu GDP xanh của Nhật Bản 4.1.1. Giới thiệu một số đặc điểm chủ yếu về Hệ thống tài khoản Kinh tế và Môi trường (SEEA) Nhật Bản Hệ thống tài khoản kinh tế và môi trƣờng ở Nhật Bản đƣợc xây dựng dựa trên cơ sở mở rộng SNA theo 3 cách: Thứ nhất, các hoạt động kinh tế đƣợc phân thành các hoạt động có liên quan tới bảo vệ môi trƣờng và các hoạt động không liên quan tới bảo vệ môi trƣờng. Thứ hai, danh giới tài sản đƣợc mở rộng đó là tài sản phi sản xuất, loại tài sản này đã không đƣợc xem nhƣ tài sản kinh tế trong SNA. Thứ ba, việc làm suy yếu và thoái hoá cả hai loại tài sản tự nhiên có tính chất kinh tế và tài sản tự nhiên phi kinh tế đƣợc xem nhƣ khấu hao tài sản cố định đƣợc khấu trừ trong việc tính tổng sản phẩm thuần trong nƣớc đã đƣợc điều chỉnh có tính đến yếu tố môi trƣờng hoặc là chỉ tiêu GDP xanh. Trong thực tế Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành thực hiện các dịch vụ bảo vệ môi trƣờng nhƣ làm sạch sông hồ, phục hồi đất đai đã bị ô nhiễm và tất cả các chi phí cho dịch vụ bảo vệ môi trƣờng đã đƣợc tính trong SNA ở Nhật Bản nhƣ các hàng hoá phi thị trƣờng. Tức là SEEA ở Nhật Bản đã loại trừ các chi phí bảo vệ môi trƣờng mà không hoàn toàn ứng với các hoạt động sản xuất. Đối với các chi phí cho môi trường: SEEA ở Nhật Bản phân biệt có 2 loại chi phí môi trƣờng, bao gồm: 260 Loại thứ nhất là các chi phí thực tế phải chi cho các hoạt động bảo vệ môi trƣờng, bao gồm các hoạt động do các địa phƣơng thực hiện; hệ thống thoát nƣớc và các dịch vụ xử lý phế thải đƣợc Chính phủ cung cấp. Loại thứ hai là các chi phí môi trƣờng đƣợc quy đổi do việc làm cạn kiệt và giảm giá trị nguồn tài nguyên môi trƣờng. 4.1.2. Phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh của Nhật Bản GDP xanh bằng (=) NDP trừ (-) chi phí về môi trƣờng đã đƣợc quy đổi. EDP hoặc GDP xanh, thể hiện qua sơ đồ số 2 và xác định cách tính theo công thức: GDP xanh = NDP - Chi phí về môi trƣờng đã đƣợc quy đổi (16) Sơ đồ số 2. Mô tả cấu trúc chỉ tiêu GDP xanh ở Nhật Bản NDP EDP GDP Chi phí thực tế môi trƣờng (Một phần giá trị tăng thêm) Chi phí môi trƣờng quy đổi Khấu hao tài sản cố định * Ước tính các chi phí môi trường được quy đổi * Đối với các chất thải Chi phí môi trƣờng quy đổi tính cho việc xử lý và hạn chế các chất thải vào không khí và nƣớc bằng (=) khối lƣợng thực tế thải ra của một chất gây ô nhiễm, nhân (x) chi phí cho một đơn vị cất dọn và xử lý chất thải đó, ở phạm vi quốc gia, khó có thể xác định đƣợc một cách chính xác. 261 4.1.3. Thử nghiệm tính chỉ tiêu GDP xanh của Nhật Bản giai đoạn 1970-1995 SEEA Nhật Bản đã tính thử nghiệm chỉ tiêu GDP xanh 5 năm một lần, từ năm 1970 đến năm 1995, kết quả tính GDP xanh ở Nhật Bản giai đoạn 1979-1995 đƣợc trình bày theo phụ lục số 1 và phụ lục số 2. Tính toán chỉ tiêu GDP xanh ở Nhật Bản đƣợc thực hiện theo 2 loại giá: giá cố định và giá hiện hành. Chi phí môi trƣờng quy đổi theo giá cố định năm gốc 1990 và đạt cao nhất hơn 6 nghìn tỷ YEN vào năm 1975, và có xu hƣớng giảm dần, cụ thể đến năm 1990 chỉ còn hơn 4,5 tỷ YEN. Việc phân tích chi phí môi trƣờng quy đổi theo loại tài sản tự nhiên cho thấy các phế thải thải vào không khí về căn bản đã giảm vào năm 1990. Tuy nhiên, các phế thải thải vào môi trƣờng nƣớc đã theo một khuynh hƣớng tăng lên. Việc phá huỷ hệ sinh thái do mở rộng đất đai đạt đỉnh điểm vào năm 1970 và suy giảm vào năm sau đó. Tốc độ khai thác chặt đốn cây cối ở Nhật Bản bằng tốc độ tăng tự nhiên của cây cối từ năm 1980; Nên chi phí môi trƣờng quy đổi tƣơng ứng bằng không. Việc làm cạn kiệt các tài nguyên dƣới lòng đất không đáng kể vào năm 1995. Tỷ lệ chi phí môi trƣờng quy đổi so với NDP đƣợc tính theo giá hiện hành (tính toán theo phụ lục số 2) giảm dần trong giai đoạn từ năm 1970 đến năm 1995. Tỷ lệ chi phí môi trƣờng quy đổi so với NDP năm 1970 là hơn 8%, nhƣng giảm xuống còn hơn 1% năm 1990. Tỷ lệ chi phí môi trƣờng quy đổi so với NDP giảm dần có thể phần nào là do nền kinh tế phát triển chậm lại và chắc chắn có một số thay đổi về cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, phần tỷ lệ giảm đáng kể là do tốc độ ô nhiễm không khí thấp hơn. Việc cải tiến và nâng cao năng lực công nghệ đã làm giảm bớt vấn đề ô nhiễm và phát huy hiệu quả đối với việc làm giảm bớt chi phí trong các quá trình giảm ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm không khí. Ví dụ: chi phí môi trƣờng quy đổi của việc giảm ô nhiễm không khí so với NDP đã giảm từ 7,5% năm 1970 xuống còn 1,0% năm 1985 và đến năm 1995 chỉ còn 0,6%. 4.2. Tính chỉ tiêu GDP xanh của Trung Quốc 4.2.1. Giới thiệu một số đặc điểm chủ yếu về hệ thống tài khoản kinh tế và Môi trường ở Trung Quốc Hệ thống tài khoản kinh tế và môi trƣờng ở Trung Quốc (viết tắt CSEEA) đƣợc dựa trên cơ sở mở rộng SNA năm 1993 và cấu trúc SEEA của Nhật Bản. Cấu trúc CSEEA của Trung Quốc đã đƣợc thiết lập theo 3 cách: 262 Thứ nhất, các hoạt động kinh tế đƣợc phân thành các hoạt động có liên quan tới bảo vệ môi trƣờng và các hoạt động không liên quan tới bảo vệ môi trƣờng hay còn gọi là các hoạt động sản xuất khác. Trong hoạt động sản xuất khác đƣợc tách ra: Hoạt động sản xuất khác có liên quan đến môi trƣờng và các loại hình sản xuất khác không liên quan tới môi trƣờng. Thứ hai, danh giới tài sản đƣợc mở rộng đó là tài sản phi sản xuất (SNA chỉ có tài sản sản xuất), loại tài sản này đã không đƣợc xem là tài sản kinh tế trong SNA. Thứ ba, việc làm suy yếu và thoái hoá cả hai loại tài sản tự nhiên có tính chất kinh tế và tài sản tự nhiên phi kinh tế đƣợc xem nhƣ khấu hao tài sản cố định đƣợc khấu trừ trong việc tính sản phẩm thuần trong nƣớc đã đƣợc điều chỉnh có tính đến yếu tố môi trƣờng hoặc là chỉ tiêu GDP xanh. 4.2.2. Phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh của Trung Quốc Công thức tính: GDP xanh = NDP - Chi phí môi trƣờng quy đổi Việc ƣớc lƣợng chi phí môi trƣờng quy đổi đƣợc thực hiện thông qua ƣớc lƣợng sự cạn kiệt, suy giảm nguồn tài nguyên và tài sản tự nhiên bao gồm (tài sản tự nhiên kinh tế và tài sản tự nhiên phi kinh tế). * Ước lượng sự cạn kiệt nguồn tài nguyên: Nguồn tài nguyên bao gồm tài nguyên có thể khôi phục đƣợc và tài nguyên không thể khôi phục đƣợc. - Ước lượng sự cạn kiệt nguồn tài nguyên không thể khôi phục được - Ước lượng sự cạn kiệt nguồn tài nguyên có thể khôi phục được * Ước lượng suy giảm giá trị nguồn tài sản tự nhiên: Thành phần quan trọng khác của tính chi phí môi trƣờng là sự giảm sút giá trị tài sản tự nhiên. Qua nghiên cứu đã xác định và phân biệt giá trị hai loại tài sản: (1) Các tài sản có giá trị kinh tế trong tự nhiên, bao gồm: rừng, đất cỏ và đất trồng trọt; (2) Các tài sản không có giá trị kinh tế trong tự nhiên, gồm: không khí và nƣớc. - Ước lượng suy giảm tài sản có giá trị kinh tế trong tự nhiên - Ước lượng suy giảm tài sản không có giá trị kinh tế trong tự nhiên. 263 4.2.3. Thử nghiệm tính chỉ tiêu GDP xanh của Trung Quốc năm 1992 Xuất phát từ sự phân biệt các hoạt động trong xã hội, gồm hoạt động bảo vệ môi trƣờng và hoạt động sản xuất khác (trong hoạt động sản xuất khác có hoạt động liên quan đến môi trƣờng), tổng chi phí môi trƣờng ở Trung Quốc cụ thể năm 1992, theo Bảng số 1. nhƣ sau: Bảng số 1. Chi phí môi trƣờng (IEC) năm 1992 Đơn vị tính: Tỷ Yuan Trong đó chi phí môi trƣờng để chống lại sự: Tổng số Cạn kiệt tài nguyên (tài nguyên có thể khôi phục đƣợc và tài nguyên không thể khôi phục) Suy thoái tài nguyên (tài nguyên có tính chất kinh tế và tài nguyên có tính chất phi kinh tế) Nƣớc 39,96 39,96 Không khí 21,67 21,67 Rừng 53,11 Đất 1,32 1,32 Cỏ mặt đất 0,02 0,02 Than Ga tự nhiên Tổng số 36,56 0,03 13,63 Dầu 16,55 0,02 4,41 9,17 129,71 25,77 103,94 Nguồn: [9]. Bảng số 1 cho thấy: (1) Chi phí môi trƣờng cho việc chống lại sự cạn kiệt tài nguyên và suy thoái tài nguyên rừng (gồm tài nguyên rừng có thể khôi phục và không thể khôi phục; tài nguyên rừng có tính chất kinh tế và tài nguyên rừng không có tính chất kinh tế) chiếm hơn 40% tổng chi phí môi trƣờng là nguồn thiệt hại lớn nhất gây ảnh hƣởng đến môi trƣờng của Trung Quốc; (2) Chi phí môi trƣờng cho việc xử lý, giảm bớt các chất thải gây ô nhiễm nguồn nƣớc, chiếm khoảng 30% tổng chi phí môi trƣờng (đứng thứ hai); (3) Chi phí môi trƣờng cho việc xử lý và giảm bớt các chất thải gây ô nhiễm không khí (đứng thứ ba) chiếm trong tổng chi phí môi trƣờng ở Trung Quốc. 264
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan