LỜI MỞ ĐẦU
Từ cuối thế kỷ XIX, các Tập đoàn kinh tế (TĐKT) trên thế giới
đã được hình thành và ngày càng phát triển mạnh về số lượng, tạo nên
những cơ sở vật chất quan trọng cho việc nâng cao tiềm lực kinh tế và
ảnh hưởng ngày càng lớn đến sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia
và nền kinh tế thế giới. Đặc biệt, xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, sự
phát triển của khoa học công nghệ - thông tin và sự nới lỏng các quy
định pháp lý về tài chính - ngân hàng đã thúc đẩy các Tập đoàn tài
chính (TĐTC) ra đời.
Kể từ khi ra đời, các TĐTC đã đóng góp không nhỏ cho nền
kinh tế thế giới, thúc đẩy sự phát triển kinh tế không chỉ quốc gia mẹ
mà còn cả các quốc gia mà nó có chi nhánh hoạt động. Giờ đây,
TĐTC không còn quá xa lạ với các nước phát triển trên thế giới như
Mỹ, Nhật Bản, EU… Xây dựng và phát triển thành các TĐTC là mục
tiêu mà các Tổng công ty, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang
hướng tới. Làm thế nào để các TĐTC hiện tại và các Tập đoàn tài
chính - Ngân hàng (TĐTC - NH) tương lai của Việt Nam có thể phát
huy hiệu quả, phục vụ tốt hơn cho nền kinh tế đất nước trong giai
đoạn hội nhập kinh tế thế giới? Đó chính là lý do khiến em lựa chọn
đề tài “Nghiên cứu hoạt động của một số Tập đoàn tài chính trên
thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam” với mong muốn làm sáng tỏ
sự phát triển của một số TĐTC trên thế giới và rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam nhằm xây dựng các TĐTC của Việt Nam thành
những tập đoàn hùng mạnh, có khả năng cạnh tranh cao trên trường
quốc tế.
Mục đích nghiên cứu của khoá luận:
Nghiên cứu sự ra đời, vai trò và điều kiện hình thành TĐTC;
Phân tích các TĐTC trên tất cả các mặt hoạt động;
Nghiên cứu thực trạng hình thành và phát triển của các TĐTC
Việt Nam đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm và khả năng hinh
thành TĐTC - NH;
Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp phát triển TĐTC ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, cụ thể là TĐTC Bảo Việt và các
Ngân hàng thương mại Việt Nam đang có xu hướng phát triển
thành TĐTC – Ngân hàng.
Đối tượng nghiên cứu:
Các lý thuyết chung về TĐKT và TĐTC;
Hoạt động của một số TĐTC tiêu biểu trên thế giới: 2 TĐTC NH (Citigroup, HSBC Holdings) và 2 TĐTC - Bảo hiểm
(Prudential, AIG);
Thực trạng hoạt động của TĐTC Việt Nam trong đó có tập đoàn
Bảo Việt.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp mô tả và khái quát đối
tượng nghiên cứu; phương pháp phân tích - tổng hợp; Phương pháp so
sánh và phương pháp tư duy logic.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về TĐTC
Chương II: Khả năng vận dụng kinh nghiệm của một số TĐTC
trên thế giới vào xây dựng và phát triển TĐTC Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp xây dựng và phát triển các TĐTC
ở Việt Nam
Trong thời gian nghiên cứu, do hạn chế về mặt thời gian và kiến
thức, cùng với đó là quá trình hình thành các TĐTC ở Việt Nam vẫn
còn trong giai đoạn thử nghiệm, nên đề tài chắc chắn vẫn còn nhiều
hạn chế và thiếu sót. Em mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các
thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH
I. Tập đoàn kinh tế
1. TĐKT và quá trình hình thành TĐKT
1.1 Các quan điểm về TĐKT
Khái niệm TĐKT đã xuất hiện từ rất sớm cùng với quá trình tích
tụ và tập trung tư bản từ nửa cuối thế kỷ 19 khi nền sản xuất hàng hoá
thế giới phát triển mạnh mẽ nhờ sự tác động trực tiếp của cuộc cách
mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Nhiều công ty,
doanh nghiệp trước sức ép cạnh tranh về vốn, năng lực sản xuất, năng
suất lao động, thị phần đã bị chèn ép, thôn tính, hoặc tự nguyện tìm
cách “chung sống hoà bình” với các công ty doanh nghiệp khác trên
cơ sở những liên minh hay tổ hợp để “phân chia” thị trường và khai
thác những tiềm năng riêng có của từng công ty, doanh nghiệp trong
một vỏ bọc vững chắc hơn bởi một liên minh rộng. Thực tế cho thấy,
các TĐKT là một trong những nhân tố thúc đẩy và góp phần phát triển
nền kinh tế quốc dân ở nhiều nước.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về TĐKT nhưng chưa
có một định nghĩa nào được xem là chuẩn mực. TĐKT tại các nước
khác nhau được gắn với những tên gọi khác nhau. Nhiều nước gọi là
“Group” hay “Business Group”, Ấn Độ gọi là “Business houses”.
Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai gọi TĐKT là “Zaibatsu”,
sau chiến tranh thế giới thứ hai gọi là “Keiretsu”. Hàn Quốc gọi
TĐKT là “Chaebol”, còn nước láng giềng Trung Quốc gọi là Tập
đoàn doanh nghiệp (Jituan Gongsi). Sự đa dạng về tên gọi hay thuật
ngữ sử dụng nói lên tính đa dạng của cách thức liên kết được khái quát
chung là TĐKT, do đó, quan niệm cũng như nhìn nhận chung về
TĐKT cũng có sự khác nhau nhất định.
Tại các nước phương Tây, “Tập đoàn kinh tế” được hiểu như là
một tổ hợp các công ty hay chi nhánh góp cổ phần chịu sự kiểm soát
của công ty mẹ hoặc “Tập đoàn kinh tế và tài chính” gồm một công ty
mẹ và các công ty khác mà công ty mẹ kiểm soát hay tham gia góp
vốn, mỗi công ty con cũng có thể kiểm soát các công ty khác hay tham
gia các tổ hợp khác 1. Tại Nhật Bản, “Tập đoàn kinh tế” (Keiretsu) là
một nhóm doanh nghiệp độc lập về mặt pháp lý nắm giữ cổ phần của
nhau và thiết lập được mối quan hệ mật thiết về nguồn vốn, nguồn
nhân lực, công nghệ, cung ứng nguyên vật liêu, tiêu thụ sản phẩm hay
tập đoàn bao gồm các công ty có sự liên kết không chặt chẽ được tổ
chức quanh một ngân hàng để phục vụ lợi ích của các bên2. Tại
Malaysia và Thái Lan, “Tập đoàn kinh tế” được xác định là tổ hợp
kinh doanh với các mối quan hệ đầu tư, liên doanh, liên kết và hợp
đồng. Nòng cốt của các tập đoàn là cơ cấu công ty mẹ - công ty con
tạo thành một hệ thống liên kết chặt chẽ trong tổ chức và trong hoạt
động. Các thành viên trong tập đoàn đều có tư cách pháp nhân độc lập
và thường hoạt động trên cùng một mặt bằng pháp lý và là đầu mối
liên kết giữa các doanh nghiệp thành viên với nhau là công ty mẹ, các
doanh nghiệp thành viên tham gia liên kết tập đoàn phải có đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của một phâp nhân độc lập. Bản thân tập đoàn
không có tư cách pháp nhân.
Ở Việt Nam vẫn còn nhiều tranh cãi về “Tập đoàn kinh tế”.
Theo điều 149, Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 thì “TĐKT là
1
2
www.tapchibcvt.com.vn
www.tapchibcvt.com.vn
nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí,
tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT”. Và theo điều 146 của luật
này cũng chỉ rõ:
“Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó
lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các
dịch vụ kinh doanh khác.
Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau đây:
Công ty mẹ - công ty con
TĐKT
Các hình thức khác”.
Mặc dù còn có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng “TĐKT” có
thể được hiểu: “là tổ hợp các doanh nghiệp hoạt động trong một hay
nhiều lĩnh vực khác nhau, ở phạm vi một hay nhiều nước; trong đó
có một doanh nghiệp (công ty mẹ) nắm quyền lãnh đạo, chi phối
hoạt động của các doanh nghiệp khác (công ty con) về mặt tài
chính và chiến lược phát triển. TĐKT là cơ cấu tổ chức vừa có chức
năng kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng
cường tích tụ, tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh và tối đa
hoá lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh”. “TĐKT”
không phải là một hình thức pháp lý cụ thể (không có tư cách pháp
nhân) mà chỉ là tổ hợp các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.
1.2 Các hình thức liên kết TĐKT
TĐKT có sự liên kết bằng quan hệ tài sản và quan hệ hợp tác
giữa các doanh nghiệp thành viên. Đây là đặc trưng cơ bản, là tiền đề
cần thiết để hình thành TĐKT thể hiện xu thế tất yếu trong việc nâng
cao trình độ xã hội hoá và phát triển của lực lượng sản xuất.
-
Về phạm vi liên kết, có những kiểu liên kết sau:
+ Liên kết ngang: là liên kết các doanh nghiệp trong cùng một
ngành nghề kinh doanh. Hình thức này hiện không còn phổ biến do
các doanh nghiệp phải đáp ứng nhu cầu của thị trường ngày càng
phong phú, đa dạng và biến đổi nhanh chóng. Nếu áp dụng hình thức
này thì khó đem lại hiệu quả cao. Các chính phủ thường hạn chế hình
thức này vì nó dễ tạo ra xu hướng độc quyền, đi ngược nguyên tắc cơ
bản của kinh tế thị trường.
+ Liên kết dọc: là liên kết các doanh nghiệp trong cùng một dây
chuyền công nghệ. Hình thức này hiện vẫn còn phổ biến trên thế giới
vì chúng hoạt động có hiệu quả cao và có thể mở rộng hoạt động kinh
doanh sang nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên để phát triển theo hình
thức này cần phải có một công ty có tiềm lực về tài chính, có uy tín để
quản lý, kiểm soát và đảm bảo tín dụng cho cả tập đoàn. Không những
thế, công ty đó cần có mối liên hệ nhiều mặt và vững chắc với Nhà
nước, có thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ, có hệ thống
thông tin toàn cầu đủ khả năng xử lý và tổng hợp những thông tin về
thị trường. Vì vậy, các nước đang phát triển chỉ mới có khả năng hình
thành các tập đoàn chủ yếu ở lĩnh vực sản xuất và thương mại.
+ Liên kết hỗn hợp: là liên kết các doanh nghiệp trong nhiều
ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh kể cả những ngành, lĩnh vực không
có liên quan đến nhau. Hình thức này đang ngày được ưa chuộng trên
thế giới và trở thành xu hướng phát triển các tập đoàn hiện nay. Cơ
cấu tập đoàn bao gồm một ngân hàng hoặc một công ty tài chính lớn
và nhiều doanh nghiệp sản xuất, thương mại, trong đó hoạt động tài
chính, ngân hàng xuyên suốt, bao trùm mọi hoạt động kinh doanh của
tập đoàn.
-
Về trình độ liên kết, có những kiểu sau:
+ Liên kết mềm xuất phát từ châu Âu, đặc biệt là ở Đức vào thế
kỷ 19. Đây là hình thức tập đoàn của các doanh nghiệp độc lập, cùng
sản xuất, kinh doanh một loại sản phẩm hoặc dịch vụ. Họ hợp tác sản
xuất - kinh doanh với nhau thông qua một Hiệp định chung nhằm hạn
chế cạnh tranh bằng việc thống nhất về giá cả, dịch vụ, hoặc thoả
thuận về lượng sản phẩm tiêu thụ chung, giá nguyên liệu cung ứng.
Nguyên nhân thúc đẩy sự liên kết và liên minh giữa các doanh nghiệp
là do những thay đổi của nền kinh tế trong nước và trên thế giới, môi
trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các hoạt động kinh doanh không
ngừng mở rộng, đòi hỏi quy mô vốn lớn và trình độ công nghệ cao
hơn. Vì vậy, các doanh nghiệp liên kết lại để lợi dụng được ưu thế của
quy mô tập đoàn.
+ Liên kết cứng: Trong tập đoàn loại này, các doanh nghiệp
thành viên kết hợp trong tổ chức thống nhất và mất tính độc lập về tài
chính, sản xuất và thương mại. Tập đoàn được cấu tạo dưới hình thức
đa sở hữu theo kiểu công ty cổ phần với sự góp vốn của nhiều chủ sở
hữu khác nhau. Các doanh nghiệp thành viên hoạt động trong cùng
một ngành nghề hoặc có liên quan với nhau về chu kỳ công nghệ sản
xuất, bổ sung cho nhau trong quá trình sản xuất, kinh doanh liên tục,
thống nhất theo chiến lược chung của tập đoàn. Trong đó, công ty mẹ
có lợi thế nắm giữ cổ phần chi phối các công ty để giữ quyền lãnh
đạo, ra quyết định cho các doanh nghiệp khác.
+ Liên kết hỗn hợp: là sự liên kết của cả hai loại liên kết trên.
Đây là hình thức phát triển cao nhất của TĐKT. Tập đoàn được hình
thành trên cơ sở xác lập và kiểm soát thống nhất về tài chính. Các
doanh nghiệp thành viên chịu sự chi phối về tài chính của một công ty
gọi là công ty mẹ (Holding Company) thông qua quyền sở hữu cổ
phiếu. Hoạt động của cả tập đoàn và các công ty con được mở rộng ra
rất nhiều lĩnh vực từ tài chính đến hoạt động sản xuất, thương mại,
dịch vụ khác nhau và giữa các công ty con trong tập đoàn không nhất
thiết phải có mối liên hệ về sản phẩm, công nghệ hay kỹ thuật. Hình
thức liên kết này đang trở nên phổ biến.
-
Về hình thức biểu hiện có các kiểu sau3:
+ Cartel là một nhóm các nhà sản xuất độc lập về sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm nhưng có chung mục đích là tăng lợi nhuận chung
bằng cách thoả thuận thống nhất về giá cả, phân chia thị trường tiêu
thụ, nguyên liệu và các hạn chế khác nhằm hạn chế sự cạnh tranh. Đây
là hình thức liên kết theo chiều ngang. Cartel thường có mặt tại những
thị trường bị chi phối mạnh bởi một số loại hàng hoá nhất định, nơi có
ít người bán và thường đòi hỏi những sản phẩm có tính đồng nhất cao.
Nhược điểm của hình thức này là dễ bị tan vỡ do sản xuất và tiêu thụ
vẫn tiến hành độc lập nên một số thành viên có thể phá bỏ hợp đồng.
+ Syndicate là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản độc lập về
pháp lý nhưng không độc lập về thương mại mà có một ban quản trị
chung quản lý việc tiêu thụ sản phẩm. Đây là loại liên minh độc quyền
cao hơn, ổn định hơn so với Cartel.
+ Trust có quy mô lớn hơn Cartel và Syndicate. Các thành viên
tham gia hoàn toàn mất tính độc lập, họ chỉ là những công ty cổ phần.
3
Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư
+ Consortium là liên minh giữa các nhà tư bản độc quyền đa
ngành. Các thành viên tham gia có mối liên hệ với nhau về mặt kinh
tế, kỹ thuật. Công ty mẹ đầu tư vào các công ty khác thành công ty
con nhằm tạo thế lực tài chính mạnh để kinh doanh. Hình thức này
gồm cả liên kết dọc và liên kết ngang giữa các doanh nghiệp sản xuất
cùng loại sản phẩm.
+ Conglomerate là tập đoàn kinh doanh đa ngành, các công ty
thành viên có ít mối quan hệ hoặc không có mối quan hệ về công nghệ
nhưng có quan hệ chặt chẽ về tài chính. Tập đoàn này thực chất là một
tổ chức tài chính đầu tư vào các công ty kinh doanh để tạo ra một tổ
hợp doanh nghiệp tài chính - công nghiệp để hỗ trợ vốn đầu tư cho các
công ty thành viên hoạt động có hiệu quả.
+ Concern là một tổ chức TĐKT tồn tại dưới hình thức công ty
mẹ đầu tư vào các công ty con và điều hành hoạt động của tập đoàn.
Mục tiêu hình thành tập đoàn là tạo sức mạnh tài chính để phát triển
kinh doanh, hạn chế rủi ro, hỗ trợ mạnh mẽ nghiên cứu khoa học, ứng
dụng công nghệ mới, áp dụng phương pháp quản lý hiện đại. Các
công ty con hoạt động trong nhiều lĩnh vực như sản xuất, thương mại,
ngoại thương, dịch vụ có liên quan; chịu trách nhiệm hữu hạn trong
phạm hoạt động nhằm thực hiện lợi ích chung của tập đoàn thông qua
các hợp đồng kinh tế, các khoản vay tín dụng hoặc đầu tư. Mô hình
này được áp dụng phổ biến hiện nay do nó có nhiều tác dụng tích cực
trong việc thúc đẩy sự phát triển và liên kết giữa các thành viên.
+ Tập đoàn đa quốc gia (MNC) là sự liên kết giữa các đơn vị sản
xuất khác nhau trên quy mô quốc tế, theo chiều dọc thay theo chiều
ngang, dưới hình thức trực tiếp trong sản xuất hay gián tiếp qua lĩnh
vực lưu thông. Đó là biểu hiện của quá trình phân công lao động và xã
hội hoá nền sản xuất trên quy mô quốc tế. Về hình thức, chúng có một
công tymẹ đặt trụ sở ở một quốc gia tư bản phát triển và thường mang
quốc tịch của nước đó và có nhiều công ty chi nhánh phụ thuộc vào
công ty mẹ ở nước ngoài.
+ Tập đoàn xuyên quốc gia (TNC): Trong những thập kỷ gần
đây, việc hợp nhất hay liên kết các doanh nghiệp đã vượt ra khỏi biên
giới một quốc gia dẫn đến việc hình thành tập đoàn xuyên quốc gia.
Cơ cấu tổ chức của tập đoàn này gồm có công ty mẹ thuộc sở hữu của
các nhà tư bản nước chủ nhà và hệ thống các công ty con ở nước
ngoài và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau chủ yếu về tài chính, công nghệ,
kỹ thuật. Các công ty con ở nước ngoài có thể mang hình thức công ty
100% vốn nước ngoài, cũng có thể mang hình thức công ty hỗn hợp,
công ty liên doanh với hình thức công ty cổ phần. Tuy nhiên, dù dưới
hình thức nào thì các công ty con đó thực chất cũng là những bộ phận
của một tổ hợp, quyền kiểm soát chủ yếu về đầu tư, sản xuất kinh
doanh vẫn thuộc về những nhà tư bản nước mẹ.
-
Về kiểu liên kết và tổ chức: tổ chức liên kết trong hầu hết các
TĐKT đều thông qua mối liên kết chính yếu là liên kết công ty mẹ công ty con. Công ty mẹ đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn chi phối
vào các công ty con. Công ty con có tư cách pháp nhân, hạch toán độc
lập với công ty mẹ. Mối liên kết được duy trì hoặc chấm dứt qua việc
công ty mẹ tiếp tục duy trì hay rút vốn đầu tư vào công ty con. Hầu
hết các công ty mẹ thường nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động
của các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển.
Dù là liên minh như thế nào thì khi các doanh nghiệp liên kết lại
với nhau đều mang lại lợi ích cơ bản như: tăng vốn đầu tư cho nghiên
cứu và phát triển sản phẩm; giảm thời gian thâm nhập thị trường và
chu kỳ sống của sản phẩm; khả năng đóng góp các kỹ năng và tài sản
bổ sung mà không một công ty nào có thể dễ dàng tự mình phát triển;
tiếp cận với kiến thức và kinh nghiệm từ bên ngoài; nhanh chóng đạt
được quy mô, khối lượng và tạo đà phát triển; mở rộng kênh phân
phối và thị trường quốc tế.
2. Nguyên tắc tạo lập TĐKT
Việc phát triển TĐKT dựa trên nguyên tắc hiệu quả, tư nguyện
và theo quy luật của thị trường. Các nguyên tắc đó là:
Phù hợp với chính sách và chiến lược phát triển kinh tế của
Nhà nước. Việc hình thành TĐKT phải có tác động tích cực tới điều
chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Trước hết cần hình thành
tập đoàn trọng điểm có khả năng thúc đẩy các ngành sản xuất khác
phát triển, tác động tích cực tới việc nghiên cứu và triển khai sản xuất
các mặt hàng chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường.
Khuyến khích cạnh tranh, hạn chế độc quyền: đảm bảo
cạnh tranh lành mạnh, nghiêm cấm các hoạt động lũng đoạn thị trường
hoặc phong toả theo khu vực.
Phân định rõ chức năng quản lý kinh doanh với các chức
năng quản lý hành chính. Công ty mẹ của tập đoàn không thể thực
hiện cả hai chức năng quản lý kinh doanh và quản lý hành chính. Tập
đoàn cần xác định không phải là cơ quan quản lý nhà nước cũng
không phải là hiệp hội ngành nghề mà là một tổ chức kinh tế. Mối
quan hệ giữa công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên được thiết
lập trên cơ sở giữ cổ phần hoặc quan hệ kỹ thuật sản xuất, không phải
là quan hệ hành chính.
Thực hiện nguyên tắc đầu tư tự nguyện. Việc hình thành
TĐKT phải tuân theo các quy luật kinh tế, không thể lắp ghép bằng
mệnh lệnh hành chính, phải tuân theo phương thức tự nguyện đóng
góp cổ phần, tham gia cổ phần của người đầu tư, với sợi dây liên kết
giữa các doanh nghiệp chủ yếu là vốn. Như vậy mới đảm bảo các mối
quan hệ rõ ràng trong nội bộ tập đoàn và ổn định cơ cấu tổ chức của
tập đoàn.
Tóm lại, nguyên tắc hình thành TĐKT là cùng có lợi, tự do tham
gia và rút khỏi tập đoàn, chống độc quyền trong hoạt động.
3. Một số mô hình TĐKT của các nước trên thế giới
3.1 Mô hình Keiretsu của Nhật Bản
Trước Chiến tranh Thế giới thứ II, nền công nghiệp Nhật Bản bị
kiểm soát bởi các tập đoàn lớn gọi là Zaibatsu. Đến những năm 40 của
thế kỷ XX, các liên minh (Alliance) đã phá bỏ các Zaibatsu, nhưng
các công ty được thành lập đã phá bỏ các Zaibatsu lại liên kết với
nhau thông qua việc mua cổ phần để hình thành nên các liên minh liên
kết theo chiều ngang giữa nhiều ngành nghề khác nhau. Từ đây
Keiretsu ra đời. Do sở hữu cổ phần lẫn nhau và chịu ảnh hưởng của
một ngân hàng và công ty thương mại chung, nên các doanh nghiệp
trong Keiretsu thường có chiến lược kinh doanh giống nhau, phát huy
khả năng hợp tác, tương trợ, đặc biệt là khi gặp khó khăn về tài chính.
Bên cạnh đó, các công ty thành viên còn chia sẻ với nhau những bí
quyết kinh doanh, kinh nghiệm quản lý và các cách thức tiếp thị, thâm
nhập thị trường.
Mỗi Keiretsu lớn thường lấy một ngân hàng làm trung tâm.
Ngân hàng này cung cấp tín dụng cho các công ty thành viên của
Keiretsu và nắm giữ vị thế về vốn trong các công ty. Mỗi một ngân
hàng trung tâm có vai trò kiểm soát rất lớn đối với các công ty trong
Keiretsu và hành động với tư cách là một tổ chức giám sát và hỗ trợ
tài chính trong các trường hợp khẩn cấp. Một trong những tác động
của cơ cấu này là giảm thiểu sự hiện diện của những người tiếp quản
đối lập ở Nhật Bản, bởi vì không một thực thể kinh doanh nào muốn
đối đầu với sức mạnh kinh tế của các ngân hàng.
Trên thực tế có hai loại Keiretsu: Keiretsu liên kết dọc và
Keiretsu liên kết ngang. Keiretsu liên kết dọc là điển hình của tổ chức
và mối quan hệ như trong một công ty (từ khâu sản xuất, cung ứng
nguyên vật liệu đến tiêu thụ sản phẩm trong một ngành nghề nhất
định). Các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu hoạt động như là
những vệ tinh xoay quanh các nhà máy sản xuất lớn trên cơ sở chia sẻ
về công nghệ, thương hiệu và quy trình tổ chức kinh doanh. Mối liên
kết giữa các doanh nghiệp này được thiết lập dựa trên lợi ích kinh tế,
đồng thời là sự ràng buộc về niềm tin và sự trung thành nên rất bền
chặt.
Trong khi đó, Keiretsu liên kết ngang thể hiện mối quan hệ giữa
các thực thể, thông thường xoay quanh một ngân hàng và một công ty
thương mại (thường gồm nhiều doanh nghiệp hoạt động trong các
ngành nghề khác nhau). Sau chiến tranh, Nhật Bản có 6 Keiretsu liên
kết ngang khổng lồ trong ngành công nghiệp gồm: Mitsubishi, Mitsu,
Sumitomo, Dai – Ichi Kangyo, Fuyo và Sanwa. Thời kỳ suy thoái của
Nhật Bản vào những năm 1990 đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các
Keiretsu. Nhiều ngân hàng lớn đã chịu sự tác động mạnh mẽ bởi các
khoản nợ xấu và buộc phải sáp nhập hoặc đi đến phá sản. Từ đó mà có
sự ra đời của Sumitomo Mitsui Banking Corporation vào năm 2001 là
sự kết hợp của Ngân hàng Sumitomo và Ngân hàng Mitsui. Trong khi
đó, Ngân hàng Sanwa (Ngân hàng thuộc Hankyu – Toho Group) trở
thành một phần của Ngân hàng Tokyo – Mitsubishi UFJ.
Các Keiretsu ở Nhật Bản rất chú ý đến việc lựa chọn đội ngũ các
nhà quản trị. Các TĐKT thường thích bổ nhiệm các nhà quản trị là
người ngay tại địa phương bởi nhà quản trị địa phương thông hiểu
những điều kiện hoạt động và môi trường kinh doanh ở địa phương.
Hơn nữa, người địa phương có thể tập trung vào các hoạt động nhằm
phục vụ cho mục tiêu dài hạn của tập đoàn mình sao cho phù hợp với
địa phương. Với cách thức này, các tập đoàn Nhật Bản chỉ cần điều
động một số ít chuyên gia ra nước ngoài để truyền đạt những kỹ năng
chuyên môn cần thiết và cách thức tiến hành các hoạt động kinh doanh
chính yếu, đồng thời kiểm soát các hoạt động ở nước ngoài và phát
triển năng lực cho nhà quản trị.
3.2 Mô hình Cheabol ở Hàn Quốc
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế Hàn Quốc đã có
bước phát triển vượt bậc. Một trong những nhân tố làm nên những kỳ
tích về kinh tế của Hàn Quốc chính là các doanh nghiệp nói chung và
các Cheabol nói riêng với những chiến lược kinh doanh táo bạo và đầy
tham vọng. Các Cheabol bắt đầu phát triển mạnh từ những năm 1950
-1960 theo mô hình công ty mẹ là công ty sở hữu thương hiệu (Brand
name) và thực hiện chức năng đầu tư tài chính. Các công ty con có
mối quan hệ liên kết về tài chính, chiến lược kinh doanh và sự điều
phối chung trong hoạt động với công ty mẹ, ví dụ như Samsung,
Daewoo hay LG.
Đặc trưng của Cheabol là toàn bộ các công ty thành viên thường
do một hoặc một số ít gia đình sáng lập và nắm giữ cổ phần chi phối.
Vì vậy việc quản lý điều hành trong các Cheabol mang đậm màu sắc
gia tộc. Đó cũng là điều khác biệt cơ bản của tập đoàn Hàn Quốc với
các nước công nghiệp phát triển khác. Chủ tịch hội đồng quản trị là
người có quyền lãnh đạo tối cao và thường là cổ đông lớn nhất của tập
đoàn. Mỗi tập đoàn đều có câu lạc bộ chủ tịch (Presidents Club) bao
gồm các chủ tịch là đại diện công ty mà chủ tịch đó nắm vốn. Về mặt
pháp lý, Cheabol không phải là một pháp nhân và không phải là một
thực thể hữu hình. Các hoạt động kinh doanh đều thực hiện thông qua
các công ty thành viên. Tuy nhiên cái bóng vô hình của Cheabol bao
trùm lên mọi hoạt động giao dịch kinh doanh của công ty thành viên
chính là sự thống nhất về chiến lược kinh doanh, sự tập trung và phân
bổ các nguồn lực một cách linh hoạt, phù hợp với từng trường hợp cụ
thể.
Các tập đoàn ở Hàn Quốc và Nhật Bản đều xuất phát điểm từ
lĩnh vực sản xuất công nghiệp và mở rộng dần ra các lĩnh vực khác.
Từ sản xuất điện tử, ôtô đến các sản phẩm công nghiệp nặng như khai
thác mỏ, tàu biển, hoạt động thương mại, dịch vụ, các sản phẩm tiêu
dùng và cuối cùng là lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm.
3.3 Mô hình Jituan Gongsi ở Trung Quốc
Trung Quốc có kế hoạch chuẩn bị thành lập TĐKT từ những
năm 80 của thế kỷ XX với hai đợt thí điểm thành lập 120 tập đoàn
doanh nghiệp vào các năm 1991 và 1997. Nhà nước Trung Quốc đã
tạo ra khung pháp lý cho tập đoàn doanh nghiệp ra đời và phát triển.
Quá trình này bắt đầu bằng việc sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước
thành những tổng công ty lớn. Cho đến khi đạt đến một quy mô nhất
định nào đó, Tổng công ty sẽ phân quyền kinh doanh cho các doanh
nghiệp thành viên nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành. Tiếp
theo là giai đoạn đa dạng hóa sở hữu và hình thức nắm giữ cổ phần
đan chéo giữa các doanh nghiệp thành viên thông qua việc cổ phần
hoá và giảm tỷ lệ cổ phần của Nhà nước. Và cuối cùng là thực hiện
các biện pháp thu hút đầu tư vốn và chuyển giao công nghệ từ các đối
tác nước ngoài nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
Các TĐKT của Trung Quốc tồn tại chủ yếu trên cơ sở các hình
thức sau:
Hình thức thứ nhất là TĐKT tổng hợp nhiều cấp. Đây là loại tập
đoàn doanh nghiệp nắm trong tay nhiều lĩnh vực như khoa học công
nghệ, thương mại, tài chính, dịch vụ và lấy vốn làm nút liên kết chủ
yếu. Chúng được tổ chức thành bốn cấp, thực hiện nhất thể hoá kinh
doanh bằng cách thôn tính, sáp nhập, xoá bỏ tư cách pháp nhân của
các doanh nghiệp cũ lập ra Tập đoàn doanh nghiệp trong đó công ty
có tư cách pháp nhân làm nòng cốt (công ty mẹ) bằng cách nắm giữ cổ
phần khống chế, thầu khoán, thuê các doanh nghiệp có liên quan.
Doanh nghiệp nòng cốt sẽ nắm quyền lãnh đạo đối với các doanh
nghiệp này trong việc đưa ra các quyết sách về nhân lực, vật lực, sản
xuất, cung ứng, tiêu thụ… biến chúng thành những doanh nghiệp cấp
dưới trực tiếp (tức là công con) của tập đoàn. Các doanh nghiệp này
vẫn bảo lưu tư cách pháp nhân của chúng, tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh một cách độc lập tương đối. Tóm lại, tập đoàn doanh
nghiệp này phần nhiều là các tổ chức liên hiệp giữa các pháp nhân
doanh nghiệp. Nó giúp điều chỉnh kết cấu tổ chức doanh nghiệp, bổ
sung lợi thế cho nhau, sử dụng hiệu quả, hợp lý các yếu tố sản xuất,
kinh doanh đa dạng, cùng có lợi.
Hình thức thứ hai là Tập đoàn theo mô hình liên kết dây chuyền.
Loại này chủ yếu là tổ chức liên hiệp lỏng lẻo, lấy sản xuất làm nút
liên kết. Chúng thường lấy một doanh nghiệp lớn làm nòng cốt của
Tập đoàn, lấy sản phẩm nổi tiếng độc đáo của Tập đoàn này làm đặc
trưng, áp dụng hình thức chuyên môn hoá, hiệp tác sản xuất, kinh
doanh thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Hình thức thứ ba là Tập đoàn phối hợp đồng bộ. Loại tập đoàn
này lấy hợp đồng nhận thầu công trình làm nút liên kết. Chúng hình
thành chủ yếu dựa vào một số doanh nghiệp công nghiệp lớn, đơn vị
nghiên cứu, thiết kế, lấy việc liên doanh nhận thầu đồng bộ hạng mục
công trình lớn làm hình thức chủ yếu. Dưới sự lãnh đạo của hội đồng
giám đốc, doanh nghiệp đầu đàn loại lớn tổ chức thành công ty liên
doanh thống nhất, mạnh, lập ra các đơn vị thành viên có tư cách pháp
nhân nhằm đạt được mục tiêu và lợi ích chung.
Hình thức thứ tư là Tập đoàn hoà nhập nghiên cứu khoa học với
sản xuất kinh doanh, lấy liên kết phát triển kỹ thuật làm nút liên kết.
Loại tập đoàn này lấy những đơn vị nghiên cứu khoa học trong cùng
ngành hoặc xí nghiệp công nghiệp lớn làm chủ thể, bổ sung cho nhau
lợi thế khoa học - kỹ thuật và vốn nhằm phát triển sản phẩm kỹ thuật
cao từ đó chế tạo sản phẩm có giá trị cao, nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Hình thức thứ năm là Tập đoàn liên kết mạng lưới cùng ngành:
Đây là hình thức biến tướng của những liên hiệp xí nghiệp đặc biệt lớn
có cùng ngành nghề.
Hình thức thứ sáu là Tập đoàn theo mô hình cổ phần: Loại tập
đoàn này lấy công ty của Nhà nước có thực lực rất mạnh nắm giữ cổ
phần khống chế làm doanh nghiệp nòng cốt. Toàn bộ tập đoàn lấy tài
sản dưới hình thức cổ phần làm nút liên kết, hình thành thể liên hợp
các pháp nhân, triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh theo hình
thức cổ phần.
Chiến lược hoạt động tác nghiệp của các Tập đoàn doanh nghiệp
Trung Quốc là đa dạng hoá, sản xuất kinh doanh theo chiều sâu và
tiến tới quốc tế hoá. Các Tập đoàn doanh nghiệp không chỉ là những
Tập đoàn xuyên vùng, xuyên ngành gồm nhiều hình thức sở hữu mà
còn nhiều hình thức, nhiều chức năng sản xuất, thương mại, nghiên
cứu khoa học, vận tải, tài chính, dịch vụ…Những năm gần đây, với
ảnh hưởng mạnh mẽ của xu hướng mở cửa, hội nhập, các Tập đoàn
doanh nghiệp Trung Quốc nhanh chóng vươn ra thị trường thế giới. Ví
dụ: Công ty Gang thép Bắc Kinh đã mua 70% cổ phần của Công ty
công trình Mácta (Mỹ) – một xí nghiệp luyện kim nổi tiếng thế giới,
tạo nên một ưu thế mới trong cạnh tranh quốc tế; Công ty đầu tư tín
dụng quốc tế của Trung Quốc hợp tác với ba công ty của Nhật Bản lập
ra Công ty thương mại tại Tokyo; Ngân hàng Trung Quốc bắt tay với
Ngân hàng nước ngoài lập ra Doanh nghiệp tài chính ở Hồng Kông.
Cùng với chính sách mở cửa, cải cách rất thông thoáng như hiện
nay, đồng thời với việc Trung Quốc ra nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), chắc chắn các Tập đoàn doanh nghiệp Trung Quốc sẽ
còn tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc trên con đường hội nhập quốc
tế của mình.
II. Tập đoàn tài chính và sự hình thành Tập đoàn tài chính
1. Tập đoàn tài chính và xu thế hình thành, phát triển Tập
đoàn tài chính
Cũng như TĐKT, TĐTC hiện chưa được đĩnh nghĩa một cách
chính thống. Tuy nhiên, qua thực tế và qua những nghiên cứu, chúng
ta có thể hiểu: TĐTC là một thực thể kinh tế gồm một số doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính (ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm và các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động
tài chính); mỗi thành viên tập đoàn là những pháp nhân độc lập,
trong đó có một doanh nghiệp làm nòng cốt. Các tập đoàn đều được
thành lập một cách tự nguyện trên cơ sở các liên kết về vốn và hoạt
động kinh doanh nhằm cung cấp trọn gói các sản phẩm, dịch vụ tài
chính cho khách hàng và tăng cường khả năng cạnh tranh trước xu thế
toàn cầu hoá.
Xu thế hội nhập và sự phát triển như vũ bão của khoa học công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và sự nới lỏng các quy định pháp
lý về tài chính - ngân hàng là nguyên nhân chính thúc đẩy quá trình
hình thành và phát triển của các TĐTC. Khi phát triển đến mức độ
- Xem thêm -