Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ nông dân tại chi nhánh nhno & ...

Tài liệu Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ nông dân tại chi nhánh nhno & ptnt huyện bố trạch, tỉnh quảng bình

.PDF
89
399
112

Mô tả:

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Có thể khẳng định rằng với hơn 70% dân số và lao động sống và làm việc ở khu vực nông nghiệp nông thôn, thì kinh tế nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng đối với sự phát triển đi lên của đất nước. Chính vì vậy, việc phát triển nông nghiệp nông thôn trong đó có hộ nông dân là lực lượng nòng cốt luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Điều này thể hiện rõ từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V với đường lối: “Đưa nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu để làm nền tảng, tiền đề cho sự nghiệp CNH – HĐH đất nước”. Và sau khi có Chỉ thị 100 và Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (1988) và Luật đất đai (1992), hộ nông dân trở thành đơn vị sản xuất kinh tế tự chủ. Từ đó cho đến nay kinh tế hộ ngày càng phát triển mạnh mẽ và trở thành thành phần kinh tế cơ sở quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, do điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu cũng như trình độ kỹ thuật của hộ nông dân còn thấp, tình hình khủng hoảng kinh tế trong nước và thế giới trong vài năm trở lại đây đã gây ra rất nhiều khó khăn, làm chậm tốc độ phát triển của kinh tế hộ. Xác định được điều này, Đảng và Nhà nước đã và đang thực thi nhiều chính sách, biện pháp nhằm hỗ trợ cho kinh tế hộ phát triển, đặc biệt là các biện pháp để giải quyết khó khăn về nguồn vốn cho hộ sản xuất thông qua hệ thống tín dụng nông thôn, trong đó có Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNo & PTNT). Ngày 28/06/1991, cho vay hộ sản xuất được Chính phủ chính thức hóa khuôn khổ pháp lý thông qua Chỉ thị 202/CP. Điều này đã tạo điều kiện cho ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng nông nghiệp nói riêng thí điểm mở rộng và từng bước hoàn thiện cơ chế cho vay kinh tế HND, đa dạng hóa trong đầu tư. Từ chổ chỉ cho vay các doanh nghiệp, Ngân hàng đã mở rộng đầu tư cho các hộ nông dân. Trong quá trình đầu tư vốn đã khẳng định được hiệu quả của đồng vốn cho vay và khả năng quản lý, sử dụng vốn của các hộ gia đình trong quá trình sản xuất kinh doanh, mở rộng thêm nghành nghề, tăng sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho gia đình và hoàn trả được vốn cho Nhà nước. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại trong cơ chế chính sách, hành lang pháp lí và những tác động của cơ chế thị trường, đòi hỏi các cấp các ngành tiếp tục tháo gỡ khó khăn để đáp ứng kịp thời có hiệu quả nhu cầu về vốn cho HND phát triển kinh tế. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 1 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính Là một chi nhánh của Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Bình, NHNo & PTNT huyện Bố Trạch cũng đã có những chuyển biến lớn về cơ cấu tài chính để đáp ứng nhu cầu về nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh của hộ nông dân, tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn, mạng lưới hoạt động của NHNo&PTNT huyện Bố Trạch ngày càng được mở rộng, góp phần lớn vào việc giải quyết vấn đề về vốn, thúc đẩy quá trình phát triển của nền kinh tế địa phương huyện Bố Trạch. Tuy nhiên Ngân hàng vẫn còn tồn tại một số nhược điểm như: mặt bằng dư nợ chưa đảm bảo yêu cầu tài chính cũng như trong toàn ngành, việc mở rộng cho vay vốn đối với hộ nông dân gặp nhiều khó khăn do khoản vay nhỏ, hơn nữa đối tượng vay gắn liền với điều kiện thời tiết nên ảnh hưởng rất lớn đến đồng vốn vay, khả năng rủi ro luôn tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó, khả năng tiếp cận nguồn vốn của hộ nông dân vẫn còn bị hạn chế bởi trình độ hiểu biết, khả năng nhận thức về việc sử dụng vốn và bị ràng buộc bởi nhiều quy định, thủ tục rườm rà, chi phí vay vốn cao. Với chủ trương công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới thì nhu cầu vay vốn của hộ nông dân ngày càng lớn nên hoạt động kinh doanh Ngân hàng trong lĩnh vực cho vay hộ nông dân sẽ có nhiều rủi ro. Bởi vậy mở rộng tín dụng phải đi kèm với việc nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Có như vậy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mới thực sự trở thành “đòn bẩy” thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nhận thức được những vấn đề trên và xuất phát từ những luận cứ và thực tiễn qua khảo sát cho vay vốn đến hộ nông dân tại NHNo & PTNT huyện Bố Trạch, em chọn đề tài: “Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ nông dân tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình” để nghiên cứu sâu hơn vấn đề tín dụng đối với hộ nông dân ở khía cạnh hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 1. Góp phần hệ thống hóa cơ sở Khoa học những vấn đề lý luận về tín dụng nông nghiệp, nông thôn và hiệu quả cho vay vốn đối với hộ sản xuất. 2. Đánh giá thực trạng và hiệu quả cho vay vốn đối với hộ sản xuất tại địa bàn NHNo & PTNT Bố Trạch. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 2 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính 3. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay vốn đối với hộ sản xuất từ NHNo & PTNT Bố Trạch. 4. Đề xuất giải pháp tín dụng chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất từ NHNo & PTNT Bố Trạch. 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là NHNo&PTNT và các hộ nông dân vay vốn tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. 3.2 Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. - Về thời gian: Số liệu tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội của huyện từ năm 2007 – 2009 và số liệu tình hình cho vay của tổ chức tín dụng trên địa bàn huyện và số liệu điều tra từ năm 2007 – 2009. 3.3 Phương pháp nghiên cứu 3.3.1 Phương pháp điều tra Phương pháp này giúp đề tài nắm được tình hình, đánh giá phân tích các mối quan hệ tương quan cụ thể, từ đó rút ra những kết luận ban đầu giúp cho việc nghiên cứu đề tài được sâu sắc hơn. Các phương pháp điều tra đã sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài này: + Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu sơ cấp: Để có được số liệu sơ cấp, em tiến hành phỏng vấn chi tiết 60 hộ ở 2 xã Lý Trạch và Đức Trạch của huyện Bố Trạch. Các hộ được chọn điều tra là các hộ sản xuất nông nghiệp và chọn mẫu điều tra một cách ngẫu nhiên từ danh sách khách hàng vay vốn của NHNo&PTNT Bố Trạch. Nội dung điều tra được phản ánh qua phiếu điều tra được xây dựng sẵn. Số liệu thứ cấp: Các bảng số liệu từ NHNo&PTNT, niên giám thống kê huyện, các tài liệu, báo cáo của NHNo&PTNT Bố Trạch), từ Internet. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 3 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính + Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo: Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã trao đổi, tham khảo ý kiến của các cán bộ tín dụng, những người vay vốn ở địa phương... để hoàn thiện nội dung và kiểm chứng kết quả nghiên cứu. 3.3.2 Công cụ và phương pháp xử lý số liệu + Phương pháp thống kê mô tả. + Các số liệu thu thập được xử lý trên nền Excel để từ đó em tiến hành phân tích và đánh giá số liệu. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 4 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: TÍN DỤNG HỘ NÔNG DÂN VÀ VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NÔNG DÂN 1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1 Hộ nông dân và vai trò của kinh tế hộ nông dân trong sự phát triển nông nghiệp và nông thôn. 1.1.1.1 Khái niệm hộ nông dân Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả nghề rừng, nghề cá, và hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn. Trong các hoạt động phi nông nghiệp khó phân biệt các hoạt động có liên quan với nông nghiệp và không có liên quan với nông nghiệp. Cho đến gần đây có một khái niệm rộng hơn là hộ nông thôn, tuy vậy giới hạn giữa nông thôn và thành thị cũng là một khái niệm tương đối và là một vấn đề còn tranh luận. Ngoài ra, trong cuốn “Kinh tế hộ nông dân” của GS – TS Đào Thế Tuấn (1997), khái niệm hộ nông dân được định nghĩa tương đối đầy đủ như sau: "Hộ nông dân là các nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một trình độ hoàn chỉnh không cao" (Ellis - 1988). Có thể nói, hộ nông dân là một tổ chức kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động, sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh, tự tổ chức sản xuất kinh doanh theo định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước, của địa phương và theo quy định của pháp luật Nhà nước. Hộ nông dân không chỉ độc lập tự chủ về kinh doanh mà còn tự chủ trong quản lý và tiêu thụ sản phẩm. Do đó họ luôn luôn tích cực khai thác tiềm năng, trí tuệ và năng lực sản xuất của mình để tổ chức hoạt động kinh tế một cách phong phú đa dạng, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa. Từng bước nâng cao đời sống, mở rộng sản xuất, tăng tích lũy cho chính bản thân mình và cho chính xã hội. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 5 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính 1.1.1.2 Đặc điểm hộ nông dân Hộ nông dân là bộ phận quan trọng hợp thành tổng thể nền kinh tế quốc dân, có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành kinh tế quốc dân khác và có những đặc điểm sau: Thứ nhất: Hộ nông dân là một đơn vị tự sản tự tiêu. Nghĩa là: hộ nông dân vừa là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng. Thứ hai: Đối tượng sản xuất phát triển hết sức phức tạp và đa dạng, chi phí sản xuất thường là thấp, vốn đầu tư có thể trải đều. Trong quá trình sản xuất của hộ mang tính thời vụ, cùng một lúc có thể kinh doanh sản xuất nhiều loại cây trồng, vật nuôi hoặc tiến hành các ngành nghề khác lúc nông nhàn, vì vậy thu nhập cũng rãi đều, đó là yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển toàn diện. Thứ ba: Trình độ sản xuất của hộ ở mức thấp, chủ yếu là sản xuất thủ công, máy móc có chăng cũng còn ít, giản đơn, tổ chức sản xuất mang tính tự phát, quy mô nhỏ không được đào tạo bài bản. Thứ tư: Kinh tế hộ nói chung đều gặp nhiều khó khăn trong quá trình tiêu thụ sản phẩm: sản phẩm làm ra nhưng không tìm được nguồn tiêu thụ, nhiều chủ hộ kinh doanh không những không thu được lãi mà còn bị thâm hụt cả vốn. Nguyên nhân chính là sản phẩm kinh tế hộ nông dân có chất lượng không cao, chi phí sản xuất lớn do công nghệ và thiết bị lạc hậu, trình độ tay nghề thấp, kinh nghiệm kinh doanh và trình độ quản lý của chủ hộ còn hạn chế. Hơn nữa họ lại thiếu thông tin về nhu cầu, chủng loại, mẫu mã, thị hiếu của người tiêu dùng do chưa có một hệ thống chính thức hỗ trợ tiếp cận thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, thị trường cung cấp đầu vào là nguyên vật liệu cũng như giá cả không phải lúc nào cũng ổn định. Chính vì vậy kinh tế hộ cần có sự hỗ trợ bằng các chính sách của Nhà nước như chính sách tăng cường đầu tư, chính sách tiêu thụ nông sản hàng hóa với chính sách giá bảo hộ sản xuất nông nghiệp. 1.1.1.3 Vai trò của hộ nông dân đối với nền kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn. Xuất phát từ đặc điểm của hộ sản xuất đã nêu ở trên thì hộ sản xuất có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế nước ta: SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 6 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính Thứ nhất: Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hóa. Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa trên quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn, giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển. Thứ hai: Kinh tế hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn. Nguồn lao động dồi dào, giá rẽ là một trong những điều kiện thuận lợi của Việt Nam trong quá trình hội nhập với nền kinh tế Thế giới. Kinh tế hộ sản xuất có ưu thế là mức đầu tư cho một lao động thấp, quy mô sản xuất nhỏ. Tích lũy trong nước còn ít thì với đặc điểm trên, kinh tế hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế phù hợp, nâng cao thu nhập cho lực lượng lao động trong cả nước nói chung và nông thôn nói riêng. Thứ ba: Kinh tế hộ sản xuất nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng đất đai, tài nguyên, công cụ lao động. Việc giao quyền sử dụng, quản lý lâu dài đất đai, tài nguyên cho hộ sản xuất đã tạo ra động lực mới thúc đẩy các hộ chăm lo sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên. Thứ tư: Khả năng thích ứng với cơ chế thị trường, thúc đẩy sản xuất hàng hóa của nền kinh tế hộ. Trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh, các đơn vị kinh tế tự chủ nói chung, các hộ sản xuất nói riêng muốn tồn tại và phát triển thì phải không những mở rộng sản xuất, thường xuyên nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu thị trường, phải kết hợp với việc hạ giá thành sản phẩm, hạ giá bán để kích thích nhu cầu người tiêu dùng. Chính vì vậy, hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế năng động, hiệu quả, có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường. Thứ năm: Tạo ra sản phẩm cho xã hội, đóng góp cho ngân sách Nhà nước, nâng cao đời sống nhân dân. Hàng năm kinh tế hộ nông dân đóng khoảng trên 40% giá trị tổng sản phẩm cho xã hội. Ngoài ra, hộ nông dân còn góp một phần đáng kể cho thu nhập hàng năm của ngân sách Nhà nước thông qua các hình thức đóng góp bằng thuế. 1.1.2 Lý luận chung về Tín dụng ngân hàng và Tín dụng hộ nông dân 1.1.2.1 Khái niệm tín dụng Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì: “Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 7 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng và sau đó hoàn trả lại một lượng giá trị lớn hơn”. Trong các giai đoạn và thời kỳ phát triển khác nhau của nền sản xuất hàng hóa do có nhiều điều kiện tác động khác nhau nên có nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Đề tài này chỉ nghiên cứu về tín dụng ngân hàng “Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng được thực hiện thông qua hoạt động huy động vốn và cho vay vốn theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi theo một thời hạn nhất định giữa một bên là Ngân hàng và một bên là các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức xã hội và dân cư”. Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng ngân hàng giữa một bên là Ngân hàng với một bên là nông hộ. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong quan hệ xã hội, có thừa kế, có quyền sở hữu tài sản, có phương án kinh doanh hiệu quả, có tài sản thế chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện để hộ sản xuất đáp ứng được điều kiện vay vốn của Ngân hàng. 1.1.2.2 Các hình thức Tín dụng ngân hàng Có nhiều cách phân loại tín dụng Ngân hàng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của Ngân hàng. Thông thường có 03 cách phân loại sau:  Căn cứ vào thời hạn tín dụng: Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời của các Doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu cá nhân. Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ một đến năm năm, loại tín dụng này được sử dụng mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ. Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm và thường có thời gian thu hồi vốn nhanh. Được sử dụng cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng... cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô.  Căn cứ vào mục đích sử dụng: Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: Là loại cấp phát tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho các Doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất hàng hóa. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 8 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính Tín dụng tiêu dùng: Là loại cấp phát tín dụng cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Tín dụng này cấp phát dưới hình thức bằng tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hóa. Việc cấp tín dụng bằng tiền do Ngân hàng và Quỹ tiết kiệm, còn tín dụng bằng hàng hóa được các Công ty và cửa hàng thực hiện.  Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: Tín dụng không đảm bảo: Thường được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên và có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc khoản vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Trong trường hợp này, Ngân hàng cấp vốn cho khách hàng mà không cần có tài sản thế chấp hay người bảo lãnh. Tín dụng có đảm bảo: Đòi hỏi phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba, thường được áp dụng đối với những khách hàng không có uy tín đối với Ngân hàng. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. 1.1.2.3 Đặc điểm của Tín dụng hộ nông dân Tín dụng hộ nông dân là mối quan hệ tín dụng được thiết lập giữa bên cho vay là Ngân hàng và bên đi vay là Hộ nông dân, thực hiện theo những điều kiện thỏa thuận giữa hai bên. Tín dụng hộ nông dân có những đặc điểm sau: Thứ nhất: Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp quyết định thời điểm cho vay và thu nợ của Ngân hàng. Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là những sinh vật sống – chủ yếu là cây trồng và vật nuôi. Khác với các ngành sản xuất khác, chu kỳ sản xuất nông nghiệp tương đối dài và mang tính chất thời vụ. Thu nhập chỉ được tạo ra vào cuối mùa vụ, và đến lúc này người nông dân mới có khả năng bù đắp chi phí, hoàn trả vốn tín dụng Ngân hàng và tích lũy. Vì vậy đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển vốn tín dụng hộ nông dân phụ thuộc vào tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Thứ hai: Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến thu nhập và khả năng trả nợ của khách hàng. Nguồn trả nợ của Ngân hàng chủ yếu là tiền thu từ bán nông sản và các sản phẩm chế biến có liên quan đến nông sản. Như vậy sản lượng nông sản thu được là SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 9 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính yếu tố quyết định khả năng trả nợ của khách hàng. Mà sản lượng nông sản chịu ảnh hưởng rất lớn từ sự thay đổi của thiên nhiên như: thời tiết khí hậu, lượng mưa... Do vậy, tín dụng hộ nông dân thường chịu nhiều rủi ro hơn, khả năng thu hồi vốn khó hơn so với các loại tín dụng khác. Bên cạnh đó, hộ nông dân thường có thu nhập thấp, thiếu nguồn lực sản xuất, khả năng nhận thức thấp và họ thường dễ bị tổn thương vì không có tiếng nói riêng của mình trong cộng đồng nên đã ảnh hưởng đến quá trình tập trung vốn và thu hồi nợ của Ngân hàng. Đặc điểm dễ bị tổn thương phần nào ảnh hưởng đến việc chủ động vay vốn của người dân. Cảm giác lo sợ khi đến các trụ sở cơ quan, chính quyền địa phương, và e ngại khi vay vốn sẽ không có khả năng hoàn trả nên hộ cho rằng với nguồn thu nhập tự có của gia đình là đủ với chính mình. Đồng thời khả năng nhận thức kém nên hộ nông dân khi vay vốn thường không chấp hành theo đúng quy trình cho vay, hoặc nếu được vay thì tiến hành sản xuất kinh doanh không đúng mục đích trong hợp đồng nên không đem lại hiệu quả trên mỗi đồng vốn vay. Thứ ba: Chi phí tổ chức cho vay cao. Cho vay hộ nông dân thường chi phí nghiệp vụ cho một đồng vốn vay thường cao do quy mô từng khoản vay nhỏ. Số lượng khách hàng đông, phân bổ ở khắp mọi nơi nên mở rộng cho vay thường liên quan tới việc mở rộng mạng lưới cho vay và thu nợ: Mở chi nhánh, bàn giao dịch, tổ lưu động cho vay tại xã. Do đặc thù kinh doanh của hộ nông dân có độ rủi ro cao nên chi phí cho dự phòng rủi ro là tương đối lớn so với các ngành khác. 1.1.2.4 Vai trò của Tín dụng ngân hàng trong việc hình thành và phát triển kinh tế hộ nông dân Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng giúp cho hộ sản xuất trong việc đáp ứng vốn và tập trung sản xuất. Nghiệp vụ của Ngân hàng là tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho các đơn vị, cá nhân tạm thời thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Ngân hàng tập trung đầu tư tín dụng cho các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của hộ sản xuất, khuyến khích các hộ kinh doanh có hiệu quả để được ngân hàng trợ giúp cho vay. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 10 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính Thứ hai: Thúc đẩy sản xuất tiếp cận mở rộng sản xuất hàng hóa, khai thác tối đa các tiềm năng của hộ. Ngân hàng đã tạo ra một bước chuyển quan trọng trong phương thức sản xuất của hộ khi được Ngân hàng đầu tư vốn, hộ sản xuất phải hạch toán kinh tế sao cho vốn vay được sử dụng có hiệu quả nhất, để tăng thu giảm chi nhằm thu lợi nhuận, để hoàn trả cả vốn và lãi vay cho Ngân hàng. Muốn vậy, hộ sản xuất phải nghĩ tới thị trường để tiêu thụ sản phẩm thì mới thu được lợi nhuận cao, giúp hộ sản xuất hình thành những biện pháp tốt nhất để tiếp cận và thích nghi với thị trường, nhờ sự tài trợ vốn của Ngân hàng để mở rộng quy mô sản xuất, nhờ đó tính chất sản xuất hàng hóa cũng được tăng lên. Thứ ba: Tín dụng ngân hàng góp phần tạo sự phân công lao động mới trong nông thôn, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế. Hiện nay sự phân công lao động trong khu vực nông thôn nói chung chưa hợp lý, còn nhiều lãng phí về nhân lực. Trình độ kỹ năng lao động còn thấp, kinh tế khu vực nông thôn chủ yếu là thuần nông, mang tính độc canh. Thời gian qua vốn tín dụng Ngân hàng đã góp phần tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng hơn và tạo ra một sự phân công lao động hợp lý. 1.1.3 Hiệu quả đầu tư Tín dụng đối với Hộ nông dân của NHNo & PTNT 1.1.3.1 Quan niệm về hiệu quả tín dụng Hiệu quả tín dụng là một trong những biểu hiện của hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng, nó phản ánh chất lượng của các hoạt động tín dụng ngân hàng. Đó là khả năng cung ứng tín dụng phù hợp với yêu cầu phát triển của các mục tiêu kinh tế xã hội và nhu cầu của khách hàng, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vay nợ đúng thời hạn, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng từ nguồn tích lũy do đầu tư tín dụng và đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở đó đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của ngân hàng. Hay nó là kết quả của mối quan hệ biện chứng giữa ba bên: ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu hiệu quả tín dụng thì cần phải xem xét cả ba phía: ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế xã hội. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 11 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính 1.1.3.2 Các tiêu thức đánh giá hiệu quả đầu tư Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất của NHNo & PTNT. a) Chỉ tiêu định tính. Đảm bảo nguyên tắc cho vay: Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo: 1. Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. 2. Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. b) Chỉ tiêu định lượng. Chỉ tiêu định lượng giúp cho Ngân hàng có cách đánh giá cụ thể hơn về mặt chất lượng tín dụng, giúp các Ngân hàng có biện pháp xử lý kịp thời những khoản vay kém chất lượng. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất: Chỉ tiêu 1: Hiệu quả sử dụng vốn = Dư nợ cho vay bình quân Nguồn vốn huy động bình quân x 100% Các Ngân hàng thương mại huy động vốn để cho vay, do đó cần phải xem xét hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng thông qua mối quan hệ giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn cho vay, với mỗi đồng tiền gửi vào các Ngân hàng sau khi giữ lại một tỷ lệ nhất định dưới dạng tiền dự trữ thì phải cố gắng cho vay càng nhiều càng tốt. Như vậy, Ngân hàng được coi là kinh doanh có hiệu quả khi có hiệu suất sử dụng vốn cao, hợp lý, an toàn. Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ thu nợ = Doanh số thu nợ hộ sản xuất Doanh số cho vay hộ sản xuất x 100% Tín dụng hộ sản xuất được coi là có hiệu quả tốt đối với Ngân hàng khi doanh số cho vay cao kết hợp với tỷ lệ doanh số thu nợ hộ sản xuất trên doanh số cho vay hộ sản xuất hợp lý để hạn chế bớt rủi ro. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 12 Khóa luận tốt nghiệp Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ nợ quá hạn = GVHD: TS. Bùi Đức Tính Dư nợ xấu hộ sản xuất Tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất x 100% Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả tín dụng hộ sản xuất. Tín dụng hộ sản xuất chứa đựng nhiều rủi ro mà một cách thức đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay, do đó việc đảm bảo thu hồi vốn vay đúng thời hạn là hết sức quan trọng và là yếu tố quyết định hiệu quả tới đúng hộ sản xuất. Chỉ tiêu 4: Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ hộ sản xuất Dư nợ hộ sản xuất bình quân Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả tín dụng hộ sản xuất. Nó đo lường số lần vốn tín dụng được quay vòng trong năm. Nếu vòng quay vốn tín dụng càng lớn thì chứng tỏ hiệu quả tín dụng cao thông qua việc thu được nhanh, tuy nhiên nếu vòng quay quá lớn thì dư nợ cho vay thấp làm ảnh hưởng đến chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Nếu vòng quay tín dụng nhỏ chứng tỏ doanh số thu nợ thấp làm hiệu quả tín dụng giảm. 1.1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất Việc nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất có ý nghĩa rất lớn đối với Ngân hàng vì nó quyết định đến sự thành bại của Ngân hàng. Do vậy, phải nâng cao hiệu quả tín dụng hộ sản xuất là một yêu cầu thường xuyên đối với Ngân hàng. Để làm tốt điều đó cần phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất. a) Yếu tố môi trường. Môi trường kinh tế - xã hội, chính trị - pháp lý: Với một môi trường chính trị pháp lý ổn định, thông thoáng cộng với nền kinh tế - xã hội phát triển sẽ là điều kiện rất thuận lợi cho mọi thành phần, tổ chức kinh tế phát triển. Do đó nó cũng tạo ra những ảnh hưởng tích cực tới hoạt động tín dụng của ngân hàng. Môi trường tự nhiên: Khu vực hoạt động chủ yếu của hệ thống NHNo&PTNT là nông nghiệp – nông thôn nên các yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các HND, do đó ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn và trả nợ của nhóm khách hàng này. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 13 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính b) Yếu tố thuộc về khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và trình độ quản lý khoa học, HND biết cách vận dụng những tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, biết sử dụng các nguồn lực sản xuất hợp lý, xây dựng các phương án sản xuất có hiệu quả thu lại lợi nhuận cao trên mỗi cây trồng - vật nuôi, từ đó sẽ có khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng. Ngược lại thì khả năng trả nợ Ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Hộ nông dân sử dụng vốn sai mục đích: Đây là yếu tố thuộc về chủ quan của hộ nông dân. Khi ký kết hợp đồng giữa Ngân hàng với hộ nông dân, cả hai bên đã đồng ý với phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhất, nhưng sau khi sử dụng vốn thì hộ có thể sử dụng sai mục đích hoặc chưa đem vào sử dụng nên HND không thu lại đồng vốn hiệu quả. Điều này rất khó để cho Ngân hàng kiểm soát từ đầu vì đây là ý định của khách hàng. c) Các yếu tố thuộc về Ngân hàng. Chính sách tín dụng Ngân hàng: Có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Ngân hàng có những chính sách tín dụng đúng đắn như hỗ trợ lãi suất cho hộ nông dân vay vốn sản xuất – kinh doanh, luôn lấy hộ nông dân làm đối tượng cho vay chính. Từ đó, đưa ra được hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu, với chu kỳ sinh trưởng và phát triển của cây trồng - vật nuôi, thu hút được hộ nông dân, đồng thời cũng khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn. Trình độ cán bộ tín dụng: Ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng khoản vay. Chất lượng một khoản cho vay được xác định ngay từ khi khoản vay được quyết định. Đồng thời đối tượng là HND, trình độ hiểu biết kém nên CBTD cần nhiệt tình hướng dẫn hộ làm thủ tục hồ sơ, giúp hộ cách sử dụng đồng vốn có hiệu quả. 1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.2.1 Hiện trạng hệ thống tín dụng chính thức ở nông thôn Việt Nam nới chung và Huyện Bố Trạch nói riêng. 1.2.1.1 Nguồn vốn tín dụng chính thức của Việt Nam Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNN & PTNT): Là Ngân hàng thương mại hàng đầu ở nước ta, một Ngân hàng chủ lực trong thị trường tài chính nông SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 14 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính nghiệp, nông thôn đã góp phần quan trọng vào trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong công cuộc đổi mới đất nước. Hoạt động cho vay đối với nông hộ của NHNo & PTNT chính thức bắt đầu từ tháng 7 năm 1991 và chỉ trong vòng sáu tháng Ngân hàng đã cho 558.680 hộ vay tổng số tiền khoảng 405 tỷ đồng. Để tăng phạm vi phục vụ khách hàng ở nông thôn, NHNo & PTNT đã có một số cải tiến như lập các tổ cho vay lưu động, đặt văn phòng giao dịch ở cấp cơ sở, áp dụng hình thức cho vay theo tổ nhóm… Ngoài ra Ngân hàng còn phối hợp với các tổ chức quần chúng để cung cấp các dịch vụ tài chính cho những người là hội viên của những tổ chức quần chúng đó như Hội nông dân, Hội phụ nữ… Nhờ vậy mà Ngân hàng đã nhanh chóng mở rộng đối tượng khách hàng được phục vụ, trở thành người bạn đáng tín cậy của người nông dân. Ngân hàng phục vụ người nghèo (NHPVNN): Là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập vào tháng 8 năm 1995 và bắt đầu vào ngày 1/1/1996, với mục tiêu chính là tham gia vào quá trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Ngân hàng không huy động tiết kiệm mà chủ yếu dựa vào Chính phủ và các Ngân hàng quốc doanh để có nguồn vốn cho vay. Để phục vụ mục tiêu chính của mình, Ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho những ai không có đủ điều kiện vay từ NHNo & PTNT do không có tài sản thế chấp, và các hộ này phải nằm trong diện nghèo theo tiêu chuẩn Việt Nam. Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND): Bắt đầu từ một chương trình thí điểm chịu sự giám sát của NHNN vào tháng 7/1993, là hình thức HTX tiết kiệm và tín dụng cấp xã, hoạt động theo luật HTX và chỉ cho xã viên vay vốn. Kỳ hạn cho vay thường dưới 12 tháng, lãi suất áp dụng thường cao hơn mức lãi suất của NHNo & PTNT và của NHPVNN, khoảng 1,5%/tháng. Hệ thống QTDND có ba cấp: QTDND địa phương, QTDND vùng và QTDND Trung Ương. Các tổ chức quần chúng: Những tổ chức tham gia tích cực vào hoạt động tín dụng là Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh… Các tổ chức này hỗ trợ chính phủ trong việc cho vay theo những chương trình của Nhà nước (chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc…). Ngoài ra, các tổ chức này được xem là “người môi giới” giữa NHNo & PTNT cũng như NHPNVN và người đi vay. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 15 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính 1.2.1.2 Nguồn vốn tín dụng chính thức của huyện Bố Trạch Cùng với chủ trương cải cách và mở rộng thị trường tài chính của Chính phủ, trong những năm qua, thị trường tín dụng nông thôn đã có những bước phát triển đáng kể cả về quy mô và phương thức hoạt động. Trong bối cảnh chung đó, thị trường tín dụng nông thôn ở huyện Bố Trạch cũng có bước phát triển không ngừng với sự tham gia của nhiều khu vực khác nhau, cụ thể: a) Khu vực chính thức: Gồm các TCTD là các doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật các TCTD và quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và các dịch vụ thanh toán, gồm có: NHNo&PTNT huyện Bố Trạch: Là đơn vị cung cấp lớn nhất trên địa bàn huyện Bố Trạch với tổng nguồn vốn huy động được năm 2009 là 275.475 triệu đồng và số khách hàng cho vay là 7.183 người. Để tăng cường hoạt động cho vay của Ngân hàng và thuận tiện trong giao dịch với khách hàng trên toàn huyện, ngoài giao dịch chính tại Ngân hàng còn mở thêm 03 Chi nhánh là Chi nhánh Lý Hòa, Chi nhánh Thọ Lộc, Chi nhánh Thanh Khê. Đối tượng phục vụ chủ yếu của Ngân hàng là sản xuất Nông – Lâm – Thủy sản, khách hàng chủ yếu là các hộ sản xuất trên phạm vi toàn huyện. Trong những năm gần đây, dư nợ cho vay hộ nông dân chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng, khoảng từ 90% trở lên. Với lợi thế về địa bàn hoạt động cũng như chính sách tín dụng khác như: cho vay tới mọi đối tượng có nhu cầu vay vốn nên lượng khách hàng của NHNo&PTNT chiếm tỷ trọng lớn nhất so với 4 đơn vị hoạt động trên địa bàn. NHCSXH huyện Bố Trạch: Là đơn vị hoạt động phi lợi nhuận, được tách ra từ NHNo&PTNT Bố Trạch. Hoạt động của NHCSXH chủ yếu là phục vụ cho các chương trình quốc gia như: chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình việc làm, hỗ trợ cho người đi xuất khẩu lao động, cho sinh viên nghèo có hoàn cảnh khó khăn vay vốn học tập. Nguồn vốn chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp. QTDND: Với việc huy động cho vay tới mọi đối tượng khách hàng trên địa bàn huyện, QTDND cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho các hộ sản SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 16 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính xuất. Tuy nhiên, lãi suất cho vay thường cao hơn NHNo&PTNT, và cho vay ngắn hạn là chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu dư nợ cho vay theo thời hạn vay. Sacombank: Đây là Ngân hàng thương mại cổ phần có mặt đầu tiên tại Bố Trạch. Đối tượng khách hàng chiến lược là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiểu thương và cho vay cá nhân phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh. Dịch vụ tài chính quan trọng là nhận tất cả các loại tiền gửi bằng VNĐ, USĐ, EURO và vàng với lãi suất hấp dẫn. Với cơ cấu sử dụng cho vay bán lẻ chiếm 65% trong tổng số nguồn vốn, Sacombank đã góp phần tạo nên những chuyển động tích cực cho thị trường vốn, từ đó đã góp phần tạo nên những động lực lớn cho sự phát triển của địa phương. Ngân hàng đầu tư và phát triển: Với phương châm hoạt động: “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của Ngân hàng”, “Chia sẻ cơ hội - Hợp tác thành công”. Ngân hàng đã, đang và ngày càng nâng cao được uy tín về cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng đồng thời khẳng định giá trị thương hiệu trong lĩnh vực phục vụ dự án, chương trình lớn của địa phương, với khách hàng chính là cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, công ty tài chính… b) Khu vực bán chính thức: Gồm các tổ chức quần chúng tham gia tích cực vào hoạt động tiết kiệm và tín dụng như: Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh... Các tổ chức hoạt động vai trò trung gian giữa NHNo&PTNT và NHCSXH với các hộ nông dân. Ngoài ra, vốn huy động của các tổ chức này còn do các hội viên tự đóng góp rồi cho các hội viên gặp khó khăn vay nhằm giúp nhau làm ăn. c) Khu vực phi chính thức: Gồm các TCTD nằm ngoài các đối tượng chính thức nói trên, hoạt động của nó không chịu sự quản lý và kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nuớc về hoạt động tín dụng nhưng vẫn có nguyên tắc nhất định giữa người đi vay và người cho vay để tránh các rủi ro về tín dụng. Khu vực này hoạt động khá đa dạng, từ vay muợn bà con, bạn bè, người quen đến cho vay tư nhân, mua chịu hàng hoá, mua chịu phân bón và các yếu tố đầu vào khác, các tổ chức phuờng hội, họ. Mặc dù lãi suất rất cao song do thủ tục đơn giản, ít phiền hà, tín dụng nhanh chóng đến tay người có nhu cầu vay vốn, các giao dịch chủ yếu dựa vào chử tín, quan hệ cá nhân giữa người đi vay và người cho vay nên khu vực này đã cung cấp một số lượng vốn tương đối lớn đáp ứng nhu cầu vay vốn sản xuất và tiêu dùng cho các hộ sản xuất nơi đây. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 17 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính 1.2.2 Những khó khăn đối với việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức của Việt Nam. Về cơ bản, hệ thống tài chính phục vụ nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam gồm 3 khu vực chính là: Khu vực chính thức: Với hai định chế thuộc Chính phủ là NHNo & PTNT và NHCSXH, các QTDND chịu sự quản lý, giám sát của NHNN, các Ngân hàng cổ phần tư nhân. Khu vực bán chính thức: Là khu vực có sự tham gia của các tổ chức quần chúng, các tổ chức phi chính phủ, có hoạt động tín dụng đới với hộ nông dân như các chương trình, dự án cho vay vốn bao gồm dự án nước sạch, dự án chăn nuôi... Khu vực phi chính thức: Gồm các nguồn tín dụng cho vay lãi và các họ/ hụi. Trong đó, khu vực chính thức là khu vực đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu tín dụng của người dân. Nhưng thực tế cho thấy, trong khi khó khăn lớn nhất của người nghèo ở nông thôn hiện nay là thiếu vốn thì các tổ chức tín dụng chính thức lại chưa có đủ khả năng để đáp ứng hết nhu cầu vay vốn rất cụ thể của các nông hộ. Sở dĩ có tình trạng này là do: Thứ nhất: Cơ chế cho vay của các TCTD chính thức còn nhiều ràng buộc, thủ tục rắc rối, cộng với yêu cầu ngặt nghèo về thế chấp, khiến cho nhiều đối tượng vay vốn ở nông thôn không tiếp cận được. Do vậy, có thể một phần của tín dụng chính thức đến với người đi vay cuối cùng qua con đường phi chính thức, những người vay được từ các TCTD chính thức sẽ đem số tiền vay này cho những “người kém may mắn hơn” vay lại với lãi suất cao hơn. Thứ hai: Do trình độ dân trí ở nông thôn còn thấp, nhất là các vùng sâu, vùng xa nên nhân dân còn tâm lý “sợ giao dịch với Ngân hàng” trong khi đó một số TCTD chính thức vẫn chưa tìm ra cách hữu hiệu để đem vốn đến với nông hộ. Thứ ba: Phạm vi phục vụ và những dịch vụ hỗ trợ của các TCTD chính thức còn hạn chế. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhằm phục vụ các hộ nghèo song vẫn còn nhiều khó khăn trong việc phục vụ các xã ở vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh và miền núi. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 18 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính Thứ tư: Các hình thức tín dụng cho nông thôn còn đơn điệu do vậy người dân ít có sự lựa chọn và họ buộc phải vay hình thức mà lãi suất cao, thời hạn vay ngắn, khoản vay ít. Ngoài ra, những quy định về mục đích sử dụng vốn vay của các TCTD chính thức thường chỉ cho vay phục vụ sản xuất nông nghiệp, do vậy hoàn toàn bỏ rơi hoạt động kinh doanh phi nông nghiệp và những khách hàng khác ở nông thôn nhưng không làm nông nghiệp. Trong khi đó trên thực tế, hoạt động phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng khá lớn trong kinh tế nông thôn. Đây là những khó khăn cản trở việc tiếp cận chính thức của người dân nông thôn. Để lấp đầy khoản tín dụng mà khu vực chính thức chưa đáp ứng được thì người dân nông thôn phải tìm đến khu vực phi chính thức là bà con, bạn bè, người thân, láng giềng, những người cho vay nặng lãi… Đây là khu vực khá hấp dẫn người dân nông thôn do: gần gũi với nông thôn, thường ngay trong ấp, thôn, bản hoạt động linh hoạt thủ tục đơn giản, gọn nhẹ, ít phiền hà, tín dụng nhanh chóng đến tay người có nhu cầu vay vốn. Song, về lâu dài thì khả năng tích lũy nguồn vốn này sẽ bị hạn chế, không ổn định, không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư sản xuất và tín dụng của người dân, cùng với lãi suất cao hơn nhiều so với khu vực chính thức vì hộ thường vay “nóng” nên giá của khoản vay cao. Do vậy, khu vực chính thức vẫn là khu vực quan trọng hơn cả. Khi nền kinh tế nông thôn phát triển mạnh lên, sẽ có nhiều khoản đầu tư quy mô lớn hơn và dài hạn hơn do các nông hộ và doanh nghiêp ở nông thôn sẽ chuyển sang các hình thái sản xuất mới. Bước chuyển biến này đòi hỏi phải có một hệ thống tài chính chính thức vững mạnh. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho khu vực chính thức ở nước ta hiện nay là làm sao cho người dân nông thôn tiếp cận nguồn vốn một cách dễ dàng. 1.2.3 Một số chủ trương của Đảng và Nhà nước về cho vay hộ nông dân Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực nông nghiệp, nông thôn, tạo mọi điều kiện đối với đối tượng cho vay là hộ nông dân, vì hộ nông dân là lực lượng nòng cốt trong quá trình phát triển nông thôn mới, hộ là những người cần có bàn tay chỉ lối của Đảng và Nhà nước, hướng dẫn tận tình trong mọi chủ trương để hộ từng bước xóa đói giảm nghèo, tính dễ bị tổn thương sẽ không còn nữa và cải thiện bộ mặt cuộc sống nông thôn. Trong đó có SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 19 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tính những chính sách ưu đãi về nguồn vốn, điều kiện vay, lãi suất đối với nông nghiệp, nông thôn như: Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 30/03/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số danh sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn; Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại; Quyết định số 132/2000/QĐ- TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. Quán triệt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản để cụ thể hóa, chỉ đạo, hướng dẫn việc triển khai chính sách tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn, như: Quyết định số 423/2000/QĐNHNN ngày 22/09/2000 về chính sách tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế trang trại, Thông tư số 05/2002/TT-NHNN ngày 27/09/2002 hướng dẫn việc cho vay đối với người sản xuất, doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa theo Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg, Thông tư số 03/2003/TT-NHNN ngày 24/02/2003 hướng dẫn về cho vay không phải đảm bảo bằng tài sản theo Nghị quyết số 02/2003/NQ-CP. Để tạo thuận lợi cho khu vực nông nghiệp, nông thôn phát triển, Bộ công nghiệp đang dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ lãi suất tín dụng cho nông dân đầu tư mua thiết bị phục vụ sản xuất và sơ chế sản phẩm nông nghiệp (Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp, có văn bản tham gia ý kiến về dự thảo văn bản này). Theo dự thảo quyết định trên, các hộ nông dân, tổ hợp tác, HTX vay vốn đầu tư mua thiết bị với tỷ lệ nội địa hóa từ 60% trở lên để phục vụ sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt thủy hải sản ven bờ, làm muối sẽ được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lãi suất cho vay, mức cho vay là 70% giá trị thiết bị cần mua, nhưng không vượt quá 30 triệu đồng. SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Linh – K40B KTNN 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan