Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu công nghệ man-e và ứng dụng trên mạng viễn thông phú thọ...

Tài liệu Nghiên cứu công nghệ man-e và ứng dụng trên mạng viễn thông phú thọ

.PDF
23
22975
108

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VIỆT NAM HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG NGUYỄN VĂN BÌNH NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ MAN-E VÀ ỨNG DỤNG TRÊN MẠNG VIỄN THÔNG PHÚ THỌ NGÀNH : KỸ THUẬT ĐIỆN TỬ MÃ SỐ :. 60.52.7023.04.3898 LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT HÀ NỘI – 2009 Luận văn được hoàn thành tại: Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Văn Võ Phản biện 1: …………………………………………………….............. …………………………………………………….............. Phản biện 2: …………………………………………………….............. …………………………………………………….............. Phản biện 3: …………………………………………………….............. …………………………………………………….............. Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn tại Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông Vào lúc: ....... giờ ....... ngày ....... tháng ....... năm 2009 Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông 1 MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh về kinh tế, xã hội và văn hoá trong môi trường các đô thị và thành phố lớn đã dẫn đến nhu cầu trao đổi thông tin là rất lớn, đa dạng cả về loại hình dịch vụ, tốc độ. Đồng thời, với sự hình thành và phát triển bùng nổ các tổ hợp văn phòng, các khu công nghiệp, công nghệ cao, các khu chung cư... và thêm vào đó là các dự án phát triển thông tin của chính phủ, các các cơ quan, các công ty, làm cho nhu cầu trao đổi thông tin như tiếng nói, dữ liệu, hình ảnh, .. tăng đột biến. Để đáp ứng được nhu cầu trao đổi thông tin đó, cơ sở hạ tầng mạng truyền thông của các khu đô thị, các thành phố cần phải có khả năng linh hoạt cao, tốc độ truyền dẫn lớn, băng thông rộng, dung lượng lớn và đa dịch vụ. Hiện tại, các mạng nội bộ LAN (Local Area Network) của các cơ quan, xí nghiệp chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu trao đổi thông tin với phạm vi địa lý rất hẹp. Đồng thời, các mạng truy nhập hiện tại với công nghệ chủ yếu là TDM (chuyển mạch kênh PSTN, công nghệ SDH) không thể đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin hiện nay của xã hội cả về loại hình dịch vụ và lưu lượng. Do đó, việc tìm kiếm các công nghệ để xây dựng một cơ sở hạ tầng mạng đô thị MAN (Metropolitan Area Network) đáp ứng được yêu cầu trao đổi thông tin nói trên là cấp thiết đối với những nhà cung cấp dịch vụ Viễn thông trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Trên thế giới, các nhà cung cấp các dịch vụ Viễn thông đã tập trung nghiên cứu, phát triển và ngày càng hoàn thiện các giải pháp công nghệ cho các đô thị và các thành phố lớn. Trong đó, với những ưu việt của mình nên giải pháp công nghệ MAN-E 2 (Metropolitan Area Network-Ethernet) được rất nhiều nhà cung cấp các dịch vụ Viễn thông áp dụng triển khai. Đối với nước ta, các công ty Viễn thông trong nước, đặc biệt là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, đang đầu tư triển khai MAN-E cho các khu đô thị, cho các thành phố của nước ta. Chính vì vậy, việc nghiên cứu MAN-E và ứng dụng cho các khu đô thị, cho các thành phố của nước ta là một vấn đề cấp thiết. Với sự ham muốn nghiên cứu giải pháp công nghệ MAN-E và xem xét khả năng ứng dụng cho Viễn thông Phú Thọ giai đoạn 2009-2010, em đã chọn đề tài: “Nghiên cứu công nghệ MAN-E và ứng dụng trên mạng Viễn thông Phú Thọ” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp với hy vọng là làm chủ được giải pháp công nghệ MAN-E và mong muốn được đóng góp một phần trong việc triển khai MAN-E trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Để thực hiện được mục tiêu đó, đề tài luận văn tập trung thực hiện các nội dung chính sau: I. Tổng quan về MAN-E: Giới thiệu về MAN-E. II. Mạng đô thị MAN và xu hướng phát triển: Phần này tác giả giới thiệu tổng thể sơ lược về MAN, các công nghệ sử dụng trong MAN, xu hướng phát triển của mạng đô thị. III. Giải pháp truyền tải Ethernet trong MAN (MAN-E): Trong phần này tác giả trình chi tiết hơn về giải pháp truyền tải Ethernet trong MAN, chỉ ra cấu hình MANE cho một tỉnh và phương án kết nối MAN-E của các tỉnh trên mạng Viễn thông. IV. Ứng dụng MAN-E trên mạng Viễn thông Phú Thọ: Phần này chủ yếu phân tích, đánh giá và lựa chọn công nghệ áp dụng xây dựng mạng đô thị cho mạng Viễn 3 thông tỉnh Phú Thọ. Các phương pháp thiết kế và tính toán dung lượng trong MAN-E của VNPT và ứng dụng cho Viễn thông Phú Thọ. Do thời gian và hiểu biết còn hạn chế, đề tài không thể tránh khỏi thiếu sót, kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và các bạn. I. TỔNG QUAN VỀ MAN-E Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh về kinh tế, xã hội và văn hoá trong môi trường các đô thị và thành phố lớn đã dẫn đến nhu cầu trao đổi thông tin là rất lớn, đa dạng cả về loại hình dịch vụ, tốc độ. Để đáp ứng được nhu cầu trao đổi thông tin đó, MAN-quang (MAN- Metropolitan Area Network) với khả năng linh hoạt cao, tốc độ truyền dẫn lớn, băng thông rộng, dung lượng lớn và đa dịch vụ là một giải pháp cơ sở hạ tầng mạng truyền thông chủ đạo của các khu đô thị, các thành phố. Để truyền tải thông tin và phát huy hiệu quả cơ sở hạ tầng MAN-quang, người ta đã sử dụng nhiều giải pháp công nghệ khác nhau, như: công nghệ SDH-NG, công nghệ WDM, công nghệ RPR, công nghệ Gigabit Ethernet, công nghệ ATM, công nghệ MPLS, ... Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cho các nhà xây dựng và cung cấp dịch vụ MAN là trên cơ sở mục tiêu xây dựng mạng cần phải lựa chọn được công những công nghệ phù hợp để áp dụng vào việc xây dựng mạng. Trên cơ sở những công nghệ mạng được lựa chọn, các nhà thiết kế mạng sẽ xây dựng những cấu hình mạng thích hợp, lựa chọn thiết bị phù hợp để xây dựng được mạng đáp ứng với những mục tiêu đề ra ban đầu. Công nghệ Ethernet và Gigabit Ethernet có những ưu điểm nổi bật như: có khả năng hỗ trợ rất tốt cho ứng dụng truyền tải dữ 4 liệu ở tốc độ cao và có đặc tính lưu lượng mạng tính đột biến và tính “bùng nổ”; Trước kia, Ethernet là công nghệ thống lĩnh trong các mạng nội bộ LAN, là công nghệ chủ đạo trong hầu hết các văn phòng trên toàn thế giới và hiện nay đã được dùng ngay cả trong các hộ gia đình để chia sẽ các đường dây truy nhập băng rộng giữa các thiết bị với nhau. Đặc biệt tất cả các máy tính cá nhân đều được kết nối bằng Ehernet và ngày càng nhiều thiết bị truy nhập dùng đến công nghệ này. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, tốc độ Ethernet đã được cải thiện từ Mbps lên Gbps và 10Gbps. Song song với nó, phương tiện truyền trong mạng Ethernet cũng chuyển dần từ cáp đồng sang cáp quang và cấu hình cũng đã phát triển từ cấu trúc Bus dùng chung lên cấu trúc mạng chuyển mạch. Đây là những nhân tố quan trọng để xây dựng các mạng có dung lượng cao, chất lượng cao, và hiệu xuất cao, đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng khắt khe của yêu cầu về chất lượng dịch vụ (QoS). Việc sử dụng công nghệ Ethernet và Gigabit Ethernet trong mạng đô thị đã tạo nên một giải pháp mạng hữu hiệu để truyền tải thông tin trong các đô thị, gọi là giải pháp MAN-E hay MEN. II. MẠNG ĐÔ THỊ-MAN VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN 2.1. Giới thiệu về MAN. Mạng đô thị MAN là một mạng cung cấp đa dịch vụ trong phạm vi một thành phố, đô thị. Vai trò của nó tương tự như vai trò của một nhà cung cấp dịch vụ Internet nhưng có một điểm khác là được xây dựng để hướng tới đối tượng phục vụ chủ yếu là liên kết trao đổi lưu lượng của các mạng cục bộ LAN có dung lượng và kích cỡ mạng lớn. Qui mô của MAN có thể bao phủ toàn bộ một thành phố hoặc chỉ là một mạng để liên kết một vài khu nhà 5 (chung cư, khu công nghệ/công nghiệp, các cơ quan tổ chức, các trường đại học, viện nghiên cứu) với nhau. Thiết bị MAN có thể được xây dựng và quản lý bởi nhiều tổ chức khác nhau hoặc chỉ với một nhà cung cấp dịch vụ MAN duy nhất. Các công nghệ được lựa chọn áp dụng để xây dựng MAN chủ yếu tập trung vào 6 loại công nghệ chính là:  IP/ATM.  WDM.  SONET/SDH-NG.  Ethernet/Giagabit Ethernet (GbE).  RPR.  Chuyển mạch kết nối MPLS/GMPLS. Các công nghệ này được xây dựng khác nhau cả phạm vi và các phương thức mà chúng sẽ được sử dụng. Trong một số trường hợp, các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng lại triển khai cùng một công nghệ cho các ứng dụng khác nhau. Ví dụ, GbE có thể được sử dụng để cung cấp năng lực truyền tải cơ sở hoặc để cung cấp các dịch vụ gói Ethernet trực tiếp đến khách hàng. 2.2. Cấu trúc tổng quan của MAN. 2.2.1. Cấu trúc phân lớp dịch vụ. Theo cấu trúc này, MAN được chia thành 2 lớp: Lớp mạng lõi (Core) và lớp truy nhập (Access). + Lớp truy nhập thực hiện chức năng tích hợp các loại hình dịch vụ bao gồm cả dịch vụ từ người sử dụng và dịch vụ mạng. Lớp mạng này thực thi kết nối cung cấp các loại hình dịch vụ xuất phát từ mạng truy nhập ứng dụng bởi nhiều công nghệ truy nhập khác nhau như: các dịch vụ trên cơ sở công nghệ Ethernet, ATM, Frame Relay, DSL, cáp đồng, cáp quang... và với nhiều loại giao diện khác nhau. 6 + Lớp mạng lõi thực hiện chức năng truyền tải lưu lượng tích hợp trong mạng đô thị một cách hợp lý; lớp này thực hiện chức năng định tuyến truyền tải lưu lượng trong nội vùng đô thị hoặc chuyển giao lưu lượng với mạng trục (backbone). Mạng đô thị thực hiện tiếp cận với rất nhiều loại hình ứng dụng và giao thức giao thức truyền tải cần phải truyền một cách “trong suốt” giữa người sử dụng hoặc các mạng văn phòng với nhau. Do vậy vấn đề đặt ra là cần phải cân nhắc giữa mục tiêu là truyền lưu lượng trong suốt và đạt hiệu suất sử dụng mạng cao, đó là một bài toán đặt ra đối với các nhà xây dựng mạng đô thị. Nó sẽ quyết định đến chiến lược triển khai mạng và dịch vụ cũng như như việc lựa chọn nhà cung cấp thiết bị mạng. 2.2.2. Cấu trúc phân lớp chức năng. Theo cấu trúc phân lớp chức năng, MAN có thể phân chia thành 2 lớp mạng: lớp mạng biên và lớp mạng lõi. Trong mỗi lớp mạng đó có thể bố trí các thiết bị mạng có chức năng khác nhau để thực thi các chức năng cần phải thực hiện của lớp mạng này tùy thuộc vào mục tiêu, qui mô, kích cỡ của MAN cần phải xây dựng. 2.3. Các công nghệ sử dụng trong mạng đô thị MAN. 2.3.1. Công nghệ IP/ATM-MAN. Công nghệ ATM đã từng được sử dụng như là công nghệ chủ yếu trong mạng Backbone ngay từ lần đầu được đưa ra thương mại đầu những năm 1990. ATM được thiết kế nhằm tối ưu hóa truyền tải nhiều loại thông tin khác nhau như : dữ liệu, voice, video đáp ứng cả yêu cầu thời gian thực và đáp ứng được yêu cầu về QoS cho mỗi loại thông tin. Để thực hiện yêu cầu này, rất nhiều chức năng và giao thức đã được thiết lập trên nền công nghệ ATM: PNNI (Private Network Node Interface) cung cấp các chức năng kiểu OSPF cho tín hiệu và dẫn hướng cho thông tin về QoS 7 trong toàn mạng ATM, đa giao thức trên ATM (MPOA) cho phép thiết lập những kết nối tắt giữa các điểm hay hệ thống trong các mạng con khác nhau, khắc phục được hiện tượng nghẽn cổ chai xảy ra giữa các router và các chức năng để nâng cao khả năng kết nối vật lý. Hiện nay việc truyền tải tín hiệu IP qua ATM trên các mạng thông tin quang được thực hiện chủ yếu qua hai phương thức: IP/ATM/SDH/WDM và IP/ATM/WDM. 2.3.2. Công nghệ WDM-MAN. Công nghệ ghép kênh theo bước sóng WDM hay DWDM là công nghệ truyền tải trên sợi quang đã xây dựng và phát triển từ những năm 90 của thế kỷ trước. Các hệ thống WDM hiện nay có tốc độ truyền dẫn kênh 2,5Gbps hoặc 10Gbps và có thể tích hợp tới 100 bước sóng trên một sợi quang cho phép truyền dẫn dung lượng hàng ngàn Gigabit trên một sợi quang (Các hệ thống WDM tốc độ Terabits ghép trên một sợi quang đã được thử nghiệm trong các phòng thí nghiệm trên thế giới và hứa hẹn nhiều ứng dụng trong thực tế). Nguyên lý cơ bản của công nghệ này là thực hiện truyền đồng thời các tín hiệu quang thuộc nhiều bước sóng khác nhau trên một sợi quang. Băng tần truyền tải thích hợp của trên sợi quang được phân chia thành những bước sóng chuẩn với khoảng cách thích hợp giữa các bước sóng (đã được chuẩn hóa bởi tiêu chuẩn G.692 của ITU-T), mỗi bước sóng có thể truyền tải một luồng thông tin có tốc độ lớn (chẳng hạn luồng thông tin số tốc độ 10Gbít/s). Do đó, công nghệ WDM cho phép xây dựng những hệ thống truyền tải thông tin quang có dung lượng gấp nhiều lần so với hệ thống thông tin quang đơn bước sóng. Hiện tại, sản phẩm và các hệ thống truyền dẫn WDM đã được sản xuất bởi nhiều hãng sản xuất thiết bị viễn thông và đã được triển khai trên mạng của nhiều nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trên thế giới. 8 Mạng WDM có thể thiết lập các cấu hình điểm nối điểm, ring và mesh. Việc chuyển đổi hay nâng cấp giữa các cấu hình tương đối linh hoạt. 2.3.3. Công nghệ SDH-NG-MAN. Công nghệ SDH hiện tại là công nghệ truyền dẫn được áp dụng phổ biến nhất trong mạng của những nhà cung cấp dịch vụ trên thế giới. Công nghệ SDH được xây dựng trên cơ sở hệ thông phân cấp ghép kênh đồng bộ TDM với cấu trúc phân cấp ghép kênh STM-N cho phép cung cấp các giao diện truyền dẫn tốc độ từ vài Mbít/s tới vài Gigabít/s. Đặc tính ghép kênh TDM và phân cấp ghép kênh đồng bộ của công nghệ SDH cho phép cung cấp các kênh truyền dẫn có băng thông cố định và cố độ tin cậy cao với việc áp dụng các cho chế phục hồi và bảo vệ, cơ chế quản lý hệ thống theo cấu trúc tô-pô mạng phù hợp và đã được chuẩn hóa bởi các tiêu chuẩn của ITU-T. Từ trước tới nay công nghệ truyền dẫn SDH được xây dựng chủ yếu cho việc tối ưu truyền tải lưu lượng thoại. Theo những dự báo và phân tích về thị trường mạng viễn thông gần đây, các doanh nghiệp có sẽ gia tăng mạnh mẽ các loại hình dịch vụ truyền dữ liệu và có xu hướng chuyển dần lưu lượng của các dịch vụ thoại sang truyền tải theo các giao thức truyền dữ liệu (ví dụ như dịch vụ thoại qua IP (VoIP).. Trong khi đó, các cơ sở hạ tầng mạng SDH hiện có khó có khả năng đáp ứng nhu cầu truyền tải lưu lượng gia tăng trong tương lai gần. Do vậy yêu cầu đặt ra là cần phải có một cơ sở hạ tầng truyền tải mới để có thể đồng thời truyền tải trên nó lưu lượng của hệ thống SDH hiện có và lưu lượng của các loại hình dịch vụ mới khi chúng được triển khai. Đó chính là lý do của việc hình thành một hướng mới của công nghệ SDH, đó là SDH thế hệ kế tiếp SDH-NG. 9 2.3.4. Công nghệ Ring gói tự hồi phục. Khác với các công nghệ truyền dẫn truyền thống như SONET/SDH, vòng Ring RPR có cấu trúc gồm hai vòng cáp quang, trong đó, một vòng phía trong (Inner Ring) và một vòng phía ngoài (Outer Ring), các gói được truyền trên hai vòng Ring này theo hai hướng ngược chiều nhau. Mỗi vòng có thể sử dụng để mang đồng thời cả các gói dữ liệu và các gói điều khiển. Các vòng Ring này (Outer Ring và Innner Ring), có tính chất hỗ trợ lẫn nhau, vừa đảm bảo việc nâng cao lưu lượng truyền dẫn vừa đảm nhận chức năng bảo vệ khi có sự cố trên hệ thống. RPR sử dụng giao thức điều khiển truy nhập MAC mới – Spatial Reuse Protocol do IETF chuẩn hoá trong RFC số 2892 để đóng gói dữ liệu trong mạng có cấu hình Ring kép. Thiết bị IP với với giao diện RPR có thể kết nối với thiết bị SDH hay sử dụng hệ thống cáp quang hiện có mà không cần thiết bị SDH nữa. Điều này cho phép giảm mức chi phí đầu tư và tăng hiệu quả quản lý mạng lên rất nhiều. RPR còn cho phép các thiết bị trên mạng tự động phát hiện ra topology mạng, phát hiện và khôi phục vòng ring khi cáp quang bi đứt với thời gian hồi phục là 30 đến 50ms. Việc phát triển và hồi phục topo mạng hoàn toàn được thực hiện ở lớp MAC do đó không ảnh hưởng đến lưu lượng đang truyền tải trên lớp IP cũng như không cần sự than gia của lớp 3 trong việc này. RPR cho phép kiểm soát mức độ sử dụng băng thông trên mạng nhằm sủ dụng hiệu quả nhất thông lượng đường truyền. Dữ liệu có thể truyền song song theo cả hai hướng, trên cả vòng Ring chính và vòng Ring “backup” như trong khái niệm của SONET/SDH, như vậy khai thác tối đa hiệu quả của cáp quang. Đặc biệt là khác so với các giao thức trên mạng Ring khác, dữ liệu chỉ được truyền 10 giữa thiết bị truyền và nhận trên Ring chứ không phải qua các node trung gian. Như vậy đồng thời có thể có nhiều lưư lượng khác nhau trên Ring và các thiết bị trung gian không hề phải chịu tải lưu lượng của các node khác. Cuối cùng, RPR có hỗ trợ riêng cho lưu lượng dạng multicast trong các ứng dụng như thoại và video nhằm tiết kiệm băng thông trên mạng. Chính vì vậy ngay cả khi có phần overhead cao hơn so với POS, hiệu suất chung của RPR lại cao hơn và thiết bị rẻ tiền hơn. 2.3.5. Công nghệ chuyển mạch MPLS/GMPLS. Sự phát triển đa dạng của các ứng dụng dựa trên công nghệ gói, điển hình là giao thức IP, đã kéo theo sự bùng nổ lưu lượng có nguồn gốc phi thoại trong những năm qua và làm thay đổi bản chất lưu lượng truyền tải trên mạng. Vài năm trước đây, định tuyến IP đã phát triển thêm tính năng mới dưới ảnh hưởng của một công nghệ mới, đó là chuyển mạch nhãn đa giao thức (MPLS) và công việc hiện tại là hướng MPLS thành một mảng điều khiển không chỉ đơn thuần sử dụng cho bộ định tuyến mà còn với thiết bị cũ như SDH và thiết bị mới như OXC. Những nỗ lực này đã tạo ra mảng điều khiển chung chuẩn hoá, một phần tử thiết yếu trong sự phát triển của mạng quang mở và tương hợp. Trước hết, một mảng điều khiển chung sẽ làm đơn giản hoá hoạt động khai thác và bảo dưỡng, do đó giảm được chi phí vận hành mạng. Tiếp đến, mảng điều khiển chung cung cấp một loạt kịch bản phát triển từ mô hình xếp chồng đến mô hình đồng cấp, ở đây mô hình xếp chồng được thực hiện bằng cách sử dụng tập hợp con tính năng của mô hình đồng cấp. Để thực hiện ý tưởng trên, một số sửa đổi và thêm tính năng vào giao thức định tuyến và báo hiệu MPLS để thích ứng với đặc 11 tính riêng của chuyển mạch quang cần được thực hiện. Những công việc này được đảm nhiệm bởi tổ chức IETF (Internet Engineering Task Force). GMPLS (Generalized MPLS) là tên gọi mới của giao thức MPLS đã được mở rộng thành mảng điều khiển chung cho mạng truyền tải thế hệ sau. Chuyển mạch nhãn đa giao thức (MPLS) là một công nghệ mới xuất hiện nhưng đã chiếm được lòng tin của người sử dụng, nhờ sự tích hợp mô hình phát chuyển trao đổi nhãn với định tuyến lớp mạng. Những nỗ lực ban đầu của MPLS tập trung vào IPv4 để hỗ trợ các giao thức định tuyến IP tìm đường kết nối trong mạng. Tuy nhiên, MPLS cũng cung cấp khả năng thiết kế lưu lượng: chuyển luồng lưu lượng từ các tuyến ngắn nhất được xác định theo thuật toán của giao thức định tuyến đến tuyến có tiềm ẩn nghẽn thấp nhất qua mạng. 2.3.6. Công nghệ GigaE_MAN. Trong vòng ba thập kỷ qua, Ethernet là công nghệ thống lĩnh trong các mạng nội bộ LAN, là công nghệ chủ đạo trong hầu hết các văn phòng trên toàn thế giới và hiện nay đã được dùng ngay cả trong các hộ gia đình để chia sẽ các đường dây truy nhập băng rộng giữa các thiết bị với nhau. Đặc biệt tất cả các máy tính cá nhân đều được kết nối bằng Ethernet và ngày càng nhiều thiết bị truy nhập dùng đến công nghệ này. Có nhiều lý do để giải thích tại sao Ethernet đã có sự thành công như vậy trong cả các doanh nghiệp lẫn các hộ gia đình bởi tính dễ sử dụng, linh họat và hiệu quả về chi phí. 12 III. GIẢI PHÁP TRUYỀN TẢI ETHERNET TRONG MAN (MAN-E) 3.4. Cấu trúc mạng MAN-E. Kiến trúc mạng Metro dựa trên công nghệ Ethernet điển hình có thể mô tả như hình 3.1. Hình 3.1. Cấu trúc mạng MAN-E điển hình Phần mạng truy nhập Metro tập hợp lưu lượng từ các khu vực (cơ quan, toà nhà,...) trong khu vực của mạng Metro. Mô hình điển hình thường được xây dựng xung quanh các vòng Ring quang với mỗi vòng Ring truy nhập Metro gồm từ 5 đến 10 node. Những vòng Ring này mang lưu lượng từ các khách hàng khác nhau đến các điểm POP mà các điểm này được kết nối với nhau bằng mạng lõi Metro. Một mạng lõi Metro điển hình sẽ bao phủ được nhiều thành phố hoặc một khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp. 3.5. Các dịch vụ cung cấp qua MAN-E. 3.5.1. Mô hình dịch vụ Ethernet. Để xác định các loại hình dịch vụ cung cấp qua môi trường Ethernet, trước hết cần xem xét mô hình tổng quát. Mô hình dịch vụ Ethernet là mô hình chung cho các dịch vụ Ethernet, được xây 13 dựng trên dựa trên cơ sở sử dụng các thiết bị khách hàng để truy cập các dịch vụ. Trong mô hình này sẽ định nghĩa các thành phần cơ bản cấu thành dịch vụ cũng như một số đặc tính cơ bản cho mỗi loại hình dịch vụ. Nhìn chung các dịch vụ Ethernet đều có chung một số đặc điểm, tuy nhiên vẫn có một số đặc tính đặc trưng khác nhau cho từng dịch vụ riêng. Mô hình cơ bản cho các dịch vụ Ethernet Metro như chỉ ra trên Hình 3.2. Hình 3.2. Mô hình cung cấp các dịch vụ Ethernet qua MAN Trong mô hình này chủ yếu đề cập đến các kết nối mạng mà trong đó thuê bao được xem là một phía của kết nối khi trình bày về các ứng dụng thuê bao. Tuy nhiên cũng có thể có nhiều thuê bao (UNI) kết nối đến MAN từ cùng một vị trí. Trên cơ sở các dịch vụ chung được xác định trong mô hình, nhà cung cấp dịch vụ có thể triển khai các dịch vụ cụ thể tuỳ theo nhu cầu khách hàng. Những dịch vụ này có thể được truyền qua các môi trường và các giao thức khác nhau trong MAN như SONET, DWDM, MPLS, GFP, .... Tuy nhiên, xét từ góc độ khách hàng thì các kết nối mạng xuất phát từ phía khách hàng của giao diện UNI là các kết nối Ethernet. 14 3.5.2. Các loại dịch vụ Ethernet Hiện tại các dịch vụ Ethernet được chia thành 2 loại lớn: Các đường Ethernet riêng, chạy trên hạ tầng SONET/SDH hoặc trên LAN trong suốt qua các chuyển mạch (best-effort) và sợi quang hiện chưa sử dụng. 3.5.2.1. Dịch vụ đường Ethernet Dịch vụ đường Ethernet cung cấp kết nối ảo Ethernet điểm điểm (EVC) giữa hai UNI như minh hoạ trên Hình 3.3. Dịch vụ E -Line được sử dụng cho kết nối điểm - điểm. Hình 3.3. Kết nối ảo Ethernet điểm - điểm (EVC) qua MAN Dịch vụ E-Line có thể cung cấp băng tần đối xứng cho truyền số liệu theo hai hướng. Ở dạng phức tạp hơn nó có thể tạo ra tốc độ thông tin tốt nhất (CIR) và kích thước khối tốt nhất (CBS), tốc độ thông tin đỉnh và kích thước khối đỉnh trễ, jitter, độ mất mát thực hiện giữa hai UNI có tốc độ khác nhau. Nhìn chung dịch vụ E-Line có thể được sử dụng để xây dựng các dịch vụ tương tự cho chuyển tiếp khung hoặc các đường thuê riêng. Tuy nhiên, dải băng tần và các khả năng kết nối của nó lớn hơn nhiều. 3.5.2.2. Dịch vụ LAN Ethernet: Dịch vụ LAN Ethernet cung cấp các kết nối đa điểm, chẳng hạn có thể kết nối một số UNI với nhau như chỉ ra ở Hình 3.4. 15 Hình 3.4. Mô hình kết nối đa điểm Số liệu thuê bao gửi từ một UNI có thể được nhận tại một hoặc nhiều UNI khác. Mỗi UNI được kết nối đến một EVC đa điểm. Khi có các UNI thêm vào, chúng được kết nối đến cùng EVC đa điểm do đó đơn giản hoá quá trình cung cấp và kích hoạt dịch vụ. 3.5.2.3. Dịch vụ E-LAN theo cấu hình điểm - điểm. Dịch vụ E-LAN có thể được sử dụng để kết nối chỉ hai UNI, điều này dường như tương tự với dịch vụ E-Line nhưng ở đây có một số khác biệt đáng kể. Với dịch vụ E-Line, khi một UNI được thêm vào, một EVC cũng phải được bổ sung để kết nối UNI mới đến một trong các UNI đã tồn tại. Hình 3.5 minh hoạ khi một UNI được thêm vào và sẽ có một EVC mới được bổ sung để tất cả các UNI có thể kết nối được với nhau khi dùng dịch vu E-Line. 16 Hình 3.5. Quá trình thực hiện khi thêm một UNI vào MAN Với dịch vụ E LAN, khi UNI mới cần thêm vào EVC đa điểm thì không cần bổ sung EVC mới vì dịch vụ E-LAN sử dụng EVC đa điểm - đa điểm. Dịch vụ này cũng cho phép UNI mới trao đổi thông tin với tất cả các UNI khác trên mạng. Trong khi với dịch vụ E-Line thì cần có các EVC đến tất cả các UNI. Do đó, dịch vụ E-LAN chỉ yêu cầu một EVC để thực hiện kết nối nhiều bên với nhau. Tóm lại, dịch vụ E-LAN có thể kết nối một số lượng lớn các UNI và sẽ ít phức tạp hơn khi dùng theo dạng lưới hoặc hub và các kết nối sử dụng các kỹ thuật kết nối điểm - điểm như Frame Relay hoặc ATM. Hơn nữa, dịch vụ E-LAN có thể được sử dụng để tạo một loạt dịch vụ như mạng LAN riêng và các dịch vụ LAN riêng ảo, trên cơ sở này có thể triển khai các dịch vụ khách hàng. IV. ỨNG DỤNG MAN-E TRÊN MẠNG VIỄN THÔNG PHÚ THỌ 4.6. Lựa chọn giải pháp công nghệ. 4.6.1. Cơ sở để lựa chọn công nghệ. - Căn cứ vào xu hướng triển khai công nghệ áp dụng xây 17 dựng MAN của các hãng cung cấp giải pháp mạng hàng đầu trên thế giới. - Căn cứ vào yêu cầu, mục tiêu xây dựng MAN của VNPT, Viễn thông Phú Thọ và đặc thù, thực trạng hiện tại của mạng viễn thông Phú Thọ hiện nay. - Căn cứ vào một số tiêu chí đánh giá chủ yếu của việc lựa chọn giải pháp công nghệ áp dụng để xây dựng MAN. 4.6.2. Hướng lựa chọn công nghệ. 4.6.2.1. Đối với lớp mạng truy nhập khách hàng MAN. Sử dụng công nghệ chủ đạo đó là công nghệ Ethernet (Fast Ethernet và Gigabit Ethernet). 4.6.2.2. Đối với lớp mạng tập trung, tích hợp dịch vụ MAN. Do tính chất của lớp mạng này là ngoài việc thực hiện tập trung lưu lượng từ lớp truy nhập khách hàng, nó còn phải thưc hiện chức năng kết nối với các cơ sở hạ tầng mạng khác như là ATM, Frame Relay, xDSL, PSTN,... do vậy phân lớp mạng này phải thực hiện phối hợp làm việc với nhiều loại giao thức khác nhau, do vậy công nghệ áp dụng cho lớp mạng này thực hiện theo công nghệ chuyển mạch định tuyến đa giao thức, trên cơ sở công nghệ MPLS với những lý do sau: - MPLS hỗ trợ truyền tải lưu lượng ATM - MPLS hỗ trợ truyền tải lưu lượng Ethernet - MPLS kết hợp với công nghệ IP 4.6.2.3. Đối với lớp mạng lõi MAN. Chức năng thực hiện của mạng lõi MAN cần phải đáp ứng được nhu cầu truyền tải lưu lượng trong mạng một cách hiệu quả được thể hiện ở các khía cạnh dưới đây: 18 - Tối ưu hóa về truyền tải lưu lượng phù hợp với kích cỡ và dung lượng hệ thống, hình thái lưu lượng trao đổi trong mạng và đạt được hiệu suất sử dụng đường thông cao. - Hỗ trợ truyền tải đa dịch vụ, đa giao thức bao gồm cả các dịch vụ sử dụng ở phân lớp cao (lớp 3) và phân lớp thấp (dịch vụ lớp 2). - Thực hiện trên một hạ tầng quản lý mạng thống nhất, tránh sự chồng chéo về quản lý. - Có khả năng mở rộng và nâng cấp khi nhu cầu lưu lượng tăng. 4.6.3. Một số tiêu chí khi lựa chọn công nghệ. Một điều cần phải khẳng định rằng: MAN thế hệ mới được xây dựng là tổ hợp của các công nghệ truyền dẫn, công nghệ chuyển mạch/định tuyến được lựa chọn. Do vậy chúng ta chỉ có thể lựa chọn giải pháp công nghệ xây dựng MAN dựa trên tổ hợp công nghệ truyền dẫn, chuyển mạch nào đó để đạt được những tiêu chí cụ thể đề ra trước khi xây dựng mạng. Để xác định công nghệ nào được lựa chọn, trước hết cần phải xác định được những tiêu chí chủ yếu cho việc xây dựng mạng. Các tiêu chí chủ yếu đó là: Năng lực truyền tải của mạng, giá thành của mạng, khả năng cung cấp và mở rộng mạng. 4.7. Cấu hình MAN-E Viễn thông Phú Thọ giai đoạn 20092010. Căn cứ vào hiện trạng hệ thống cáp quang, cống bể, nhà trạm hiện có và nhu cầu về các đường truyền số liệu phân bổ trên mạng viễn thông Phú Thọ, MAN-E của viễn thông Phú Thọ được tổ chức như hình dưới đây: - Cấp I: Tổ chức theo các vòng cáp quang cấp II với các node tập trung chủ yếu đặt cùng vị trí với các tổng đài host của
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan