TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN – KHOÁNG SẢN VIỆT NAM
TỔNG CÔNG TY KHOÁNG SẢN - TKV
-----G Y-----
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ CHIẾT LY VÀNG
THUỘC THÀNH HỆ VÀNG SUNFUA
VÀ VÀNG - THẠCH ANH Ở MỎ APEY
( DAKRONG, TỈNH QUẢNG TRỊ)
6888
13/6/2008
HÀ NỘI - 2008
TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN – KHOÁNG SẢN VIỆT NAM
TỔNG CÔNG TY KHOÁNG SẢN - TKV
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI
Nghiên cứu công nghệ chiết ly vàng thuộc thành hệ Vàng sunfua
và Vàng - thạch anh ở mỏ Apey, Dakrong, tỉnh Quảng Trị
Cơ quan thực hiện
Tổng công ty Khoáng sản – TKV
Chủ nhiệm
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
Nguyễn Minh Đường
TSKH. Lê Công Hải
HÀ NỘI - 2008
Báo cáo tổng kết đề tài
MỤC LỤC
Số hiệu
Tr
Mở đầu
2
Phần I Tổng quan
4
I.1
Những tính chất cơ bản của vàng
4
I.2
Các dạng tồn tại chủ yếu của vàng
4
I.3.
Các phương pháp chế biến thu hồi vàng
6
I.3.1
Các phương pháp tuyển khoáng
6
I.3.2
Các phương pháp thủy luyện
7
I.4
Khái quát quá trình, đặc điểm địa chất khoáng sản của mỏ Vàng 15
gốc Apey A huyện Dakrong tỉnh Quảng Trị
I.4.1
Vị trí địa lý
15
I.4.2
Đặc điểm địa chất
15
I.4.3
Đặc điểm khoáng sàng
15
PHẦN II KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
17
II.1
Mục tiêu nghiên cứu
17
II.2
Mẫu nghiên cứu
17
II.3
Nghiên cứu thành phần vật chất mẫu
20
II.3.1
Phương pháp nghiên cứu
20
II.3.2
Kết quả nghiên cứu
20
II.3.3
Nhận xét kết quả nghiên cứu thành phần vật chất mẫu
27
II.4
Nghiên cứu khả năng thu hồi vàng bằng phương pháp tuyển 27
trọng lực
II.4.1
Kết quả thí nghiệm xác định độ hạt nghiền đãi tối ưu
27
II.4.2
Kết quả thí nghiệm sơ đồ tuyển trọng lực
30
II.5
Nghiên cứu khả năng thu hồi vàng bằng phương pháp tuyển nổi
32
II.5.1
Kết quả nghiên cứu xác định độ mịn nghiền tối ưu
32
II.5.2
Chế độ thuốc tuyển
34
II.5.3
Thí nghiệm sơ đồ tuyển nổi vòng kín
38
II.6
Nghiên cứu sơ đồ kết hợp giữa tuyển nổi và tuyển trọng lực
41
II.7
Nghiên cứu thủy luyện
43
II.7.1
Mẫu nghiên cứu
43
II.7.2
Chọn lưu trình thí nghiệm
44
II.7.3
Thí nghiệm tiền xử lý bằng phương pháp nung
46
II.7.4
Kết quả thí nghiệm các thông số xyanua hóa
46
Tổng công ty khoáng sản - TKV
Danh mục
1
Báo cáo tổng kết đề tài
II.7.5
II.8
PHẦN III
III.1
Nghiên cứu quy mô lớn trong phòng thí nghiệm
Sơ đồ công nghệ chế biến quặng vàng gốc mỏ ApeyA Quảng Trị
TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ
Tác động môi trường của công đoạn tuyển khoáng và biện pháp
xử lý
III.2
Tác động môi trường của công đoạn thủy luyện và biện pháp xử
lý
III.2.1
Nguồn tác động môi trường
III.2.2
Biện pháp xử lý
III.2.2.1 Xử lý khí thải
III.2.2.2 Xử lý chất độc xyanua trong bã thải và nước thải
PHẦN IV KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Tổng công ty khoáng sản - TKV
52
53
56
56
56
56
56
56
57
60
62
63
2
Báo cáo tổng kết đề tài
MỞ ĐẦU
Đề tài: “ Nghiên cứu công nghệ chiết ly vàng thuộc thành hệ Vàng sunfua
và Vàng - thạch anh ở mỏ Apey, Dakrong, tỉnh Quảng Trị” được tiến hành từ
tháng 8 năm 2007 đến tháng 12 năm 2007 theo nội dung hợp đồng số
01.07.RDBS1 ký ngày 05 tháng 9 năm 2007 giữa Bộ Công Thương và Tổng
công ty khoáng sản - TKV.
Mục tiêu của đề tài: Nghiên cứu xác lập quy trình công nghệ thu hồi vàng
thuộc thành hệ Vàng sunfua và Vàng - thạch anh ở mỏ vàng Apey, Dakrong,
Quảng Trị.
Công tác nghiên cứu đặc điểm và thành phần khoáng vật của mẫu nghiên cứu,
công tác phân tích được thực hiện tại phòng phân tích hóa lý thuộc Viện KH và CN
Mỏ - Luyện kim, Trung tâm KHCN Mỏ và Luyện kim. Phân tích kiểm tra tại Trung
tâm phân tích thí nghiệm địa chất thuộc tổng cục địa chất Việt Nam.
Báo cáo nêu tổng quát đặc điểm tài nguyên khoáng sản vàng Việt nam và
vài nét về mỏ quặng vàng gốc Apey huyện Dakrong tỉnh Quảng Trị, những
phương pháp chủ yếu thu hồi vàng trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã và
đang áp dụng. Đã nêu phương pháp và kết quả nghiên cứu thành phần vật chất,
kết quả nghiên cứu tuyển khoáng, thủy luyện và các giải pháp xử lý môi trường.
Kết quả nghiên cứu đã đưa ra lưu trình công nghệ tuyển và luyện từ quặng
đầu có hàm lượng 4,60 g/t. Quá trình tuyển thu được tinh quặng có hàm lượng
vàng 102,59 g/t ứng với thực thu 87,20%. Quá trình thủy luyện thu hồi vàng
bằng phương pháp xyanua hóa bể khuấy đạt thực thu 94%. Tổng hiệu suất thực
thu quá trình tuyển và luyện đạt 82%.
Những người thực hiện chính:
- Lê Công Hải
TSKH
- Võ Biện
KS Địa chất
Công ty CP PTKS 4
- Ngô Đắc Đảo
KS Địa chất
Công ty CP PTKS 4
- Nguyễn Văn Hùng
Cử nhân Kinh tế
Công ty CP PTKS 4
- Phạm Tế Nhị
Cử nhân Kinh tế
Công ty CP PTKS 4
- Nguyễn Minh Tuấn
KS Địa chất
Tổng Công ty KS-TKV
- Nguyễn Bảo Linh
KS Tuyển khoáng Viện KH&CN Mỏ - luyện kim
Tổng công ty khoáng sản - TKV
Chủ nhiệm
Công ty KS-TKV
3
Báo cáo tổng kết đề tài
PHẦN I. TỔNG QUAN
I.1. Những tính chất cơ bản của vàng
Vàng là một nguyên tố hóa học thuộc nhóm I trong bảng hệ thống tuần
hoàn Mendeleep, số thứ tự 79, khối lượng nguyên tử 197, có các đồng vị từ 183
đến 201, tuy nhiên chỉ có đồng vị 197 là bền.
Vàng là kim loại quý có tỷ trong ở 200C là 19,31; nhiệt độ nóng chảy là
10630C, nhiệt độ sôi là 29700C, dẫn nhiệt dẫn điện tốt và dễ kéo dài dát mỏng.
Vàng không tác dụng với những axit đặc và loãng; HCl, HNO3, H2SO4.
Vàng tan trong nước cường thuỷ (3HCl + HNO3), tan trong dung dịch KI + I2,
tan trong dung dịch xyanua của các kim loại kiềm, tan trong thiosunfat, tan trong
thioure.
Vàng có cấu trúc lớp vỏ điện tử ngoài cùng là 5d10.6s1. Lớp ngoài cùng có
1 điện tử, lớp tiếp theo có 10 điện tử lớp d, các điện tử này không bền vì vậy
vàng có thể tham gia các phản ứng hoá học bằng cách cho 1, 2 hoặc 3 điện tử, vì
vậy vàng có hoá trị là +1, +2, +3.
Vàng có khả năng tạo phức với các phối tử oxy, NH3, Amin,S. Khả năng
lớn là kiên kết cộng hoá trị với các phối tử. Các hợp chất bền thường là Au+ và
Au3+, còn đối với các hợp chất Au(II) bền chỉ với S và tồn tại trong dung dịch.
I.2. Các dạng tồn tại chủ yếu của vàng
Trong tự nhiên vàng tồn tại chủ yếu ở dạng nguyên tố và ở dạng hợp kim
với một số kim loại như Ag, Cu, Te và Sb. Ở dạng tự sinh vàng có thể tồn tại ở
trạng thái hạt có kích thước rất nhỏ, có khi kích thước nhỏ hơn micron mà mắt
thường không nhìn thấy được. Những hạt vàng phân bố khá đều trong quặng
hoặc tinh quặng như trong mạch thạch anh, quặng antimon, pyrit, asenopyrit.
Các loại quặng chứa vàng ít gặp hơn trong quặng kẽm, quặng vonfram, quặng
cacbonat, quặng mangan. Trong đới oxy hóa vàng có thể cộng sinh với oxyt
mangan, đồng cacbonat, cũng như trong hợp chất sắt - mangan. Vàng kim loại
tồn tại như trên được gọi là vàng gốc. Trong quá trình phân hủy tự nhiên của các
mỏ nguyên sinh sẽ hình thành loại vàng sa khoáng. Vàng sa khoáng thường có
cỡ hạt to hơn và chứa ít tạp chất. Ngoài ra vàng tồn tại ở dạng hợp chất với Te,
Se, Sb và Ag như các khoáng sylvanit (Au,Ag)Te4, calaverit, crenerit
Tổng công ty khoáng sản - TKV
4
Báo cáo tổng kết đề tài
(Au,Ag)Te2, penzít (Au,Ag)Te, nagygit PbAu4(Te,Sb,S), amostibit AuSb2,
mandonit Au2Bi.
Ở Việt Nam các loại quặng vàng tồn tại như các loại đã nêu ở trên.
Loại hình sa khoáng là một trong những loại hình đặc thù ở Việt Nam.
Các sa khoáng vàng thường gặp ở nhiều nơi và thuộc nhiều loại hình khác nhau,
tuy nhiên quy mô mỏ lại thường nhỏ hoặc rất nhỏ, chúng chỉ đóng góp chung
vào tổng tiềm năng, tài nguyên dự báo của cả nước và chiếm khoảng 7 - 9%.
Loại quặng vàng gốc được chia ra các hệ như sau:
- Quặng thuộc thành hệ vàng - thạch anh thường gặp ở vùng Đông Bắc và
Tây Bắc ở Trung Bộ và Nam Bộ. Nhóm này chiếm khoảng 5% tổng tài nguyên
dự báo ở Việt nam.
- Quặng thuộc nhóm thành hệ vàng - thạch anh - sunfua như là vàng thạch anh - pyrit ở Kim Bôi, vàng - thạch anh - asenopyrit ở Pác Lạng, vàng thạch anh -antimonit ở Làng Vài v.v… loại hình quặng này chiếm khoảng 30 40% tài nguyên dự báo của cả nước [4].
- Quặng thuộc nhóm hệ vàng - sunfua như là cochedan đồng - vàng (khu
mỏ Sin Quyền), cochedan - pyrit - vàng (khu vực pyrit Giáp Lai, Bangôn),
cochedan đa kim - vàng (ở Na Sơn Đức Phú). Loại hình này chiếm khoảng 13 15% tài nguyên vàng dự báo ở Việt Nam.
- Quặng thuộc nhóm thành hệ vàng - bạc như là vàng - bạc - thạch anh đa
sunfua (ở Bắc Cạn đới Sầm Nưa, Hoành sơn), vàng - bạc - đa sunfua - sunfua
muối thạch anh - adule/alunit (ở Tấn Mài, Bình Liêu, Nam Trung Bộ), vàng bạc - telua/selen - thạch anh - adule xerixit (ở Tú Lệ, Nậm Xe, Tam Đường, An
Khê, Tuy Hòa …). Nhóm thành hệ quặng này chiếm khoảng 10 - 12% tổng tài
nguyên vàng dự báo.
Ngoài ra vàng tồn tại các loại hình quặng vàng cộng sinh:
- Quặng kim loại màu chứa vàng như kiểu thành hệ quặng đa kim - chì
kẽm chứa vàng ở khu vực Việt Bắc, quặng sunfua đồng - niken chứa vàng ở khu
vực Núi Chúa.
- Quặng kim loại đen chứa vàng như quặng sắt nâu chứa vàng ở khu vực
Bắc Thái.
- Quặng kim loại màu chứa vàng (kiểu thành hệ quặng thiếc - vonfram và
anmonit chứa vàng).
Tổng công ty khoáng sản - TKV
5
Báo cáo tổng kết đề tài
- Thuộc loại đá chứa vàng. Đã biết có một số đá macma bị biến đổi chứa
vàng (như ở Đà Lạt, Tú Lệ) đá lục nguyên - phun trào bị biến đổi chứa vàng (ở
Quảng Nam Đà Nẵng, Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam).
Tóm lại các tài liệu đều cho thấy khoáng vật học của vàng không phức
tạp. Trong thiên nhiên vàng gặp ở dạng tự sinh, hợp chất hóa học và dung dịch
rắn.
I.3. Các phương pháp chế biến thu hồi vàng
Công nghệ gia công chế biến quặng chứa vàng rất phức tạp. Để thu hồi có
hiệu quả vàng và các cấu tử có ích khác từ quặng này thông thường sử dụng các
phương pháp tuyển khoáng, thủy luyện và hỏa luyện khác nhau như: chọn tay,
tuyển trọng lực, tuyển nổi, hỗn hống, xyanua hóa, clo hóa, thioure và nung
luyện. Thông thường các phương pháp này thường sử dụng kết hợp với nhau tức
là gia công chế biến quặng theo một sơ đồ hỗn hợp.
I.3.1. Các phương pháp tuyển khoáng
Tuyển trọng lực thường là phương pháp được áp dụng bổ xung cho các
phương pháp khác như tuyển nổi, xyanua hóa hoặc hỗn hống. Phương pháp này
đặc biệt hiệu quả trong vòng kín với khâu nghiền để thu hồi những hạt vàng lớn
và một phần vàng nhỏ. Tùy theo tính chất của quặng đem tuyển thực thu của
khâu này thường từ 10 - 80%. Trước kia việc thu hồi vàng từ khâu này thường
sử dụng bàn đãi, gần đây máy lắng được dùng rộng rãi hơn vì nó có nhiều ưu
điểm. Một phần vàng mịn có thể thu hồi vào quặng tinh của máy lắng. Khi máy
lắng làm việc với chế độ thích hợp, thu hoạch quặng tinh có thể đạt tới 5 - 10%.
Để thu hồi vàng mịn có thể dùng hệ thống xyclon thủy lực kết hợp với
bàn đãi. Một nhà máy của LB Nga đã áp dụng hệ thống này để thu hồi vàng mịn
từ bùn tràn phân cấp của khâu nghiền giai đoạn 2 rất có hiệu quả.
Tuyển nổi là phương pháp được áp dụng rất rộng rãi. Ngay từ đầu những
năm 70, ở Liên Xô phương pháp tuyển nổi đã được áp dụng rộng rãi ở các nhà
máy tuyển vàng và tới 65% số lượng quặng đã được xử lý bằng tuyển nổi. Thế
mạnh của tuyển nổi là đảm bảo tỷ lệ thu hồi vàng và các cấu tử có ích đi kèm rất
cao, làm hạ giá thành khai thác quặng.
Thuốc tập hợp cho vàng là các kxantogenal, dithioplaosfal mecaptan,
muối của các axit béo v.v… Các thuốc đè chìm đối với vàng có thể kể đến
Tổng công ty khoáng sản - TKV
6
Báo cáo tổng kết đề tài
xyanua, natri sunfua, các chất kiềm, natri sunfit, đồng sunfat, thủy tinh lỏng, tinh
bột v.v…
Tính nổi của vàng tự do trong môi trường kiềm phụ thuộc vào dạng kiềm
và pH của môi trường: pH = 9,5 đối với môi trường là vôi, pH = 10,8 - xôđa và
pH = 11,8 - xút. Khi pH môi trường vượt quá các giới hạn trên thì khả năng
tuyển nổi của vàng sẽ bị giảm. Vàng tự do dễ dàng tuyển nổi bằng xantat trong
môi trường pH = 7 - 9.
Tính nổi của vàng nằm trong kết hạch phụ thuộc rất nhiều vào tính nổi
của khoáng vật liên kết. Vàng trong kết hạch với sunfua, trong điều kiện tuyển
nổi bình thường bằng thuốc tập hợp bằng thuốc tập hợp sunfuahydryl sẽ đi vào
sản phẩm quặng tinh. Kết hạch với thạch anh, hydroxit sắt và các khoáng không
sunfua khác, trong điều kiện tuyển nổi sunfua vàng chỉ nổi được ở một tỷ lệ xác
định giữa trọng lượng vàng và trọng lượng khoáng vật liên kết và giữa kích
thước bề mặt phủ của phần vàng và phần khoáng liên kết. Nếu tỷ lệ này ở mức
độ phụ thuộc thì các kết hạch đó sẽ đi vào quặng thải. Trạng thái nổi của vàng
nằm trong các khoáng vật được xác định bởi tính nổi của các khoáng vật đó - gọi
là vật mang của vàng.
Sơ đồ và chế độ tuyển nổi quặng vàng phụ thuộc vào thành phần vật chất
của quặng đem tuyển vì thế công nghệ tuyển nổi của loại quặng này sẽ khác đối
với quặng khác. Tuy thế trong sơ đồ tuyển nổi các loại quặng vàng khác nhau
cũng có những điểm tương tự nhau, đó là quá trình tuyển phân đoạn và sự rút
gọn tối đa số lần tuyển tinh, thậm chí hoàn toàn loại bỏ quá trình tuyển tinh.
I.3.2. Các phương pháp thủy luyện
Việc tách vàng và các kim loại quý khác từ quặng, tinh quặng hoặc bất kỳ
một bã nào chứa vàng có thể đạt được bằng một trong các phương pháp thủy
luyện. Từ lâu các nhà nghiên cứu đã nỗ lực tìm tòi, phát triển, cải tiến và đã thu
được các kết quả tốt về quá trình công nghệ tách vàng.
Cho đến nay công nghệ thủy luyện thu hồi vàng sử dụng chủ yếu hai loại
hợp chất là clo (Cl2) và cyanua của các kim loại kiềm (KCN, NaCN). Nhưng
việc thu hồi vàng từ các nguyên liệu ngày càng đa dạng, clo và xyanua bị hạn
chế trên một số các đối tượng. Vì thế mà các nhà nghiên cứu đã tìm kiếm các tác
nhân khác. Năm 1941 Plaksin đã công bố công trình dùng thioure để hòa tách
vàng và đã được sự chú ý thích đáng. Benzonski và các cộng tác viên đã công bố
trong patent của mình việc ứng dụng amonithiosunfat để hòa tách vàng vào năm
Tổng công ty khoáng sản - TKV
7
Báo cáo tổng kết đề tài
1978 và Korxey vào năm 1981. Ngoài ra các tác giả cũng đã nghiên cứu các chất
oxy hóa mạnh để hòa tách vàng như hypocloryt, brom, iod v.v…
I.3.3. Phương pháp clo hóa
Phương pháp clo hóa còn co tên là platner đã ứng dụng vào sản xuất năm
1863 ở Bắc Mỹ, Úc và Nam Phi đối với những quặng chứa vàng không thích
hợp với phương pháp hỗn hống.
Quá trình clo hóa dựa trên hiện tượng trong môi trường ẩm clo phản ứng
với vàng và tạo thành AuCl3 và AuCl4-, các muối này hòa tan trong nước.
Phương pháp này chỉ sử dụng được với một số quặng vàng nhất định. Cụ thể là
các loại quặng oxyt ở bậc cao nhất như quặng thiếc (SnO2), sắt (III) oxyt hoặc
các quặng sunfua, asenopyrit, antinmorit tellin đã được thiêu.
Phương pháp clorua hóa đã có từ lâu đời và đã từng có đóng góp đáng kể
trong công nghệ hòa tách vàng.
Những ưu điểm của phương pháp clo hóa:
- Tốc độ hòa tan nhanh.
- Quặng chứa cacbon it bị ảnh hưởng.
- Không cần rửa quặng trước khi clo hóa.
- Giá thành clo thấp.
Nhược điểm của phương pháp clo hóa:
- Tính chọn lọc thấp đối với vàng so với kim loại thông thường khác như
Cu, Ni, Co, Zn.
- Không tách được Ag từ quặng.
- Vận chuyển tàng trữ khí clo khó khăn.
- Thiết bị dễ bị ăn mòn và rất khó mở rộng quy mô sản xuất. Thông
thường quy mô sản xuất không vượt quá 10t/mẻ.
- Chủng loại quặng có thể sử dụng trực tiếp phương pháp clo hóa rất hạn
chế nếu không có giai đoạn tiền xử lý là nung cháy.
Với những ưu nhược điểm trên phương pháp clo hóa đã từng là công nghệ
hòa tách vàng chủ đạo của nửa cuối thế kỉ XIX. Cho tới nay hầu như đã không
được sử dụng nữa mà đã được thay thế bằng công nghệ xyanua hóa.
Tổng công ty khoáng sản - TKV
8
Báo cáo tổng kết đề tài
I.3.4. Phương pháp xyanua hoá
Năm 1846 Elsnel người đầu tiên phát hiện ra hiện tượng vàng có khả năng
bị hòa tan trong dung dịch xyanua kiềm khi có mặt oxy. Về sau được
MacAuthur và Boonstra nghiên cứu tỷ mỉ vào năm 1945.
Mặc dù vậy cơ chế phản ứng hóa học của quá trình hòa tan vàng cũng chỉ
mới được làm sáng tỏ sau năm 1970. Đó là cơ chế ăn mòn điện hóa.
Phương pháp xyana hóa thu hồi vàng từ quặng và tinh quặng và gồm 3 giai
đoạn chỉnh
- Hòa tan vàng vào dung dịch (tạo phức Au(CN)2- ).
- Kết tủa thu hồi vàng từ dung dịch.
- Tinh chế vàng.
Quá trình hòa tan:
Quá trình hòa tan vàng trong dung dịch xyanua là một quá trình phản ứng
điện hóa học theo kiểu cơ chế ăn mòn kim loại. Trong hệ xảy ra đồng thời hai
phản ứng là oxy hóa vàng lại anot và khử oxy hoà tan tại catot.
Au + 2CN- => AU(CN)2- + e (Anot)
O2 + H2O + 4e => 4OH- (Catot)
Phản ứng tổng thể:
4Au + 8CN- + O2 + 2H2O = 4Au(CN)2- + 4OHVề nhiệt động: là phản ứng có sự tham gia của nhiều cấu tử. Do các kim
loại có trong quặng như Fe, Cu, Ni, Sb, Au, Mn, Bi, Pb, Zn. Thông thường
những kim loại thường có hàm lượng cao hơn vàng và có hoạt tính hóa học tốt
hơn những kim loại này đôi khi có tác dụng tốt hoặc kìm hãm quá trình hòa tan
vàng.
Phản ứng hòa tan vàng trong dung dịch xyanua có nhiều yếu tố ảnh hưởng
như sau:
- Độ pH của dung dịch : Trong hệ phản ứng luôn luôn phải giữ một lượng
kiềm nhất định từ 0,01 - 0,25% nhằm giữ cho xyanua không bị thủy phân tạo
thành HCN và hạn chế độ tan của một số các kim loại khác.
NaCN + H2O ' HCN + NaOH
Tổng công ty khoáng sản - TKV
9
Báo cáo tổng kết đề tài
Tuy nhiên dùng lượng kiềm nhiều sẽ kiềm hãm sự hoà tan của vàng. Bản
chất của kiềm đưa vào cũng có ảnh hưởng khác nhau như vôi, xút hay xôđa.
Thông thường trong hệ phản ứng này độ pH = 11-12 là tối ưu.
- Vai trò của oxy: Trong phản ứng hòa tan vàng trong dung dịch xyanua có
sự tham gia của oxy. Vì vậy việc cấp đủ oxy cho hệ phản ứng vô cùng quan
trọng. Thông thường ở 250C lượng oxy hòa tan trong nước là 5-8 mg/lít. Trong
quá trình hòa tan vàng lượng oxy bị tiêu hao dần. Theo phương trình phản ứng
lượng oxy hòa tan trong nước tương ứng với nồng độ xyanua để hòa tan vàng
thường là 0,01%.Thông thường khi hòa tan vàng dùng nồng độ xyanua lớn hơn
nhiều vì vậy phải có biện pháp thúc đẩy cưỡng bức, cung cấp oxy cho sự phản
ứng.
- Ảnh hưởng của nhiệt độ : Cũng như phần lớn các phản ứng hóa học nhiệt
độ tăng thì tốc độ phản ứng tăng. Nhưng mặt khác nhiệt độ tăng lượng oxy hòa
tan trong dung dịch giảm. Vì vậy cần phải thực hiện ở một nhiệt độ tối ưu có
tốc độ hòa tan lớn nhất.
- Ảnh hưởng của nồng độ xyanua: Tùy bản chất của từng loại quặng cần
phải thí nghiệm xác định được một vùng nồng độ tối ưu: Nếu vượt quá vùng đó
tốc độ hòa tan vàng sẽ giảm đi.
- Ảnh hưởng của kích thước và dạng của hạt vàng: Một trong những yếu tố
quan trọng đối với tốc độ xyanua hóa là kích thước hạt vàng trong quặng và
trong tinh quặng. Hạt vàng nhỏ hòa tan nhanh hơn hạt vàng lớn, bởi vì hạt nhỏ
có bề mặt riêng lớn hơn. Nhưng mặt khác đối với quặng hoặc tinh quặng có
chứa các hạt vàng có kích thước nhỏ khi xyanua hóa tốc độ hạt của quặng phải
được nghiền mịn hơn để các hạt vàng không bị quặng bao bọc.
- Ảnh hưởng của các ion đi kèm: Dạng vàng tự sinh luôn luôn chứa Ag và
Cu vàng ở trong quặng luôn luôn đi với các khoáng pyrit, asenopyrit, galenit,
pyrotin, chancopyrit, đây là những tác nhân tiêu hao oxy và xyanua tự do. Vì
vậy để hòa tan hết vàng lượng xyanua thường tiêu tốn gấp nhiều lần.
- Ảnh hưởng của nền quặng: Nền quặng vàng chứa nhiều thành phần SiO2,
Al2O3, alumosilicat, sắt (III) hydroxyt các chất này có khả năng hấp thụ phức
vàng rất lớn làm ảnh hưởng đến kết quả xyanua hóa.
Về động học : Phản ứng hòa tan vàng từ quặng trong dung dịch xyanua là
phản ứng qua nhiều giai đoạn. Phản ứng xẩy ra giữa pha rắn và pha lỏng qua các
giai đoạn :
Tổng công ty khoáng sản - TKV
10
Báo cáo tổng kết đề tài
- Giai đoạn l: Sự hấp thụ các phân tử khí oxy bởi dung dịch xyanua
- Giai đoạn 2: Sự dịch chuyển ion xyanua và phân tử oxy đến tiếp cận bề
mặt hạt vàng.
- Giai đoạn 3 : Phản ứng hóa học trên bề mặt kim loại.
- Giai đoạn 4: Sự dịch chuyển ion phức vàng trong quá trình hòa tan vàng
từ bề mặt kim loại vào dung dịch.
Về mặt lý thuyết giai đoạn chậm nhất sẽ quyết định tốt độ phản ứng.
Theo một số tác giả giai đoạn 2 và 3 quyết định tốc độ phản ứng.
* Các phương pháp tiến hành hòa tan vàng.
Cho tới nay trong công nghệ hòa tan vàng bằng dung dịch xyanua chỉ có
thể thực hiện theo 3 phương pháp : phương pháp đổ đống, phương pháp bể
thấm, phương pháp bể khuấy.
- Phương pháp đổ đống ( heap leaching):
Phương pháp này thường áp dụng cho loại quặng nghèo và có khối lượng
lớn. Đầu tư chi phí cho phương pháp này thấp, có thề xử lý với khối lượng
quặng lớn. Nhưng nhược điểm của nó là thời gian hoạt động một chu kỳ khá dài
thường 30 - 150 ngày, khó phân bổ hóa chất, khó điều chỉnh quá trình và phụ
thuộc nhiều vào thời tiết (nắng, mưa, đóng băng).
- Phương pháp bể thấm (Vat leaching):
Phương pháp bể thấm hoạt động trên nguyên tắc dung dịch xyanua chảy
qua quặng từ trên xuống dưới. Để đảm bảo tốc độ chảy 12 lít.m2/ h cỡ hạt của
quặng không được quá mịn và lớp quặng không được chứa nhiều bùn sét. Nói
chung kích thước hạt quặng 0,1 - O,8mm. Ưu điểm của phương pháp này là chi
phí thiết bị thấp, thao tác vận hành đơn giản, thủ công. Nhược điểm của phương
pháp này là một chu kỳ làm việc khá lâu thường từ 7 - 15 ngày không sử dụng
được loại quặng mịn chứa nhiều bùn sét, theo dõi và điều chỉnh lượng số kỹ
thuật khó khăn.
- Phương pháp bể khuấy (Agitation leaching)
Quặng nghiền mịn thường 80 - 90% cỡ hạt O,074mm, với một số quặng
pyrit, telurit cỡ mịn của hạt có thể tới O,040mm. Tỷ lệ rắn : lỏng trong dung
dịch thường từ 1/2 - l/6. Dung dịch chứa quặng được khuấy đảo liên tục trong
thời gian hoà tan thông thường không quá 72h. Khuấy cơ học thường dùng bể
khuấy nhỏ, khuấy bằng áp suất nén của không khí dùng cho các bể khuấy hình
trụ có đáy cong lõm (bể pachuca) hoặc kết hợp cả hai (máy khuấy Dorr).Ưu
Tổng công ty khoáng sản - TKV
11
Báo cáo tổng kết đề tài
điểm của phương pháp này là không cần phân loại quặng theo cỡ hạt mà nghiền
mịn tất (all slimming), thời gian hòa tan ngắn, dễ điều khiển các thông số quá
trình.
Với phương pháp này giá thành thiết bị cao như phải dùng máy nghiền
mịn, máy lọc cỡ lớn.
Với những nước công nghiệp phát triển phương pháp bể khuấy được coi là
phương pháp chủ đạo trong công nghệ thủy luyện vàng.
*Quá trình kết tủa:
Sau khi kết thúc quá trình hòa tan, tiến hành lọc rửa được dung tích phức vàng
(Au(CN)2-) Để thu hồi vàng có thể liến hành theo nhiều cách khác nhau như kết
tủa với kẽm, hấp thụ bằng than hoạt tính, trao đổi ion hay diện phân. Cho tới nay
trong sản xuất thường áp dụng kết tủa bằng kẽm và hấp phụ bằng than hoạt tính
sau đó giải hấp và điện phân.
Kết tủa vàng bằng kẽm:
Dùng kẽm kim loại để kết tủa vàng trong dung địch xyanua là một quá
trình điện hóa xảy ra theo phản ứng:
2Au(CN)2- + 2e = 2 Au + 4CNZn + 4CN- = Zn (CN)4- + 2e
Phản ứng tổng thể:
2Au(CN)2 + Zn = 2Au + Zn(CN)4-2
Kcb của phản ứng này là Kcb = 1.1023
Như vậy theo quan điểm nhiệt động hóa học vàng có thể kết tủa hoàn toàn
bằng kẽm.
Để quá trình kết tủa có hiệu quả tốt cần chú ý các yếu tố ảnh hưởng :
Nồng độ xyanua tự do, nồng độ oxy hòa tan, nhiệt độ, nồng độ kiềm, chất phụ
gia, nồng độ vàng trong dung dịch.
- Ảnh hưởng của nồng độ xyanua : Một trong những yếu tố có ảnh hưởng
lớn đến quá trình kết tủa vàng là nồng độ xyanua tự do trong dung dịch. Theo
các tài liệu công bố nồng độ xyanua tự do trong dung dịch không thấp hơn
0,05%. Nếu thấp hơn 0,05% thì quá trình kết tủa sẽ ngừng. Nồng độ xyanua
cũng ảnh hưởng đến quá trình phân hủy kẽm do tạo thành kẽm hydroxyt hay
kẽm zincat.
- Ảnh hưởng của nồng độ kiềm : Theo các tài liệu khi kết tủa vàng nồng độ
kiềm 0,012 - 0,02% (tính cho CaO) là thích hợp.
Tổng công ty khoáng sản - TKV
12
Báo cáo tổng kết đề tài
- Ảnh hưởng của nhiệt độ: Các công trình nghiên cứu cho thấy tốc độ kết
tủa của vàng bởi kẽm nhiệt độ ảnh hưởng lớn. Hiệu suất phản ứng sẽ thấp khi
nhiệt độ dưới 200C. Khi nhiệt độ tăng quá 500C quá trình kết tủa cũng không
được thuận lợi do tăng ăn mòn kẽm và sinh khí hydro.
- Ảnh hưởng của oxy hòa tan: Sự có mặt của oxy hòa tan không thuận lợi
cho kết tủa vàng : oxy gây kìm hãm sự kết tủa vàng là do thụ động hóa bề mặt
kẽm đặc biệt khi nồng độ xyanua thấp.
- Ảnh hưởng của nồng độ vàng trong dung địch : Về nguyên tắc động học
quá trình nồng độ vàng trong dung dịch không ảnh hưởng đến tốc độ kết tủa.
Tuy nhiên khi vàng đã kết tủa trên mặt kẽm sẽ che chắn quá trình kết tủa tiếp
theo. Vì vậy khi nồng độ vàng cao tốc độ kết tủa bị chậm lại.
- Ảnh hưởng của chất phụ gia : sử dụng muối chì (nitrat hay axetat chì) ở
mức độ hợp lý sẽ có tác dụng tốt lên quá trình kết tủa. Nồng độ muối chì hợp lý
trong đung dịch là 3 - 10 ppm.
Ngoài những yếu tố đã nêu ở trên cần chú ý thêm là trong quá trình kết tủa
có sinh ra khí hydro mà vàng có thể tan lại khi tiếp xúc với dung dịch. Vì vậy
khi sử dụng kẽm hạt,kẽm phoi cần phải để cho dung dịch vàng chảy ngược chiều
và nên thu góp sản phẩm theo nhiều giai đoạn.
*Tinh chế vàng
Thu hồi vàng từ dung dịch xyanua bằng kẽm tuỳ thuộc vào bản chất quặng,
thời gian và phương pháp kết tủa, hàm lượng vàng trong khối tủa chiếm từ 20 70%. Ngoài ra còn chứa Zn, ZnO, các kim loại Ag, Cu, Pb, Sn, As, Fe và các
cặn cơ học khác.
Để làm sạch vàng người ta thường sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nung chảy.
- Phương pháp hòa tan hóa học
- Phương pháp điện phân.
+ Phương pháp nung chảy : Từ cổ xa người ta đã áp dụng phương pháp
nung chảy để tinh chế vàng bằng cách nung chảy vàng với hỗn hợp muối ăn, sắt
sunfat, cát, S, pyrit. Trong quá trình nung chảy như vậy bạc và các kim loại khác
sẽ bị clo hóa hay sunfua hóa. Các muối tạo thành sẽ bay hơi hoặc đi vào chất
độn hoặc tách ra bề mặt của vàng. Lặp lại quá trình này nhiều lần sẽ nhận được
vàng có độ tinh khiết cao. Phương pháp này.còn được áp dụng cho mãi tới tận
đầu thế kỷ XIX. Loại vàng cốm có lẫn nhiêu bạc có thể nung với muối NaHSO4
Tổng công ty khoáng sản - TKV
13
Báo cáo tổng kết đề tài
và rửa bằng nước, bạc tan dưới dạng AgSO4. Trong một vài trường hợp vàng
chứa ít tạp chất có thể nung với muối KNO3, NaNO3 MnO2, Na2CO3, Na2B4O7,
NaCl thu được vàng có độ tinh khiết 99,9%.
+ Phương pháp hòa tan bằng hóa học: Sau khi thu được hỗn hợp chứa vàng
khi quá trình xi măng hóa kết thúc ta tiến hành lọc, rửa. Sau đó chế hóa với
H2SO4 hoặc HCl. Đun đến lúc hết phản ứng, tiến hành lọc, gạn, rửa bằng nước.
Ta thu được bột vàng kết tủa. Tiến hành sấy, nung ở 11000C thu được vàng 98 99%. Để thu được vàng có độ tinh khiết cao cần tiến hành hòa tan bằng dung
dịch cường thủy. Đun sôi cho đến lúc vàng tan hoàn toàn. Tiếp tục cô cạn với
nhiệt độ và tốc độ bay hơi vừa phải để đuổi hết HNO3 dư. Trong khi bay hơi cần
cho thêm HCl và NaCl để thúc đẩy quá trình. Để nguội, pha loãng dung dịch
bàng HCl loãng, bạc sẽ kết tủa ở dạng AgCl. Nếu dung dịch chứa nhiều Pb thì
cho thêm axit H2SO4 để kết tủa chì ở dạng PbSO4. Lọc để tách kết tủa. Sau đó
kết tủa vàng với các tác nhân : Na2SO4, FeSO4, NaNO2 hoặc hydroxylamin. Độ
tinh khiết của vàng có thể được 99,9%.
+ Phương pháp điện phân : Phương pháp điện phân là phương pháp rất có
hiệu quả để tách Au ra khỏi Ag hay các kim loại khác.
Tách bạc ra khỏi vàng theo phương pháp Mobins được tiến hành như sau:
Sử dụng bạc có chứa vàng làm anot còn catot là bằng bạc tinh khiết. Dung dịch
điện phân là bạc nitrat loãng. Trong quá trình điện phân, nếu mật độ dòng thích
hợp, bạc sẽ kết tủa trên catot, trong khi vàng ở dạng bột mịn nằm ở anot. Bạc
nhận được hoàn toàn tinh khiết không chứa vàng. Vàng từ anot có thể làm sạch
tiếp tục bằng các xử lý hòa tan một phần nhỏ bạc trong đó với axit HNO3, Độ
tinh khiết của vàng có thể đạt 99,9%.
Tách Pt ra khỏi vàng thực hiện theo phương pháp Wollwil. Theo phương
pháp này nguyên liệu cần tinh chế (Au lẫn Pt) làm anot, vàng tinh khiết làm
catot, dung dịch điện phân là AuCl4-, mọi dung dịch khác đều không thích hợp.
Phương pháp này cho phép tách vàng ra khỏi các kim loại khác. Độ tinh khiết
của vàng có thể đạt 99,99%.
Tổng công ty khoáng sản - TKV
14
Báo cáo tổng kết đề tài
I.4. Khái quát quá trình, đặc điểm địa chất khoáng sản của mỏ Vàng gốc
Apey A huyện Dakrong tỉnh Quảng Trị
I.4.1. Vị trí địa lý
Khu vực mỏ vàng gốc Apey A có diện tích được thăm dò 0,58 km2 thuộc
xã A Bung huyện Dakrong tỉnh Quảng Trị, được giới hạn bởi các điểm có tọa độ
hệ UTM:
Điểm
A
B
C
D
E
F
G
X(m)
1813202
1812880
1813182
1813840
1812254
1812686
1813047
Y(M)
718867
719317
719621
720062
719628
719053
718779
thuộc tờ bản đồ địa hình 1:50.000 hệ VN 2000 có danh pháp E48 - 131.C(6441
IV).
I.4.2. Đặc điểm địa chất
Địa tầng: tham gia cấu trúc vùng mỏ gồm các trầm tích lục nguyên xen
lớp mỏng phun trào bazơ bị biến chất tướng đá phiến lục thuộc hệ tầng Núi Vú
(NP - ε1nv). Các đá có phương cấu trúc Tây Bắc - Đông Nam, và bị các đá
magma thuộc phức hệ Núi Ngọc (Gb, Gb Di/nP - ε1nn), phức hệ Quế Sơn (G/P2
- T1 qs) xuyên cắt. Một số nơi đá bị phá hủy bởi hệ thống đứt gãy phương TB DN tạo đới cà nát dập vỡ, trong đó phát triển các hiện tượng biến đổi nhiệt dịch
thạch anh hóa, sunfua hóa thuận lợi cho quá trình tạo khoáng vàng.
I.4.3. Đặc điểm khoáng sàng
Khoáng hóa vàng phân bố chủ yếu trong đới dập vỡ kiến tạo, đới đá biến
đổi nhiệt dịch phát triển dọc theo hệ thống đứt gẫy phá hủy TB - ĐN trong đá
biến chất hệ tầng Núi Vú, phân hệ tầng dưới tập 2, hoạt động tạo khoáng trong
mỏ có liên quan đến hoạt động xâm nhập phức hệ Quế Sơn và các pha nhiệt dịch
đi kèm
Các thân quặng vàng công nghiệp trong đới khoáng hóa là tập hợp các vi
mạch, mạch thạch anh sunfua chứa vàng kích thước từ vài mm đến 20cm, các
Tổng công ty khoáng sản - TKV
15
Báo cáo tổng kết đề tài
biệt có mạch dày 50 - 70 cm, phát triển tập trung thành đới rộng hàng mét đến
hàng chục mét, dài từ 300 m đến 1000 m. Thành phần khoáng vật tạo quặng bao
gồm pyrit, pyrotin, magnhetit, chancopyrit, asenopyrit và vàng. Tổng khoáng
hóa sunfua từ 1 - 10%, trung bình 4 - 5%, vàng hạt nhỏ, đa phần kích thước <
0,01mm, độ tinh khiết 88,4 - 93%. Hàm lượng vàng từ 0,3 - 56 g/t. Các thân
quặng có chiều dày và hàm lượng vàng biến thiên mạnh theo phương và hướng
cắm.
Hiện nay Công ty cổ phần phát triển khoáng sản 4 đã hoàn thành công tác
thăm dò với trữ lượng cấp 122 : 300 kg và cấp tài nguyên 333 : 800 kg. Mỏ vàng
có điều kiện giao thông, hạ tầng cơ sở khá thuận lợi, điều kiện ĐCTV - ĐCCT ít
phức tạp, cần được đầu tư thăm dò và khai thác.
Tổng công ty khoáng sản - TKV
16
Báo cáo tổng kết đề tài
PHẦN II
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
II.1. Mục tiêu của đề tài:
Nghiên cứu xác lập quy trình công nghệ thu hồi vàng thuộc thành hệ
Vàng sunfua và Vàng - thạch anh ở mỏ Apey, Dakrong, Quảng Trị.
II.2. Mẫu nghiên cứu
II.2.1. Mẫu nghiên cứu công nghệ
Mẫu nghiên cứu công nghệ do công ty cổ phần phát triển khoáng sản 4
lập phương án và lấy mẫu trong quá trình triển khai đề án thăm dò quặng vàng
gốc mỏ vàng Apey, Dakrong, Quảng trị. Mẫu được lấy ở hai thân quặng chính II
và VI gồm 3 đơn mẫu APCN 1/1, APCN 1/2 và APCN 1/3, đảm bảo được chất
lượng và khối lượng cần thiết.
II.2.2. Gia công mẫu
Các đơn mẫu được gia công theo sơ đồ hình 1 để lẫy mẫu phân tích kiểm
tra lại hàm lượng vàng có trong mẫu thực. Kết quả phân tích hóa các đơn mẫu
được ghi trong bảng 1.
Bảng 1: Kết quả phân tích kiểm tra các đơn mẫu.
STT
Ký hiệu mẫu
Hàm lượng vàng (g/t)
1
APCN 1/1
2,08
2
APCN 1/2
3,82
3
APCN 1/3
5,89
Tổng công ty khoáng sản - TKV
17
Báo cáo tổng kết đề tài
Sơ đồ gia công mẫu quặng vàng xâm nhiễm mịn Apeya
Mẫu đất đá, quặng
Làm khô
Đập hàm
Sàng 5 mm
+
Đập hàm
Sàng 1 mm
+
Nghiền
Lưu
Rây kiểm tra
0.074 mm
Ghi chú:
P. tích, K. tra
Tổng công ty khoáng sản - TKV
Lưu
- Trộn mẫu
- - Giản lược mẫu
18
- Xem thêm -