Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Nghiên cứu các yếu tố thuận lợi gây cơn và một số hậu quả của cơn đau đầu migrai...

Tài liệu Nghiên cứu các yếu tố thuận lợi gây cơn và một số hậu quả của cơn đau đầu migraine đối với chất lượng cuộc sống

.DOC
117
111
135

Mô tả:

1 ĐẶT VẤN ĐỀ Migraine là một bệnh đau đầu nguyên phát do nguyên nhân mạch máu. Bệnh có thể gặp ở mọi giới tính, mọi thành phần xã hội và mọi chủng tộc . Theo các tác giả trên thế giới trong các chứng đau đầu thường gặp thì bệnh nhân Migraine chiếm một tỉ lệ tương đối cao khoảng từ 11,5- 18,5%. Theo đó thì có khoảng 30 triệu người Mỹ mắc chứng đau nửa đầu tập trung ở độ tuổi 25- 35 [3]. Ở Việt Nam, bệnh Migraine có tỷ lệ gặp là 16% (Theo Nguyễn Văn Chương và cộng sự). Một nghiên cứu khác cho biết tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh này cao gấp 3 lần nam giới và đa số bệnh nhân phát bệnh ở tuổi 20- 29 . Bệnh cơ bản gặp ở lứa tuổi lao động, đặc điểm lâm sàng là những cơn đau đầu kịch phát kéo dài từ 4 đến 72 giờ kèm theo nhiều triệu chứng toàn thân khác khiến bệnh nhân giảm sút và mất khả năng lao động. Theo thống kê của Abu- Arefeh (1994) có tới 29,7% số buổi nghỉ ốm của học sinh trong các trường phổ thông là do đau đầu Migraine và hơn 9% là do những cơn đau đầu của cha mẹ ,. Theo Blau, mỗi năm ở Mỹ và Anh có hàng triệu ngày nghỉ việc. Làm thất thoát tương đương hàng tỉ đôla hoặc bảng Anh do Migraine. Bệnh có thể gây ra những biến chứng nặng nề. Trong y văn đã có nhiều mô tả về các trạng thái Migraine có liên quan với đột quỵ ở cả 2 thể chảy máu và nhồi máu. Theo khuyến cáo của tổ chức y tế thế giới, Migraine được xếp vào mục các yếu tố nguy cơ của đột quỵ não . Bệnh Migraine luôn được xem là một vấn đề sức khỏe quan trọng có ảnh hưởng lớn tới kinh tế, xã hội. Theo tổ chức y tế thế giới và hội đau đầu quốc tế (International Headache Society: IHS) đau nửa đầu đứng thứ 19 trong số tất cả các bệnh gây ra khuyết tật và là một trong 12 nguyên nhân hàng đầu gây ra 2 những năm sống với khuyết tật ở nữ giới trong mọi lứa tuổi trên toàn thế giới. Đau nửa đầu thường được coi là một căn bệnh vô hiệu hóa có thể làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống của người bệnh . Trong những năm gần đây, các tác giả trên thế giới ngoài việc nghiên cứu các đặc điểm lâm sàng, phương pháp điều trị đau đầu Migraine thì còn chú trọng dự phòng bệnh dựa vào nghiên cứu các yếu tố thuận lợi gây cơn đau nửa đầu và đánh giá ảnh hưởng của cơn đau đầu Migraine đối với chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên tại Việt Nam, các nghiên cứu về chủ đề này hiện còn hạn chế. Để góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu các yếu tố thuận lợi gây cơn và một số hậu quả của cơn đau đầu Migraine đối với chất lượng cuộc sống”. Nhằm 2 mục tiêu: 1. Mô tả các yếu tố thuận lợi làm xuất hiện cơn đau đầu Migraine. 2. Đánh giá một số hậu quả của cơn đau đầu Migraine đối với chất lượng cuộc sống. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Dịch tễ học Bệnh Migraine chiếm tỷ lệ tương đối cao trong các chứng đau đầu thường gặp. Trong 19 nghiên cứu trên người lớn đã được công bố trên các tạp chí khoa học uy tín trên thế giới thì tỷ lệ người mắc chứng Migraine được đánh giá theo tiêu chuẩn IHS là 11,5% và nguy cơ mắc bệnh Migraine có thể xảy ra là 7% như vậy tỷ lệ người mắc bệnh đạt khoảng 18,5% . Tỷ lệ mắc Migraine ở châu Âu và Bắc Mỹ có xu hướng cao hơn các nước châu Phi, châu Á và Trung Đông. Tại Mỹ chứng đau này phổ biến hơn ở những người da trắng so với các bệnh nhân da đen và tỷ lệ thấp lại thuộc về một số ít những người Mỹ gốc Á. Theo đó thì khoảng 30 triệu người Mỹ mắc chứng đau nửa đầu tập trung ở độ tuổi 25- 35. Qua đó cho thấy màu da và sắc tộc chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ mắc chứng bệnh này hiện nay . Theo các thống kê mới nhất hiện nay thì độ tuổi và giới tính là 2 yếu tố song hành với yếu tố màu da, châu lục ảnh hưởng lớn tới căn bệnh này. Trong đó tỷ lệ mắc bệnh này ở phụ nữ đạt đỉnh trong độ tuổi từ 30- 40, sau đó giảm dần ở các độ tuổi tiếp theo. Đặc biệt tỷ lệ này giảm rõ rệt hơn sau thời kì mãn kinh . Ở nam giới, tỷ lệ này tăng dần và đạt đỉnh cao ở độ tuổi trưởng thành từ 25- 40. Sau đó tỷ lệ mắc hội chứng đau nửa đầu giảm dần khi nam giới bước qua tuổi trưởng thành. Theo thống kê có tới 75% nam giới có biểu hiện mắc hội chứng này trước 35 tuổi . So sánh với nữ giới thì tỷ lệ mắc hội chứng đau đầu Migraine ở nam giới thấp hơn khoảng 3 lần trong độ tuổi trưởng thành. Ở trẻ em và trẻ vị thành niên dưới 20 tuổi thì tỷ lệ này thông thường lần lượt là 58,4% và 7,7% ,. 4 Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc hội chứng đau đầu này là 16% (Theo Nguyễn Văn Chương và cộng sự). Một nghiên cứu khác cho biết phụ nữ mắc bệnh này cao gấp 3 lần nam giới, đa số bệnh nhân phát bệnh ở độ tuổi 20- 29 (43,8%) ,. Tỷ lệ phát bệnh sau tuổi 40 là 18%. Theo đó cho thấy được tỷ lệ mắc hội chứng đau đầu Migraine ở Việt Nam khá cao đặc biệt ở phụ nữ độ tuổi trưởng thành . 1.2. Đặc điểm lâm sàng 1.2.1. Đặc điểm lâm sàng cơn Migraine không có thoáng báo hay Migraine không có aura. - Giai đoạn tiền triệu xa: Thường xuất hiện trước cơn hàng giờ hoặc hàng ngày. Bệnh nhân thường thấy mùi vị lạ, ù tai, sợ ánh sáng, rối loạn giấc ngủ hoặc thay đổi sự ngon miệng. Cũng có trường hợp tiền triệu xuất hiện nhưng bệnh nhân không có cơn đau đầu. - Cơn Migraine: + Tính chất kịch phát thành cơn là một đặc điểm quan trọng của Migraine. Thời gian dài ngắn mỗi cơn khác nhau. Ở giai đoạn giữa các cơn bệnh nhân hoàn toàn khỏe mạnh . + Đặc điểm của đau đầu:  Vị trí: Điển hình là đau một bên đầu không cố định nhưng cũng có trường hợp bệnh nhân đau một bên cố định. Đau thường khu trú ở vùng thái dương, trán. Đau vùng chẩm thường hiếm hơn, cũng có nhiều bệnh nhân thấy đau ở sau hốc mắt .  Tính chất đau: Điển hình là đau theo nhịp mạch, hiếm hơn là đau như búa bổ, đôi khi bệnh nhân mô tả như có cảm giác “đau căng như quả bóng như sắp nổ tung”. 5  Cường độ đau: Từ vừa đến dữ dội, đau tăng khi vận động cơ thể, làm gián đoạn hoạt động hằng ngày của bệnh nhân. Thông thường cường độ cơn đau đầu đạt được mức độ cực đại sau 30 phút đến 1 giờ và kéo dài trong 30 phút đến 2 giờ. Trong cơn đau cường độ cơn có thể thay đổi nhiều lần. Ở giai đoạn cuối, cường độ cơn đau giảm dần và chỉ còn âm ỉ kèm theo tăng cảm da đầu .  Hướng lan: Xuất phát từ vùng trán thái dương, đau có thể lan lên đỉnh đầu, ra trán, ra vùng chẩm, lan ra toàn bộ nửa đầu cùng bên hơn là đau toàn bộ đầu. + Thời gian kéo dài cơn đau: Thời gian kéo dài cơn đau Migraine phải kéo dài từ 4- 72 giờ. Đa số các cơn đau kéo dài từ 4- 24 giờ nếu không được điều trị. Tùy theo nghiên cứu của từng tác giả thời gian trung bình của các cơn có khác nhau. Ở một số trường hợp đặc biệt như phụ nữ trong giai đoạn tiền mãn kinh có những cơn đau kéo dài hơn 72 giờ . + Các triệu chứng kèm theo trong cơn: Hay gặp là buồn nôn và nôn. Buồn nôn thường xuất hiện sau đau đầu hay khi đau đầu đạt cường độ cực đại thường nôn cũng bắt đầu xuất hiện. Nhiều khi nôn còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng hơn cả đau đầu và là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hậu quả và tai biến của cơn Migraine. Sợ tiếng động và sợ ánh sáng, tăng nhạy cảm khứu giác, trạng thái tâm lí dễ bị kích thích, dễ cáu giận. Chính vì vậy bệnh nhân thường thích nằm nơi buồng tối, yên tĩnh, không muốn hoạt động hay tiếp xúc với mọi người . + Những biểu hiện bên ngoài hay gặp: Mặt tái, da khô và nhăn, giác mạc mất bóng. Hiếm gặp có trường hợp mặt đỏ. Động mạch thái dương nông nổi căng, biên độ mạch lớn dễ phát hiện ở bệnh nhân đau một bên đầu . - Giai đoạn lui cơn: Cơn Migraine có xu hướng tự thuyên giảm và chấm dứt. Đa số khi bệnh nhân ngủ được mới hết cơn đau. Giấc ngủ càng sâu, cơn 6 đau càng mau chấm dứt. Còn những bệnh nhân không ngủ được thì cơn đau giảm dần tự nhiên hoặc sau khi nôn . - Giai đoạn sau cơn: + Đi tiểu nhiều sau cơn: Flateau cho rằng đây là triệu chứng đặc trưng của giai đoạn sau cơn Migraine. Nồng độ 5- HIAA trong nước tiểu tỷ lệ thuận với cường độ đau đầu. Giai đoạn đa niệu này đi sau giai đoạn thiểu niệu trong cơn . + Sau cơn nhiều bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi, dễ bị kích thích, bồn chồn, trầm cảm, mất khả năng tập trung tư tưởng một vài giờ. + Đi lỏng: Ít gặp nhưng theo Wikinson có thể thấy ở 20% số bệnh nhân bị Migraine . + Các triệu chứng khác: Bệnh nhân có các cơn nóng lạnh kèm theo rét run, thậm chí thân nhiệt giao động, cảm giác khô miệng, ra mồ hôi sau cơn cũng hay gặp. Ngược lại có nhiều bệnh nhân thấy thoải mái, nhẹ nhàng sau khi toát mồ hôi. Có một số bệnh nhân thấy tăng cảm ở động mạch thái dương nông, cảm giác ấn đau vùng thái dương hoặc mỏi gáy. 1.2.2. Migraine có thoáng báo hay Migraine có aura ,. Cơn Migraine có thoáng báo chỉ khác cơn Migraine không có thoáng báo là có triệu chứng thoáng báo (aura) xảy ra trước cơn và biểu hiện ở dạng thị giác, cảm giác, vận động, ngôn ngữ. Triệu chứng thoáng báo thị giác có khi ở dạng kích thích dương tính (ám điểm lấp lánh) hoặc thiếu hụt âm tính (mất đi một phần hay toàn bộ thị trường). - Migraine có triệu chứng thoáng báo điển hình: Năm 1870 Airy đã mô tả triệu chứng thoáng báo điển hình của cơn Migraine ở dạng ám điểm lấp lánh và nó trở thành hình ảnh kinh điển. Ban đầu bệnh nhân nhìn thấy những đốm sáng nhỏ ở gần trung tâm thị trường, trong vòng một phút nó lan rộng ra vùng ngoại vi, viền bờ có hình dích dắc và nhìn thấy lấp lánh. Hình ảnh này 7 gọi là “sơ đồ các pháo đài”. Ở vùng nó đi qua sẽ xuất hiện ám điểm thị giác (stocom). Bản thân Heyck đã trải qua hàng trăm lần loại triệu chứng thoáng báo này. Ngoài ra triệu chứng thoáng báo thị giác còn biểu hiện ở dạng những đốm lửa khổng lồ, có bệnh nhân nhìn thấy quả cầu, các vòng tròn màu sặc sỡ chuyển động theo quĩ đạo xoáy… Rối loạn thị giác trong giai đoạn thoáng báo còn biểu hiện ở dạng thiếu hụt âm tính: Đó là ám điểm, bán manh hoặc mù thoáng qua làm bệnh nhân không thể đọc sách hoặc nhìn được người đối diện với mình chỉ được một nửa bên phải hoặc trái do bán manh ngang hoặc chỉ nhìn thấy một nửa người trên hoặc dưới do bán manh dọc. Triệu chứng thoáng báo ở dạng cảm giác như tê nửa người hoặc vận động như yếu nửa người hay nói ngọng thì khó gặp hơn. - Migraine có triệu chứng thoáng báo kéo dài: Thông thường triệu chứng thoáng báo kéo dài và tồn tại không quá 1 giờ nhưng cũng có trường hợp triệu chứng thoáng báo kéo dài suốt cơn Migraine thậm chí ở giai đoạn trong cơn các triệu chứng thoáng báo còn rõ hơn ở giai đoạn trước đó nhưng thể bệnh này hiếm gặp. - Migraine có triệu chứng thần kinh khu trú: Thuật ngữ này được Charcot đặt từ thời cổ điển của ngành thần kinh Pháp và đã tồn tại hơn thế kỉ nay. Nó phản ánh được tính đa dạng của các triệu chứng thần kinh khu trú kèm theo. Thể bệnh này hiếm gặp và thường thấy ở người trẻ và có tính chất gia đình rõ rệt. Lâm sàng biểu hiện bằng tam chứng: Đau đầu- triệu chứng kèm theo và triệu chứng thần kinh khu trú thoảng qua. Triệu chứng thần kinh khu trú hay gặp nhất là rối loạn cảm giác nửa người ở dạng kiến bò hoặc ở dạng tê bì. Cảm giác tê bì có thể chỉ khu trú rõ rệt ở bàn tay và nửa miệng cùng bên. Cũng có trường hợp rối loạn cảm giác lan lên cánh tay hoặc xuống chân. 8 Trong cơn Migraine rối loạn cảm giác có thể ở nửa người cùng bên hoặc ở dạng rối loạn cảm giác chéo. Nếu triệu chứng thần kinh khu trú kèm theo chỉ là rối loạn cảm giác thì ít khi nó tồn tại dai dẳng. Triệu chứng hay gặp nữa là rối loạn ngôn ngữ, nói ngọng đôi khi kèm cả mất viết. Trong y văn đã ghi nhận có những trường hợp vừa rối loạn ngôn ngữ vừa có liệt nửa người trong cơn Migraine có triệu chứng thần kinh khu trú. Rối loạn vận động ở dạng liệt có thể chiếm 50% số bệnh nhân trong cơn Migraine này. Có trường hợp liệt cả 2 bên hoặc liệt từng bên thay đổi. Triệu chứng này thường khu trú ở bàn tay và cánh tay ,. Liệt nửa người có thể tồn tại dai dẳng kèm theo co cứng, tăng phản xạ gân xương và có phản xạ bệnh lý bó tháp. Có kèm liệt các dây thần kinh sọ não nhất là dây VII cũng thấy trong cơn Migraine, hiếm khi cũng thấy có bệnh nhân co giật kiểu động kinh. Như vậy bệnh cảnh lâm sàng của Migraine có triệu chứng thần kinh khu trú rất nặng nền không khác gì một đột quị não thực thụ. Sự khác nhau là ở chỗ các triệu chứng thần kinh khu trú trong cơn Migraine chỉ thoảng qua và luôn liên quan đến cơn đau đầu Migraine ,. - Migraine nền: Thể này được Bickerstraff mô tả lần đầu tiên vào năm 1961. Các tiền triệu gần có nguồn gốc thân não hoặc thùy chẩm. Cơn Migraine thể này thường bắt đầu bằng một rối loạn thị giác. Trong cơn bệnh nhân có thể có: rối loạn ý thức, cơn sụp đổ, bán liệt thay đổi. Thường xuyên có các triệu chứng tiểu não: chóng mặt, thất điều, nói khó, rung giật nhãn cầu và rối loạn phối hợp vận động . - Migraine có triệu chứng thoáng báo không có đau đầu . Cơn Migraine thể này chỉ có triệu chứng thoáng báo điển hình xuất hiện mà không có pha đau đầu sau đó, thường gặp ở những người > 40 tuổi và ở nam nhiều hơn nữ. 9 - Migraine có triệu chứng thoáng báo bắt đầu cấp tính: Bệnh nhân có đầy đủ các triệu chứng của cơn Migraine có thoáng báo nhưng các tiền triệu gần xuất hiện nhanh và đầy đủ trong thời gian 4 phút . 1.3. Chẩn đoán Migraine ,, Hiện tại cũng chưa có một phương pháp nào để chẩn đoán đặc hiệu cho Migraine do đó hầu hết các tác giả trên thế giới đều khẳng định rằng vấn đề chẩn đoán chỉ dựa vào lâm sàng. Hiện tại tiêu chẩn chẩn đoán lâm sàng Migraine của IHS năm 2003 cho tới nay vẫn được coi là có giá trị và dễ áp dụng. 1.3.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán Migraine  Migraine không có thoáng báo hay Migraine không có aura. A. Có ít nhất 5 cơn đáp ứng tiêu chuẩn B- C- D dưới đây. B. Đau đầu kéo dài 4- 72 giờ (nếu không được điều trị hoặc điều trị không có kết quả). C. Đau đầu có ít nhất 2 trong 4 tiêu chuẩn sau: - Đau một bên. - Đau theo nhịp mạch. - Cường độ vừa hoặc nặng (bứt rứt khó chịu hoặc mất khả năng làm các công việc thường ngày) - Tăng khi leo cầu thang hoặc vận động cơ thể nhẹ nhàng. D. Trong khi đau đầu có ít nhất 1 trong 2 dấu hiệu sau: - Buồn nôn và/hoặc nôn. - Sợ ánh sáng, sợ tiếng động. E. Có ít nhất 1 trong các tiêu chuẩn sau: - Bệnh sử thăm khám chung và thăm khám thần kinh không thấy các nguyên nhân gây đau đầu khác. - Nếu bệnh sử và/hoặc thăm khám cơ thể và/hoặc khám thần kinh thấy có một nguyên nhân đau đầu khác mà nguyên nhân đó đã được loại trừ bằng xét nghiệm bổ trợ thích hợp. 10 - Nếu có một nguyên nhân đau đầu khác nhưng những cơn Migraine đầu tiên không liên quan chặt chẽ về mặt thời gian với nguyên nhân đó.  Migraine có thoáng báo hay Migraine có aura A. Có ít nhất 2 cơn Migraine đáp ứng tiêu chuẩn B. B. Có ít nhất 3 trong số đặc điểm sau: - Có 1 hoặc nhiều triệu chứng thoáng báo (tự phục hồi hoàn toàn) biểu hiện rối loạn chức năng khu trú ở vỏ não hoặc thân não. - Có ít nhất 1 triệu chứng thoáng báo, phát triển dần trong hơn 4 phút hoặc 2 triệu chứng thoáng báo xuất hiện kế tiếp nhau. - Không có triệu chứng thoáng báo kéo dài hơn 60 phút, nếu có triệu chứng thoáng báo kéo dài hơn 60 phút, nếu có nhiều hơn triệu chứng thoáng báo thì thời gian kéo dài tăng lên tương ứng. - Đau đầu xuất hiện sau cơn thoáng báo trước 1 giờ, cũng có thể xuất hiện trước hoặc cùng với triệu chứng thoáng báo. C. Có ít nhất 1 trong các tiêu chuẩn sau: - Bệnh sử thăm khám chung và khám thần kinh không thấy các nguyên nhân gây đau đầu khác. - Nếu bệnh sử và/hoặc khám cơ thể và/hoặc khám thần kinh thấy có một nguyên nhân gây đau đầu khác mà nguyên nhân đó đã được loại trừ bằng xét nghiệm bổ trợ. - Nếu có một nguyên nhân đau đầu khác nhưng những cơn Migraine đầu tiên không liên quan chặt chẽ về mặt thời gian với nguyên nhân đó. 1.4. Những yếu tố thuận lợi gây cơn đau đầu Migraine. Yếu tố thuận lợi gây cơn đau đầu Migraine hay còn gọi là yếu tố kích hoạt cơn đau nửa đầu Migraine là yếu tố mà khi xuất hiện hay thoái lui dẫn đến sự phát triển của một cơn đau nửa đầu cấp tính ở một cá nhân nhạy cảm với nó. Yếu tố kích hoạt cơn bao gồm những yếu tố về hành vi, môi trường, 11 nhiễm trùng, chế độ ăn uống, hóa chất hoặc nội tiết. Cần phân biệt yếu tố kích hoạt cơn đau nửa đầu với những yếu tố tăng nặng mức độ cơn đau . Sự xuất hiện của cùng một loại yếu tố kích hoạt cơn không phải lúc nào cũng dẫn đến cơn đau đầu trên cùng một cá thể. Điều này cho thấy một cơ chế kích hoạt đa yếu tố đối với mỗi một cơn đau đầu riêng biệt . Hay nói cách khác các yếu tố kích hoạt không hoạt động độc lập. Sự xuất hiện của một yếu tố có thể làm tăng khả năng tiếp xúc với một hay nhiều yếu tố khác. Một ví dụ rằng sự thay đổi nội tiết tố phụ nữ trong chu kì kinh nguyệt có thể làm tăng nhu cầu tiêu thụ một số loại thực phẩm nhất định. Sự xuất hiện đồng thời của nhiều yếu tố kích hoạt có thể tạo ra một hiệu ứng tăng nặng của cơn đau đầu. Thực tế, một số yếu tố chỉ có khả năng kích hoạt cơn đau đầu khi có sự xuất hiện của một hoặc nhiều yếu tố đi kèm khác, ít nhất là ở một số cá thể. Điển hình như tác giả Blau và Thavapalan qua nghiên cứu thấy được một vài phụ nữ biết rằng họ có thể uống rượu vang trong khoảng thời gian một tuần trước kì kinh nguyệt mà không gây nên bất cứ một cơn đau nửa đầu nào. Trong một nghiên cứu khác, Nicolodi và Sicuteri đã phát hiện ra rằng một liều lượng nhỏ bia, rượu cũng có thể kích thích cơn đau nửa đầu nếu được sử dụng trong khi bệnh nhân gặp những căng thẳng tâm lý . Yếu tố kích hoạt thường xuất hiện trước cơn đau nửa đầu ít hơn 48 giờ. Một nghiên cứu của Kelman báo cáo rằng 76% bệnh nhân Migraine có thể xác định được các yếu tố kích hoạt gây nên các cơn đau nửa đầu của họ. Tỷ lệ này tăng lên 95% khi nhóm bệnh nhân này được cung cấp một danh sách các yếu tố có thể kích hoạt cơn đau nửa đầu. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mỗi bệnh nhân mắc chứng đau nửa đầu Migraine nhạy cảm với trung bình 6,7 yếu tố kích hoạt và khoảng 2/3 số bệnh nhân liệt kê từ 4 đến 9 yếu tố . Cơ chế làm xuất hiện cơn đau nửa đầu của các yếu tố kích hoạt hiện vẫn chưa được khám phá một cách toàn diện. Một số lượng lớn các yếu tố kích 12 hoạt cơn đau nửa đầu đã được xác định làm đặt ra một câu hỏi: Liệu các yếu tố kích hoạt gây ra các cơn đau nửa đầu theo các cơ chế sinh học thần kinh giống hay khác nhau. Về lý thuyết, một yếu tố kích hoạt có thể gây đau nửa đầu thông qua việc kích thích một cách trực tiếp hay gián tiếp các tế bào thần kinh ở bất kì vị trí xác định nào (ngoại biên hoặc trung ương). Các chuyên gia vẫn đang tìm kiếm những bí ẩn của chứng đau nửa đầu và đau đầu khác. Hầu hết tin rằng sự kết hợp của các yếu tố gây cơn là điều kiện thuận lợi để xuất hiện cơn đau đầu ở những người đau nửa đầu Migraine và những yếu tố này là nguyên do gây mất cân bằng nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh và gây đau. Theo thuyết tiến hoá, các chuyên gia cho rằng đau đầu xảy ra là một cơ chế tự điều hoà của cơ thể nhằm chống lại các yếu tố gây stress môi trường bất lợi. Để có thể tồn tại, bắt buộc con người ta phải tìm kiếm những môi trường hiếu khách an toàn hơn. Các chuyên gia cũng nghiên cứu và phát hiện rằng: Những người đau nửa đầu thường có sự nhạy cảm với những thay đổi của môi trường, thời tiết hơn so với những người khác. Họ cũng có ngưỡng chịu đau thấp hơn . Các yếu tố thuận lợi gây cơn đau nửa đầu phổ biến được trình bày chi tiết dưới đây. 1.4.1. Phụ nữ đối với bệnh Migraine. Hầu hết các nghiên cứu đều chứng minh phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh đau nửa đầu Migraine cao hơn nam giới. Trong các công trình nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Văn Chương khẳng định tỷ lệ mắc hội chứng đau đầu Migraine ở nữ giới cao gấp khoảng 3 lần ở nam giới trong độ tuổi trưởng thành. Ở trẻ em và trẻ vị thành niên dưới 20 tuổi thì tỷ lệ này thông thường lần lượt là 58,4% và 7,7% ,. 13 Trong các nghiên cứu bệnh đau đầu Migraine tại các phòng khám, trung tâm thần kinh. Tỷ lệ gặp các bệnh nhân nữ cao vượt trội so với bệnh nhân nam. Trong nghiên cứu của Andress - Rothrock D và các cộng sự trên 200 bệnh nhân đau đầu Migraine đến khám tại các phòng khám ở các vùng khác nhau trên nước Mỹ thì có đến 178 (89%) bệnh nhân nữ . Nghiên cứu tại phòng khám của khoa thần kinh - Đại học y Vienna, Áo bắt gặp 92,4% bệnh nhân Migraine là nữ . Hay ở một nghiên cứu khác của khoa thần kinh, Đại học y- Đại học quốc gia Giang Minh, Đài Loan trên 66 bệnh nhân mắc chứng đau nửa đầu Migraine thì có đến 50 bệnh nhân là nữ . Do vậy đối với phụ nữ, cần quan tâm chú trọng phát hiện sớm để điều trị kịp thời bệnh đau nửa đầu. Do tính di truyền của bệnh phần lớn bắt nguồn từ người mẹ và sẽ tác động lâu dài đến các thế hệ kế tiếp cho nên việc điều trị kịp thời một cách nghiêm túc tại các trung tâm chuyên khoa thần kinh là vô cùng quan trọng. Bệnh đau nửa đầu ảnh hưởng mạnh mẽ đến nữ giới chủ yếu thông qua yếu tố nội tiết. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về sự liên quan của các yếu tố nội tiết ở bệnh nhân nữ với diễn biến của bệnh. Nhìn chung kết quả nghiên cứu đã xác nhận được vài điểm quan trọng sau ,. + Các cơn đau nửa đầu tăng lên trong thời kì hành kinh. Có thể nói đây là một yếu tố khởi phát cơn đứng hàng đầu trong nhiều yếu tố phức tạp. Do đó người ta còn gọi là thể Migraine hành kinh. Ở những bệnh nhân này cần phối hợp chuyên khoa nội tiết trong chẩn đoán và điều trị. + Ở người bệnh đang bị đau nửa đầu, thủ thuật thắt buồng trứng có thể làm bệnh nặng lên. + Trong thời kì mang thai bệnh đau nửa đầu của bệnh nhân sẽ giảm nhẹ hẳn. Trái lại nếu bệnh không thuyên giảm cần cho bệnh nhân khám chuyên khoa nội tiết để phối hợp điều trị. Phụ nữ mang thai có các triệu chứng đau 14 giảm hơn bình thường do nồng độ estrogen dần dần tăng lên trong khi mang thai. Tuy nhiên, sau khi kết thúc thời kỳ mang thai. Khi nồng độ hormone giảm đột ngột, các triệu chứng có thể trở lại ngay lập tức. Ở thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh tỉ lệ phụ nữ mắc bệnh Migraine giảm dần và rất hiếm ở lứa tuổi ngoài 60 . + Một số tác giả đã nghiên cứu và nhận thấy khoảng 17% trường hợp dùng thuốc tránh thai làm bệnh nặng lên. Một số phụ nữ báo cáo xuất hiện những cơn đau nửa đầu đầu tiên sau khi sử dụng thuốc tránh thai. Người ta cho rằng thuốc tránh thai có thể có khả năng làm phát lộ ra một yếu tố bẩm sinh tiềm tàng của bệnh. Một số tác giả khác lại có kết quả nghiên cứu là: Cơn đau nửa đầu xuất hiện 2- 3 ngày sau khi ngừng thuốc tránh thai, đúng trước thời kì hành kinh. 1.4.2. Ảnh hưởng của thời tiết khí hậu . Tần suất mắc bệnh hàng năm thay đổi theo mùa, cao nhất thường vào mùa xuân và mùa thu. Nhiệt độ, độ ẩm và áp suất không khí có vai trò rất quan trọng trong sự biến đổi tỷ lệ đó. Năm 1971 Archart đã nghiên cứu và kết luận: Giữa điện trường không khí và tính chất chu kì của nó có sự liên quan rõ rệt tới Migraine. Đây là một trong những nguyên nhân gây đau nửa đầu hàng đầu. Trong khi các bệnh nhân mắc chứng đau đầu khác chỉ có khoảng 27,59% có nguy cơ gây khởi phát đau đầu do thay đổi thời tiết thì ở bệnh nhân đau nửa đầu, tỷ lệ này lại chiếm đến 81,58%. Trong đó hầu hết có cơn đau đầu xuất hiện khi thời tiết thay đổi từ nóng sang lạnh và ngược lại; 6,58% có đau đầu khi nóng quá và 6,26% khi lạnh quá. Christian Wöber và các cộng sự tiến hành nghiên cứu trên một nhóm 120 bệnh nhân mắc các chứng đau đầu khác nhau trong đó có 66 bệnh nhân mắc đau đầu Migraine cho biết thời tiết là yếu tố hàng đầu kích hoạt cơn đau đầu ở 82,5% bệnh nhân . Trong khi đó, nghiên cứu của Diane Andress- Rothrock báo cáo 15 trong số 38 bệnh nhân cho rằng thời tiết là một trong những yếu tố kích hoạt cơn đau đầu của họ thì có 9 (23,7%) bệnh nhân nói rằng họ bị kích hoạt cơn đau đầu khi trời nóng; 6 (15,8%) nói rằng do thời tiết thay đổi; 5 (13,2%) khi gặp mưa. Ngoài ra các bệnh nhân cũng báo cáo sự thay đổi áp suất không khí, áp suất không khí giảm cũng là nguyên nhân gây khởi phát cơn đau nửa đầu . Các yếu tố thời tiết liên quan gây đau nửa đầu bao gồm: - Ánh sáng mặt trời. - Nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh. - Độ ẩm cao. - Không khí khô. - Thời tiết có gió hoặc mưa bão. - Thay đổi áp suất khí quyển. - Môi trường bụi bẩn. Việt Nam là một nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm không khí cao, thời tiết thường xuyên thay đổi. Sự chênh lệch của các chỉ số khí hậu giữa các mùa, giữa các tháng trong năm và thậm chí giữa các ngày kế tiếp nhau cũng rất lớn. Hiện tượng này có tác động rõ rệt tới bệnh nhân đau nửa đầu Migraine, làm tăng nguy cơ gây xuất hiện cơn đau nửa đầu cả về số lượng cơn đau, cường độ và thời gian cơn. Đặc biệt có tới 47,1% bệnh nhân mắc nhiều hơn về mùa hè. Nguyên nhân là do có nhiệt độ cao mà còn có nhiều ngày bão, áp thấp. 1.4.3. Ảnh hưởng của yếu tố tâm lý. Những trạng thái cảm xúc khác nhau như vui buồn quá mức, căng thẳng, lo âu, sợ hãi tuy không là nguyên nhân của Migraine nhưng chúng tạo thuận lợi cho Migraine xuất hiện. 16 Căng thẳng tâm lý là một trong những yếu tố khởi phát chính trực tiếp gây nên cơn đau. Các nhà nghiên cứu Đan Mạch phát hiện ra rằng phần lớn bệnh nhân mắc bệnh báo cáo rằng căng thẳng có liên quan đến sự khởi đầu của các cơn đau. Cũng theo kết quả của một nhóm nghiên cứu khác của trung tâm đau đầu Mỹ năm 2012 thì 50- 80% bệnh nhân nói căng thẳng là nguyên nhân căn bệnh của họ. Một số bệnh nhân mắc bệnh do hậu quả của một sự kiện căng thẳng, nhất là căng thẳng trong thời gian dài. Trong khi đó những người khác đã trải qua những cơn đau nửa đầu giữa một giai đoạn căng thẳng. Một điều tra trên 200 bệnh nhân đau đầu Migraine tại Mỹ báo cáo 59% trong số đó cho rằng stress là một yếu tố kích hoạt cơn đau. Tỷ lệ này là 66,7% ở một nghiên cứu khác trên bệnh nhân mắc chứng đau đầu tại Áo . Stress sẽ kích thích trực tiếp các dây thần kinh và gây ảnh hưởng đến tình trạng lưu thông máu. Trạng thái tâm lý này khiến mạch máu bị giãn quá mức và hệ quả là tạo ra các yếu tố tác động lên thành mạch máu và gây ra các cơn đau vô cùng dữ dội. 1.4.4. Ảnh hưởng của giấc ngủ đối với Migraine. Phần lớn các bệnh nhân bị bệnh đau nửa đầu trong cơn Migraine nếu ngủ được sẽ hết cơn đau đầu. Nhưng cũng có trường hợp ngủ nhiều không theo tập quán cũng gây đau đầu và được gọi là Migraine cuối tuần. Theo nghiên cứu ngẫu nhiên của Nguyễn Văn Chương trong đa số bệnh nhân đau đầu (44, 09%) có số cơn đau đầu nếu mất ngủ đêm hôm trước và 7,23% có số cơn khi ngủ nhiều không theo tập quán. Theo Woff sự chấm dứt đột ngột những lo lắng và căng thẳng trong công việc vào ngày nghỉ cũng gây nên đau đầu. Dalsgaard- Nielsen cho rằng: “Sự điều chỉnh trương lực thực vật và điều chỉnh giấc ngủ có mối quan hệ mật thiết và gần gũi với nhau. Những giấc ngủ kéo dài không theo tập quán hoặc một giai đoạn nằm dài trên giường mà 17 không ngủ sâu sẽ gây giảm trương lực thực vật, rối loạn giấc ngủ và điều chỉnh trương lực mạch máu và gây đau đầu”. Đau nửa đầu bắt đầu khi các tế bào thần kinh gửi các tín hiệu xung động tới các mạch máu, khiến chúng co lại. Sau đó là pha giãn mạch, đi kèm với việc giải phóng các chất dẫn truyền thần kinh và các chất gây viêm gây đau đớn. Trong một nghiên cứu công bố trên tạp chí đau đầu, các nhà nghiên cứu đã tiến hành một cuộc phỏng vấn chi tiết giấc ngủ với 147 phụ nữ bị bệnh đau nửa đầu. Khi được hỏi liệu họ có cảm giác khoẻ khoắn hay mệt mỏi vào lúc thức dậy không thì 80% cho biết họ cảm thấy mệt mỏi khi thức dậy. Khiếu nại về vấn đề giấc ngủ bị rối loạn do đau nửa đầu là thường thấy. Trong một nghiên cứu khác về những thói quen liên quan đến giấc ngủ và chứng đau nửa đầu, các nhà nghiên cứu đã cung cấp những bằng chứng mạnh mẽ rằng những thói quen ngủ tốt sẽ giúp giảm đáng kể cả về số lượng và cường độ các cơn đau đầu. Trong nghiên cứu này 43 phụ nữ bị chứng đau nửa đầu được hướng dẫn các thói quen ngủ tốt, sau đó theo dõi quá trình trị liệu vào nhật kí. Cuối cuộc nghiên cứu, kết quả cho thấy số lần xuất hiện cơn đau nửa đầu và cường độ giảm đáng kể có ý nghĩa thống kê. Theo Bác sĩ y khoa Vincent Fortanasce, tại Losangeles. Sự mất ổn định nồng độ chất dẫn truyền thần kinh serotonin và dopamin khi rối loạn giấc ngủ là nguyên nhân gây cơn đau đầu. Thông thường, theo các nhà khoa học một giấc ngủ được chia ra làm 6 chu kì, tương ứng là 4 giai đoạn. Các giai đoạn của giấc ngủ sâu nhất (giai đoạn 3, 4) là giai đoạn cần thiết cho việc sản xuất đầy đủ serotonin và dopamin. Đây là lý do nếu như ngủ không sâu giấc sẽ gây ra rối loạn nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh. 1.4.5. Ảnh hưởng của thức ăn tới Migraine . Từ hơn 50 năm trước, Selby and Lance khẳng định một tỷ lệ lớn bệnh nhân cho rằng cơn đau nửa đầu của họ thường xuyên được kích hoạt bởi một 18 số loại đồ ăn thức uống. Có từ 12 đến 60% bệnh nhân báo cáo một loại thức ăn nào đó là yếu tố khởi phát cơn đau đầu của họ với một lượng lớn bệnh nhân liệt kê hơn một loại thực phẩm, tỷ lệ này khác nhau ở từng nghiên cứu. Trong một nghiên cứu, Peatfield và các cộng sự của mình thống kê rằng 19,2% bệnh nhân đau nửa đầu nhạy cảm với bơ; 18,2% nhạy cảm với Chocolate; 11,1% bệnh nhân cho rằng các loại trái cây họ cam là nguyên nhân gây cơn đau đầu của họ . Rất nhiều người bệnh đã giảm số lần đau nhờ xác định và tránh được những loại thức ăn có khả năng là yếu tố kích hoạt cơn đau. Tuy nhiên cần có những nghiên cứu rõ ràng hơn về điều này. - Gluten: Ở một số bệnh nhân, tần xuất cơn đau giảm hoặc biến mất hẳn khi loại trừ gluten ra khỏi khẩu phần ăn. Đối với những người bị bệnh celiac hoặc các dạng bệnh dị ứng gluten khác, cơn đau có thể là triệu chứng biểu hiện khi cơ thể không dung nạp gluten. Một nghiên cứu cho thấy những người khi bị bệnh celiac và khẩu phần ăn không có gluten có thể làm giảm hoặc loại bỏ hẳn bệnh ở những bệnh nhân đó. Một nghiên cứu khác trên 10 bệnh nhân có tiền sử đau đầu kinh niên và ngày càng bị nặng thêm hoặc kháng lại mọi phương pháp điều trị thì thấy là cả 10 người đều dị ứng gluten. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ cho thấy ở mỗi người đều bị viêm hệ thần kinh trung ương do phản ứng với gluten. Khi 7/9 người trong số này khi thực hiện khẩu phần ăn không có gluten đều khỏi đau đầu hẳn. - Aspartame: Mặc dù một số giả thuyết cho rằng aspartame là yếu tố khởi phát cơn đau dựa trên một số bằng chứng nhỏ nhưng vẫn chưa được y học chứng minh. - Natri glutamat hay MSG: được ghi nhận là một yếu tố gây đau rất phổ biến (12%). Trong một thử nghiệm sử dụng giả dược có kiểm soát (placebocontrolled trial), Natri glutamat (MSG) với liều lượng lớn (2,5gram) ăn khi dạ 19 dày trống rỗng có liên quan tới các triệu chứng xấu bao gồm đau đầu nhiều hơn nhóm dùng giả dược (placebo). Nhưng một thử nghiệm lâm sàng khác lại không tìm ra sự khác biệt nào khi đưa thêm 3,5g MSG vào thức ăn. - Tyramine: Tổ chức quốc gia về bệnh đau đầu của Hoa Kỳ có một danh sách các yếu tố thức ăn kích hoạt dựa trên giả thuyết về tyramine trong đó nêu rõ những loại thức ăn nào ăn được, những loại cần chú ý khi ăn và những loại cần tránh. Tuy nhiên, một bài tổng hợp nghiên cứu vào năm 2003 đã kết luận rằng không có bằng chứng khoa học nào về tác động của tyramine như một nguyên nhân của đau nửa đầu. 1.4.6. Ánh sáng, nhiệt độ và tiếng ồn. Một số bệnh nhân cho biết ánh sáng mạnh hay nhấp nháy hoặc âm thanh lớn có thể là yếu tố thuận lợi làm xuất hiện cơn đau. Một số bệnh nhân cho rằng, ánh sáng mặt trời cũng có thể là một trong những yếu tố khởi phát cơn đau của họ. Tuy nhiên, theo báo cáo công bố năm 2013 trên tạp chí thần kinh học châu Âu của Đại học Cincinnati College of Medicine USA ghi nhận, ánh sáng có thể kích hoạt một cơn đau thứ cấp, có sự ảnh hưởng của các yếu tố khác gây nên. Nghiên cứu của L. Kelman cũng chỉ ra rằng 38,1% bệnh nhân đau đầu có nhạy cảm với ánh sáng . Các tác giả Deniz, Spierings và Zivadinov cho biết tỷ lệ bệnh nhân đau đầu Migraine nhạy cảm với tiếng ồn lần lượt là 42%, 53% và 39% trong các công bố của mình . 1.4.7. Nhịn đói hay thường xuyên bỏ bữa. Những người bỏ bữa hay nhịn đói có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn bình thường. Các nghiên cứu lâm sàng của Dalkara T và cộng sự thuộc Đại học Hacettepe, Ankara Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy bỏ bữa thường xuyên hay nhịn đói có liên quan đến các yếu tố khởi phát bệnh do nó có thể liên quan đến giảm lượng đường trong máu. Trong các công bố của mình L. Kelman đã báo cáo 20 rằng 57,3% bệnh nhân đau đầu Migraine thường xuyên xuất hiện các cơn đau đầu khi bỏ bữa . Tỷ lệ này lần lượt là 42%; 48% và 65% trong các nghiên cứu của các tác giả Deniz, Ierusalimschy Moreira Filho và Fukui . 1.4.8. Lạm dụng thuốc. Lạm dụng thuốc là một trong những yếu tố thuận lợi phổ biến. Cụ thể những người lạm dụng thuốc giảm đau thông thường có thể làm giảm ngưỡng chịu đau của cơ thể và tăng liều sử dụng thuốc khi dùng kéo dài. Việc sử dụng thường xuyên thuốc giảm đau còn có thể làm các cơn đau xuất hiện thường xuyên và nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, lạm dụng thuốc giảm đau trong nhóm opiate (giảm đau gây nghiện) có thể là yếu tố chính gây nên các triệu chứng đau đầu kinh niên và hội chứng lệ thuộc vào thuốc. 1.4.9. Rượu và các chất kích thích khác. Một trong những yếu tố khởi phát bệnh phổ biến nhất được báo cáo là do dùng rượu. Nhóm nghiên cứu Fuku PT và cộng sự thuộc trung tâm nghiên cứu Faculdade de Medicina do ABC São Bernardo Brazil đã chỉ ra rằng rượu là yếu tố gây bệnh cho khoảng một phần ba số bệnh nhân. Rượu vang đỏ là yếu tố gây nên các cơn đau với tỷ lệ cao nhất so với các loại rượu khác, đặc biệt là ở phụ nữ. Trong các nghiên cứu được công bố, rượu vang đỏ gây ra các triệu chứng ở 19,5% bệnh nhân mắc bệnh ở cả nam và nữ, trong khi đó rượu vang trắng chỉ gây ra 10,5% các cơn đau nửa đầu. Tỷ lệ bệnh nhân bị đau nửa đầu do rượu ở nam và nữ cũng có sự khác biệt, rượu vang đỏ chỉ gây ra đau nửa đầu 8% ở nam giới nhưng tỷ lệ này ở nữ giới là 22%. 1.4.10. Đồ uống có chứa caffein hàm lượng cao. Một số chuyên gia đã cảnh báo rằng sử dụng caffeine quá nhiều có thể gây đau theo từng cơn. Đó là lý do tại sao các bệnh nhân nên hạn chế lạm dụng nó. Một số đồ uống có hàm lượng caffeine cao cũng được khuyến cáo không nên sử dụng ở người bị đau đầu, do những đồ uống này làm thay đổi hàm lượng một số hormone trong cơ thể dẫn đến tình trạng không tốt.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan