Trang 1
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1 Cơ sở hình thành đề tài
Sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập WTO đặt ra những thách thức to lớn đối giáo
dục Việt Nam, đòi hỏi ngành giáo dục phải xây dựng chiến lược và chương trình
hành động cụ thể nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
PGS-TS Lê Đức Ngọc (ĐH Quốc Gia Hà Nội) nhận định chỉ có giáo dục mới
chuyển gánh nặng dân số thành lợi thế trong nền kinh tế tri thức toàn cầu hóa. Giáo
dục có vai trò chủ chốt kéo cả đoàn tàu kinh tế và văn hóa nước ta đi vào hội nhập
một cách chủ động và chỉ có giáo dục mới góp phần nhanh chóng rút ngắn khoảng
cách tụt hậu thực sự bền vững giữa nước ta và các nước phát triển (VietNamNet).
Và mới đây, trong buổi tọa đàm “Nghiên cứu đề xuất những giải pháp hiện đại hóa
nền giáo dục Việt Nam”, thứ trưởng Bộ nội vụ Thang Văn Phúc đã đưa ra ý kiến
nên bắt đầu cuộc cách mạng giáo dục bằng cách cải thiện chất lượng dạy và học
ngoại ngữ (VietNamNet).
Dạy và học ngoại ngữ từ xưa đến nay vẫn luôn là một vấn đề bức xúc của nền giáo
dục nuớc ta. Kết quả của một cuộc điều tra gần đây được công bố tại Hội nghị quốc
tế về giáo dục Việt Nam - Hội nhập và thách thức do Viện chiến lược và chương
trình giáo dục tổ chức đã xếp trình độ ngoại ngữ của học sinh Việt Nam đứng thấp
nhất trong số các nước cùng khối Asean.
Với nguyên nhân nói trên cùng với xu thế hội nhập từ thành công của chính sách
mở cửa và thành tựu của công cuộc đổi mới, việc học ngoại ngữ đã trở thành một
trào lưu thu hút mọi lứa tuổi, thành phần xã hội; từ học sinh, sinh viên đến giới công
chức.
Trang 2
Nhiều trung tâm ngoại ngữ đã được thành lập từ việc nắm bắt nhu cầu thị trường.
Bên cạnh đó, sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này cũng
mang đến một luồng gió mới, tạo thêm nhiều lựa chọn cho người có nhu cầu học
ngoại ngữ ở các cấp độ khác nhau.
Theo số liệu của Sở GD-ĐT TP.HCM, tính đến cuối năm 2005 sở này đang quản lý
301 trường dạy ngoại ngữ. Ông Nguyễn Văn Cương, Trưởng Phòng Giáo dục
Thường xuyên Sở GD-ĐT TPHCM, cho biết trong số 301 trường dạy ngoại ngữ này
có 36 trường có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, các trường dạy ngoại ngữ trên địa
bàn TP.HCM không chỉ do mỗi Sở GD-ĐT TPHCM cấp phép. Tại Sở KH-ĐT
TP.HCM, tính đến ngày 25-10-2005 sở này đã cấp phép đăng ký kinh doanh cho
640 đơn vị hoạt động dạy ngoại ngữ. Và theo số liệu của tổng đài 1080, tính đến
thời điểm hiện nay có 428 trung tâm ngoại ngữ đăng ký danh bạ điện thoại tại tổng
đài.
Đây là dấu hiệu tích cực, chứng tỏ các trung tâm có sự nhạy bén, thích ứng với điều
kiện mới của thị trường và góp phần đáp ứng nhu cầu xã hội. Chính sự phong phú
của nhiều trung tâm ngoại ngữ với nhiều hình thức dịch vụ, nhiều mức giá phù hợp
từng loại đối tượng đã mang đến một động lực mới thúc đẩy người dân Việt Nam
học ngoại ngữ. Và các nhà đầu tư cũng cho rằng đây là lĩnh vực đầu tư kinh doanh
an toàn nhất.
An toàn, lành mạnh, giàu tính giáo dục nhưng không có nghĩa là kém phần khốc
liệt, ngày càng xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh. Mặt tích cực của nó là đáp ứng
được nhu cầu học ngoại ngữ ngày càng tăng của số đông, đồng thời tạo ra một môi
trường cạnh tranh nhưng lại nảy sinh vấn đề bất cập ở một số không nhỏ trung tâm
khi mà xu hướng thương mại hóa đã làm các trung tâm đặt lợi ích tối thượng là thu
hút càng nhiều học viên càng tốt trong khi chưa thật sự quan tâm đến chất lượng
dịch vụ và các yếu tố làm thỏa mãn khách hàng.
Đào tạo ngoại ngữ ngày càng sôi động thì vấn đề chất lượng dịch vụ của các trung
tâm ngoại ngữ đang là vấn đề còn phải quan tâm. Người có nhu cầu học ngoại ngữ
Trang 3
không tránh khỏi băn khoăn, nghi vấn khi tìm chọn cơ sở để theo học. Hieän nay,
đào tạo ngoại ngữ là yêu cầu cấp bách cho thị trường nhân lực vì vậy trung tâm
ngoại ngữ nào xây dựng được uy tín trên thị trường, giá cả hợp lý vaø có chất lượng
dịch vụ tốt sẽ là sự lựa chọn hàng đầu cho những người muốn trang bị kiến thức
vững chắc chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thaät vaäy, chất lượng dịch vụ đã trở thành yếu tố quan trọng tạo sự thành công vững
chắc và là yếu tố sống còn cho doanh nghiệp (Quinn and Humble, 1993; Anderson
et al., 1994; Donaldson, 1995; Rust et al., 1995). Điều này là xu thế chủ đạo đối với
lĩnh vực sản xuất, ngành công nghiệp dịch vụ và hiện nay đã mở rộng sang lĩnh vực
giáo dục. Ngành giáo dục và những đơn vị kinh doanh dịch vụ giáo dục bắt đầu
nhận ra tầm quan trọng của định hướng chất lượng và đang nỗ lực nghiên cứu và
phát triển những hoạt động cung cấp dịch vụ giáo dục chất lượng nhằm thỏa mãn
khách hàng ngày càng tốt hơn.
Trong khi có nhiều nghiên cứu về việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên
(Astin, 1990, 1993; Pascarella & Terenzini, 1991) nhưng lại rất ít các nghiên cứu về
việc đánh giá sự thỏa mãn của sinh viên đối với dịch vụ giáo dục (Carl A. Ruby).
Một số tác giả đã đề nghị các tổ chức giáo dục và các trường đại học nên theo đuổi
những mô hình định hướng thị trường về chất lượng dịch vụ để đánh giá sự thỏa
mãn của sinh viên (Delen & Bunda, 1991; Seymour, 1992, 1994). Những mô hình
như thế phù hợp với những tổ chức có những đặc điểm sau: 1. Sản phẩm chính là vô
hình, 2. Khách hàng tham gia vào quá trình cung cấp dịch vụ, 3. Dịch vụ được cung
cấp và tiêu thụ đồng thời (Gronroos, 1990, Parasuraman, 1991). Dựa trên những
tiêu chuẩn này thì những tổ chức giáo dục có thể được xem là dịch vụ (Mazzarol,
1998) và có thể ứng dụng mô hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực tiếp thị dịch vụ cho tổ
chức giáo dục (Lovelock, 1983).
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Như vậy, các mục tiêu nghiên cứu sau đây được đặt ra:
Trang 4
− Sử dụng những thành phần của công cụ SERVQUAL để đo lường cảm nhận của
khách hàng đối với chất lượng dịch vụ của các trung tâm ngoại ngữ.
− Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn khách hàng tại các Trung tâm
ngoại ngữ.
− Kiến nghị những giải pháp nhằm làm thỏa mãn học viên.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu là học sinh phổ thông, sinh viên các
trường đại học, những người trưởng thành đã đi làm đang học ngoại ngữ tại các
trung tâm ngoại ngữ trên địa bàn TP.HCM.
1.4 Ý nghĩa thực tiễn
-
Một yếu tố quan trọng trong việc cải tiến vị thế cạnh tranh là thấu hiểu những gì
quan trọng đối với khách hàng. Kết quả nghiên cứu giúp các trung tâm ngoại
ngữ hiểu biết rõ ràng về những yếu tố có tầm quan trọng cho khách hàng hiện có
(và khách hàng tương lai) đối với dịch vụ của các trung tâm ngoại ngữ.
-
Xác định và đánh giá những thông số chính yếu của hệ thống tạo giao dịch vụ:
cơ sở vật chất, chất lượng giảng dạy, học phí, chương trình học…Điều này thật
sự quan trọng vì nhờ đó mà các trung tâm ngoại ngữ có thể khảo sát không
những các hoạt động kinh doanh của chính mình maø coøn cuûa caùc đối thuû cạnh
tranh để có chiến lược cạnh tranh lành mạnh tạo uy tín và niềm tin cho người
học.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành qua hai bước là sơ bộ và chính thức. Nghiên cứu sơ
bộ được thực hiện bằng phương pháp định tính, sử dụng kỹ thuật thảo luận tay đôi
với các học viên của các trung tâm ngoại ngữ nhằm bổ sung, hiệu chỉnh các thang
đo và mô hình nghiên cứu.
Trang 5
Nghiên cứu chính thức là nghiên cứu định lượng. Căn cứ vào nghiên cứu sơ bộ xây
dựng bảng câu hỏi để thu thập dữ liệu. Mẫu sau khi thu thập bằng phương pháp
thuận tiện sẽ được xử lý và phân tích bằng phần mềm SPSS 16.
Để xác định các thành phần chất lượng của các trung tâm ngoại ngữ, nghiên cứu
này sẽ dựa trên thang đo SERVQUAL (22 biến) của Parasuraman. Thang đo giá cả
của Mayhew & Winer và thang đo hình ảnh công ty của Johnson & Gustafson cũng
được hiệu chỉnh cho phù hợp với phạm vi nghiên cứu đặt ra. Sự thỏa mãn khách
hàng được đo lường bằng cách sử dụng thang đo của Bob E.Hayes.
1.6 Cấu trúc của nghiên cứu
Luận văn này được chia thành năm chương. Chương một này giới thiệu tổng quan
về đề tài nghiên cứu. Chương hai trình bày cơ sở lý thuyết về chất lượng dịch vụ,
giá cả và hình ảnh công ty, sự thỏa mãn khách hàng, từ đó xây dựng mô hình lý
thuyết cho nghiên cứu. Chương ba trình bày phương pháp nghiên cứu. Chương bốn
trình bày các phương pháp phân tích dữ liệu và kết quả nghiên cứu. Cuối cùng,
chương năm sẽ trình bày những kiến nghị rút ra từ kết quả nghiên cứu để đóng góp
cho nhà quản lý và những hạn chế của nghiên cứu để định hướng cho những nghiên
cứu tiếp theo.
Trang 6
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Chương một đã giới thiệu sơ lược về sự cần thiết và ý nghĩa của việc thực hiện
nghiên cứu. Mục đích của chương này là trình bày cơ sở lý thuyết và những nghiên
cứu có trước về sự thỏa mãn khách hàng. Từ đó xây dựng mô hình nghiên cứu và
các giả thuyết.
2.1 Tổng quan về chất lượng dịch vụ
2.1.1 Định nghĩa dịch vụ và các tính chất của dịch vụ
Dịch vụ là những hành vi, quá trình được thực hiện nhằm mục đích tạo giá trị sử
dụng cho khách hàng, thỏa mãn nhu cầu và mong đợi của khách hàng (Valarie A
Zeithaml, Mary J Bitner, 2000).
Dịch vụ có bốn tính chất quan trọng:
-
Tính vô hình: các dịch vụ đều vô hình. Không giống như sản phẩm vật chất,
chúng không thể nhìn thấy được, không nếm được, không cảm thấy được trước
khi mua.
-
Tính đồng thời của sản xuất và tiêu thụ: một dịch vụ không thể tách rời thành hai
phần, tạo thành và sử dụng.
-
Tính không đồng nhất: vì nó phụ thuộc vào người thực hiện dịch vụ, thời gian và
địa điểm thực hiện dịch vụ đó.
-
Tính không lưu giữ được: dịch vụ không thể đem cất đi và sau đó lấy ra dùng.
Vì vậy, dịch vụ không thể tồn trữ và sau đó đem bán. Sau khi dịch vụ được thực
hiện xong, không có phần nào của dịch vụ có thể phục hồi lại được.
Trang 7
2.1.2 Định nghĩa chất lượng dịch vụ
Có rất nhiều định nghĩa về chất lượng dịch vụ, nhưng theo Garvin (1984) có năm
phương cách để hiểu về chất lượng.
-
Phương cách siêu việt: chất lượng trong trường hợp này được hiểu là sự ưu việt
nội tại, nó phản ánh điều gì đó tốt nhất.
-
Phương cách dựa trên sản xuất: liên quan tới sự phù hợp với thiết kế hay quy
cách. Một dịch vụ hay sản phẩm chất lượng sẽ không có một sai sót nào so với
quy cách.
-
Phương cách dựa trên sản phẩm là một phương cách dựa trên số lượng và chỉ xét
đến những đặc tính đo lường được. Trong hầu hết trường hợp, nhiều hơn đồng
nghĩa với tốt hơn và như thế đáng được là chất lượng cao hơn.
-
Phương cách dựa trên giá trị: đưa chi phí hay giá cả vào phương trình; nghĩa là
một mặt hàng nào đó sẽ được cung cấp ít hay nhiều tùy theo giá của nó.
-
Phương cách dựa theo người sử dụng: thừa nhận rằng một dịch vụ hay sản phẩm
nào đó đáp ứng những đòi hỏi của người sử dụng thì đó là dịch vụ hay sản phẩm
chất lượng.
2.1.3 Mô hình chất lượng dịch vụ
Dịch vụ là sản phẩm mang tính vô hình cao và không đồng nhất. Vì vậy để giảm bớt
mức độ không chắc chắn người mua sẽ tìm kiếm những dấu hiệu về chất lượng dịch
vụ.
Hiện nay có hai mô hình thường được dùng để đánh giá chất lượng dịch vụ:
-
Mô hình Gronroos (1982): chất lượng dịch vụ được đánh giá chất lượng kỹ thuật
và chất lượng chức năng, chất lượng kỹ thuật liên quan đến những gì được phục
vụ và chất lượng chức năng nói lên chúng được phục vụ như thế nào.
Trang 8
Hình 2.1. Mô hình nhận thức chất lượng của Gronroos, 1982
-
Mô hình Parasuraman và cộng sự, 1985: chất lượng dịch vụ được đánh giá dựa
vào năm cách biệt.
Hình 2.2. Mô hình sự sai biệt về chất lượng dịch vụ
Trang 9
Parasuraman và các cộng sự đã đóng góp một vai trò rất quan trọng trong việc cố
gắng xác định chất lượng dịch vụ. Họ đã tìm cách xác định những tầm hướng chính
của chất lượng:
1. Tin cậy
6. Thông tin
2. Đáp ứng
7. Tín nhiệm
3. Năng lực phục vụ
8. An toàn
4. Tiếp cận
9. Hết lòng vì khách hàng
5. Lịch sự
10.Phương tiện hữu hình
Họ gợi ý rằng khách hàng có những kỳ vọng liên quan tới mỗi một tầm hướng này
của chất lượng. Nếu những kỳ vọng này được đáp ứng thì lúc ấy khách hàng đã
nhận được dịch vụ chất lượng.
Mô hình trên cho thấy kỳ vọng theo mười tầm hướng của chất lượng dịch vụ xuất
phát từ nhu cầu cá nhân, lời đồn, kinh nghiệm trải qua và truyền thông bên ngoài
liên quan đến dịch vụ đó.
-
Cách biệt 1: cách biệt giữa kỳ vọng của khách hàng và nhận thức của nhà quản
lý.
-
Cách biệt 2: cách biệt của đặc tính dịch vụ với nhận thức của nhà cung cấp.
-
Cách biệt 3: cách biệt giữa đặc tính của chất lượng dịch vụ với việc cung cấp
dịch vụ.
-
Cách biệt 4: cách biệt giữa thực hiện dịch vụ của nhà cung cấp với thông tin
cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
-
Cách biệt 5: cách biệt giữa dịch vụ mong muốn và dịch vụ nhận được.
Khi một dịch vụ đã được thực hiện rồi mà có sự cách biệt giữa kỳ vọng và cảm
nhận về dịch vụ đó, tức là có cách biệt xảy ra (cách biệt 5). Điều đó có nghĩa là dịch
vụ đã thực hiện chưa đạt chất lượng. Phần còn lại của mô hình giải thích tại sao có
cách biệt 5 bằng bốn cách biệt còn lại.
Trang 10
Sau đó, Parasuraman và các cộng sự đã soạn ra một bảng câu hỏi nhằm đo đạc chất
lượng dịch vụ mà họ gọi là công cụ SERVQUAL. Bảng câu hỏi này ban đầu dựa
vào mười tầm hướng như kể trên. Nhưng sau khi phân tích kết quả, mười tầm
hướng ban đầu được thu gọn lại còn năm: sự tin cậy, sự phản hồi, sự đảm bảo, sự
cảm thông và sự hữu hình.
Tuy nhiên, công cụ SERVQUAL gặp không ít các chỉ trích:
-
Một trong những lời chỉ trích phần nghiên cứu của Parasuraman, Zeithaml và
Berry liên quan đến việc họ tự xưng đã xác nhận được năm tầm hướng khái quát
chính nói trên của chất lượng (Christine Hope, Alan Muhleman).
-
Nhiều nghiên cứu sử dụng công cụ SERVQUAL trong nhiều lĩnh vực khác nhau
thì kết quả phân tích nhân tố không phải luôn xác định được những tầm hướng
mà ba tác giả đã gợi ý.
Nhưng, Rosen và Karwen (1994) và Stewart cùng cộng sự (1996) đã gợi ý rằng tuy
có thể không có những tầm hướng bao quát cho tất cả các loại dịch vụ nhưng người
ta vẫn có thể xác định những tầm hướng chính chung liên quan đến đặc điểm của
dịch vụ.
Và Haywood & Farmer cho rằng tuy mới sơ bộ nhưng có vẻ như năm hay mười tầm
hướng nguyên thủy của Parasuraman và cộng sự là thỏa đáng để đo lường chất
lượng dịch vụ.
2.2 Chất lượng trong giáo dục
Giống như dịch vụ, khái niệm chất lượng khi áp dụng cho lĩnh vực giáo dục cũng có
nhiều cách hiểu khác nhau (Bauer, 1992; Cheng and Tam, 1997; Pounder, 1999).
Chất lượng trong giáo dục được định nghĩa như sau:
-
Sự xuất sắc trong giáo dục (Peters and Waterman, 1982).
-
Giá trị cộng thêm trong giáo dục (Feigenbaum, 1951).
Trang 11
-
Sự phù hợp với mục đích ( Reynolds, 1986; Brennan et al., 1992; Tang and
Zairi, 1998)
-
Sự thích ứng của kết quả giáo dục với những mục tiêu đặt ra (Gilmore, 1974;
Crosby, 1979).
-
Đáp ứng được những kỳ vọng của khách hàng đối với giáo dục (Parasuraman et
al., 1995).
Vì thế, chất lượng trong giáo dục là khái niệm phức tạp và rất khó để đưa ra một
định nghĩa đơn nhất và toàn diện.
Trong bài phê bình Marsh’s SEEQ và Ramsden’s CPQ, Entwistle và Tait đã xác
định được chín tầm hướng có thể được dùng để mô tả những khía cạnh của giáo
dục: (1) Tài liệu phù hợp và tạo sự thích thú cho sinh viên, (2) Áp lực học tập, (3)
Cấp độ của khóa học, (4) Giải thích và thảo luận tài liệu, (5) Sự nhiệt tình và phong
cách truyền đạt của giáo viên, (6) Khuyến khích lớp học trao đổi nhóm, (7) Giáo
viên quan tâm từng sinh viên, (8) Những đánh giá liên quan đến tài liệu, (9) Thủ tục
và chất lượng của sự phản hồi.
Thật không may là chín tầm hướng kể trên chỉ bao quát những kinh nghiệm liên
quan đến công tác giảng dạy. Entwistle và Tait chỉ ra rằng mối liên hệ giữa việc dạy
và học là không đơn giản và không trực tiếp mà phần lớn coøn phụ thuộc vào sự tiếp
thu của sinh viên. Hơn nữa những kinh nghiệm của sinh viên không phải chỉ liên
quan đến dạy và học. Hai vấn đề trong phạm vi giáo dục là; thứ nhất, khách hàng
không thể biết được những gì họ muốn nhận từ dịch vụ. Thứ hai, họ khó mà chỉ rõ
lập trường của mình đối với kết quả nhận được. Nghĩa là, người học không biết giáo
dục là tốt thì phải như thế nào và làm sao một người biết được khi nào thì mình
nhận được giáo dục tốt.Thật vậy, Ford, Joseph (1993) cho rằng theo cảm nhận của
mình, sinh viên có thể đánh giá chất lượng của giáo dục, nhưng đó không phải là
bản chất thật sự của giáo dục.
Trang 12
Để việc đánh giá một dịch vụ có sức thuyết phục thật sự không dễ dàng chút nào.
Những đánh giá về dịch vụ thường là chủ quan hơn là khách quan và khó mà cung
cấp một dịch vụ đồng nhất bởi những yếu tố như kỹ năng giao tiếp của nhân viên và
bởi vì thái độ của khách hàng có tính quyết định (Kotler, 1982).
Điều này đòi hỏi những tổ chức phải chú ý đến vấn đề chất lượng, không chỉ thông
qua quá trình truyền thống và những đánh giá khóa học, sự phản hồi của sinh viên
về chất lượng của việc truyền đạt khóa học và chất lượng giảng dạy mà còn thông
qua những đánh giá mà chính bản thân người học xem là những thành phần của chất
lượng dịch vụ. Vấn đề là những gì cấu thành nên một dịch vụ chất lượng lại thuộc
về cảm xúc. Vì vậy, quan trọng là các tổ chức phải thấy được những gì sinh viên
thật sự mong muốn chứ không dựa trên những gì mà tổ chức nghĩ rằng sinh viên
cần. Kết quả nghiên cứu của Lovelock (1994) cũng thừa nhận rằng điều mà khách
hàng cảm thấy quan trọng thường khác với những cảm nhận của tổ chức.
Chất lượng dịch vụ được tạo thành từ ba thành phần chính: quá trình dịch vụ, những
yếu tố giao tiếp cá nhân, và yếu tố hữu hình. Điều này liên quan đến những chính
sách của hệ thống được quy định bởi nhà cung cấp dịch vụ. Chẳng hạn như, một khi
bản chất cứng ngắc của tổ chức làm cho khách hàng không hài lòng thì các nhân
viên không thể nào cung cấp dịch vụ tốt cho khách hàng (Bell và Zemke, 1992;
Normann, 1991), điều này thường thấy ở những dịch vụ công hay những cơ quan
thuộc nhà nước. Hơn nữa, những nhân viên tuyến đầu có thể ảnh hưởng đến mức độ
thỏa mãn của khách hàng (Bateson, 1979; Berry et al., 1985; Bitner et al., 1990;
Gronroos, 1978). Hai khía cạnh này liên quan chặt chẽ, trong đó chính sách công ty
hay hệ thống phân phối dịch vụ sẽ quyết định cách thức mà dịch vụ được cung cấp
cho khách hàng.
Giáo dục có thể xem là dịch vụ thuần tuý nếu dựa vào mức độ tương tác người người (Solomon et al., 1985). Sự thỏa mãn khách hàng thường được thiết lập thông
qua chất lượng của tương tác cá nhân. Trong hầu hết mọi dịch vụ, tương tác cá nhân
Trang 13
và tỉ trọng lao động (Hill, 1995, p.10) là không đồng nhất. Điều này dẫn đến sự
khác nhau của việc cung cấp dịch vụ trong cùng một tổ chức (Berry et al., 1985).
Tương tác giữa khách hàng và tổ chức dịch vụ phụ thuộc vào cốt lõi của phân phối
dịch vụ. Nhân viên thực hiện dịch vụ vừa đóng vai trò quan trọng đối với khách
hàng vừa đại diện cho những nhân viên khác. Đối với khách hàng, nhân viên chính
là những đại diện cho dịch vụ (Booms và Nyquist, 1981). Năng lực phục vụ của
nhân viên, sự sẵn lòng, cách cư xử và dáng vẻ, tất cả đều góp phần tạo nên sự thỏa
mãn khách hàng ngay lần đầu tiên tiếp xúc với dịch vụ. Trong nhiều cách, nhân viên
có thể là cách duy nhất tạo ra sự khác biệt cho chính dịch vụ (Palmer, 1994); chẳng
hạn với những từ như lịch sự, hiểu biết, hay giúp đỡ tương đồng với những nhân
viên mang đến những dịch vụ tốt. Lovelock (1981) tin rằng những dịch vụ xử lý con
người như bệnh viện và trường học thì những tình huống tương tác cá nhân thường
rất cao.
Nghiên cứu của Zeithaml và cộng sự (1992) cho rằng một trong những vấn đề chính
của một dịch vụ tồi là không biết những kỳ vọng của khách hàng. Nhiều tổ chức đeo
đuổi việc cung cấp dịch vụ chất lượng nhưng lại thất bại, đơn giản chỉ vì họ không
hiểu chính xác những gì khách hàng đòi hỏi ở họ. Không thể định nghĩa được
những dấu hiệu hữu hình cũng làm cho những hiểu biết về dịch vụ khó hơn sản
phẩm. Kotler và Fox (1985) cho rằng, thậm chí sản phẩm cốt lõi là vô hình (Ví dụ
như sản phẩm của giáo dục là kiến thức) thì luôn tồn tại một số biểu hiện hữu hình
(Kotler và Fox, 1985, p.224).
Yếu tố vô hình của dịch vụ dẫn đến gia tăng sự quan tâm với những bằng chứng
hữu hình tạo nên đặc điểm của quá trình dịch vụ (Bitner, 1990, 1992; Clarke và
Schmidt, 1995; Wakefield và Blodgett, 1994). Cơ sở vật chất hỗ trợ dịch vụ có thể
được thiết kế để tạo ra sự thỏa mãn. Điều mà người ta thường ít nhận ra là vai trò
trực tiếp của cơ sở vật chất hỗ trợ cho dịch vụ và ảnh hưởng của chúng trong việc
tạo kinh nghiệm cho khách hàng. Trong giáo dục, sinh viên dùng nhiều thời gian
tiếp xúc với môi trường vật chất xung quanh họ như: phòng học, thư viện, thiết bị…
Trang 14
vì vậy họ sẽ bị ảnh hưởng bởi phương tiện vật chất (Wakefield và Blodgett, 1994,
p.68).
Đối với khách hàng, bất cứ điều gì làm cho việc tiếp nhận dịch vụ trở nên khó khăn
đều tạo ảnh hưởng xấu cho cảm nhận của khách hàng về chất lượng. Khách hàng
thường nhạy cảm nhất với những yếu tố mà đối với họ là quan trọng. Nếu một đặc
điểm nào đó của dịch vụ là quan troïng đối với họ thì bất cứ sai sót nào cũng được
để ý và nhớ lâu; trong khi những đặc điểm không quan trọng đối với họ có thể được
bỏ qua và quên đi dễ dàng. Ví dụ, ban đầu các sinh viên có thể không xem những
đặc điểm vật chất là không quan trọng, nhưng nếu chỗ ngồi ở giảng đường gây khó
chịu và nóng bức thì đặc điểm này của dịch vụ có tầm quan trọng cực kỳ lớn.
Khách hàng không thể nhìn thấy được dịch vụ nhưng họ có thể thấy và có kinh
nghiệm với những yếu tố hữu hình hỗ trợ cho dịch vụ. Họ thấy phương tiện, thiết bị,
nhân viên, đồng phục, tờ rơi, tranh ảnh….Những điều này được Zethaml xem là
những dấu hiệu của dịch vụ. Nhiệm vụ chính của nhà tiếp thị dịch vụ là làm cho
những yếu tố hữu hình sẵn có thành những dấu hiệu đúng đắn chuyển tải dịch vụ.
Công cụ SERVQUAL gồm 22 câu hỏi đo lường những quá trình của dịch vụ, những
yếu tố tương tác cá nhân và yếu tố vật chất; ba thành phần điển hình của dịch vụ.
Hơn nữa, SERVQUAL là một công cụ nổi tiếng và được sử dụng rộng rãi trong đo
lường cảm nhận của khách hàng về chất lượng dịch vụ (Buttle, 1996; Smith, 1995).
Chính vì vậy, SERVQUAL được lựa chọn trong nghiên cứu này.
Trong phạm vi giáo dục, nhiều nghiên cứu đã ứng dụng mô hình SERVQUAL để
đo lường chất lượng dịch vụ [(Hill, 1995), Anderson, 1995), (Cuthbert, 1996 a&b),
(O’neil & Wright, 2002), (Sahney et al., 2004), (Ho & Wearn, 1995), (Engelland et
al 2001 & 2000), (Comm et al, 2000), (Houston and Rees 1999), (Kwan & Ng,
1999), (Hampton, 1993), (Davis & Allen, 1990)]
Theo nghiên cứu của Rodney Arambewela, năm thành phần của mô hình
SERVQUAL trong các tổ chức giáo dục bao gồm:
Trang 15
- Sự hữu hình: dáng vẻ bên ngoài của trường học như: cơ sở vật chất, trang
thiết bị, nhân viên, phương tiện giao tiếp.
- Sự tin cậy: khả năng trường học thực hiện dịch vụ đã hứa độc lập và chính
xác (hệ thống ghi danh hiệu quả, tài liệu giảng dạy, kích thước lớp phù hợp……).
- Sự đáp ứng: sẵn sàng phản hồi từ thầy cô về bài giảng, nhân viên sẵn sàng
giải quyết những than phiền của sinh viên…..
- Sự đảm bảo: kiến thức và cử chỉ lịch sự của thầy cô và khả năng chuyển tải
lòng tin và sự tự tin, chương trình học phù hợp, ….
- Sự cảm thông: thời khóa biểu linh hoạt, sự quan tâm từng cá nhân….
Peter F. Cuthbert, Rigotti và Pitt, McElwee và Redman cho rằng ưu điểm của
SERVQUAL hơn hẳn những lý thuyết liên quan đến việc học của sinh viên ở chỗ
nó bao quát được toàn bộ những kinh nghiệm của sinh viên, những kinh nghiệm mà
tạo nên một sự thỏa mãn toàn diện.
2.3 Sự thỏa mãn khách hàng
Trong suốt bốn thập kỷ qua, sự thỏa mãn khách hàng luôn được xem là một trong
những vấn đề quan trọng nhất về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn đối với những
nhà nghiên cứu về khách hàng (Jamal, 2004). Tuy nhiên, không có định nghĩa đơn
nhất nào về sự thỏa mãn khách hàng được nhất trí về mặt lý thuyết.
Trong lý thuyết tiếp thị dịch vụ sự thỏa mãn đã được định nghĩa như một hiện tượng
dựa trên nhận thức (Westbrook, 1987). Thật vậy, theo Philip Kotler thì sự thỏa mãn
là mức độ trạng thái cảm giác của một người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu
được từ sản phẩm, dịch vụ với những kỳ vọng của người đó.
Như vậy, mức độ thỏa mãn là một hàm của sự khác biệt giữa kết quả nhận được và
kỳ vọng. Khách hàng có thể cảm nhận một trong ba mức độ thỏa mãn sau:
-
Nếu kết quả thực tế kém hơn so với kỳ vọng thì khách hàng sẽ không hài lòng.
-
Nếu kết quả thực tế tương xứng với kỳ vọng thì khách hàng sẽ hài lòng.
Trang 16
-
Nếu kết quả thực tế vượt quá sự mong đợi thì khách hàng rất hài lòng, vui sướng
và thích thú.
Những nghiên cứu khác nhận thấy rằng những kinh nghiệm khách hàng có được
trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hay dịch vụ có thể cũng có ảnh hưởng đáng kể lên
đánh giá sự thỏa mãn (Homburg et al., 2006). Thế nhưng kỳ vọng của khách hàng
được hình thành như thế nào? Chúng được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm trước
kia của khách hàng, những ý kiến của bạn bè người thân, xuất phát từ nhu cầu cá
nhân và những thông tin bên ngoài tác động đến khách hàng.
Theo Homberg và cộng sự (2006), những nghiên cứu trước đây đã thừa nhận rằng
cả sự nhận thức (Oliver, 1980; Bearden and Teel, 1983; LaBarbera and Mazursky,
1983; Oliver and DeSarbo, 1988) và sự ảnh hưởng (Westbrook, 1987; Westbrook
and Oliver, 1991; Mano and Oliver, 1993) là những dự đoán quan trọng cho những
đánh giá sự thỏa mãn
Những tầm hướng có vai trò ảnh hưởng lên việc hình thành sự đánh giá của khách
hàng đã không được xét đến (Burns & Neisner, 2006). Liljander và Strandvik
(1997) cho rằng sự thỏa mãn khách hàng không thể được hiểu đầy đủ nếu không
nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến nó.
Hình 2.3. Mô hình sự hình thành kỳ vọng của khách hàng Kurt và Clow
Trang 17
2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn khách hàng
2.4.1 Mối quan hệ giữa chất lượng cảm nhận và sự thỏa mãn khách hàng
Mặc dù nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng cảm nhận và sự thỏa mãn khách
hàng là mới trong phạm vi học đường (Athiayaman, 1997) nhưng cũng không thể
bỏ qua vì dù dịch vụ dù là công hay tư thì cũng phải đạt mục tiêu là làm hài lòng
người sử dụng. Theo đó, tầm quan trọng của việc phân tích mối quan hệ giữa hai
khái niệm này không thể chối cãi được. Với những kết quả đạt được trong lĩnh vực
marketing nói chung, mối quan hệ này cũng được thực hiện cho những nghiên cứu
liên quan đến lĩnh vực giáo dục và kết quả cho thấy rằng chất lượng cảm nhận có
ảnh hưởng đến sự thỏa mãn khách hàng (Brown et al., 1998; Goulla, 1999)
2.4.2 Mối quan hệ giữa giá cả và sự thỏa mãn của khách hàng
Vai trò của giá và sự cảm nhận về giá của khách hàng là một lĩnh vực nghiên cứu về
lý thuyết sự thỏa mãn khách hàng được quan tâm gần đây (Voss et al ,1998 và
Lemon, 1999; Varki và Colgate, 2001). Lý thuyết vốn cung cấp một vài cơ sở để giả
định rằng có một mối liên hệ nào đó giữa giá và sự thỏa mãn (Patterson và cộng sự,
1997). Hơn nữa, Voss và cộng sự (1998) cho rằng thất bại của những nghiên cứu
trước đây là vì đã không đưa biến giá vào phương trình. Điều này dẫn đến kết hợp
giữa sự thỏa mãn khách hàng và các biến khác ít có ý nghĩa về mặt thống kê.
Khách hàng không nhất thiết mua dịch vụ có chất lượng tốt nhất mà họ có thể chọn
mua những dịch vụ cung cấp cho họ sự hài lòng nhiều hơn. Bởi vậy, những yếu tố
như là nhận thức về giá và phí của đối thủ cạnh tranh có thể tác động đến mức độ
hài lòng trong khi không thực sự ảnh hưởng đến nhận thức của khách hàng về chất
lượng dịch vụ ( Cronin và Taylor, 1992).
Ngược lại, Zeithaml và Bitner (2000) cho rằng giá của dịch vụ có thể bị ảnh hưởng
đến nhận thức của khách hàng về chất lượng, sự hài lòng và giá trị bởi vì dịch vụ có
tính vô hình và khó xét đoán trong việc mua dịch vụ.
Trang 18
Trong những nghiên cứu gần đây, Varki và Colgate (2001) đã chứng minh mối
quan hệ giữa giá cảm nhận và sự thỏa mãn khi giá cảm nhận được đo lường bằng cơ
sở tương đối mà không được đo bằng cơ sở tuyệt đối. Kết quả này được Varki và
Colgate xem như bằng chứng của giá tham khảo và giá kỳ vọng tương phản với với
sự đánh giá của khách hàng đối với giá mà họ thực sự trả. Sự đánh giá này có tác
động tích cực hay tiêu cực đến sự thỏa mãn khách hàng là phụ thuộc vào mức giá.
Những nghiên cứu về mối liên hệ giữa giá và sự thỏa mãn khách hàng củng cố niềm
tin rằng giá cảm nhận sau mua thực sự có tác động tích cực đến sự thỏa mãn khách
hàng và giá sẽ được xem xét như một biến độc lập để mô tả sự thỏa mãn khách
hàng.
2.4.3 Mối quan hệ giữa hình ảnh công ty với sự thỏa mãn khách hàng
Hình ảnh công ty được định nghĩa là sự phản ánh từ tâm trí của khách hàng những
cảm nhận của họ về công ty (Keller 1993).
Theo Kotler và Fox (1995), hình ảnh là tổng hợp những ý tưởng, niềm tin và ấn
tượng của một người về đối tượng. Hình ảnh của một tổ chức thì không hoàn toàn
được hình thành từ chính tổ chức đó mà còn liên quan đến những hình ảnh được
chuyển tải bởi những tổ chức khác. Kotler và Fox chỉ ra rằng người ta hình thành
những hình ảnh dựa trên những thông tin giới hạn, thậm chí không chính xác nhưng
những hình ảnh này rất có khả năng ảnh hưởng đến quyết định mua, sự hài lòng và
giới thiệu cho người khác. Vì lý do này các tổ chức phải hiểu được hình ảnh mà họ
tạo ra và đảm bảo rằng những hình ảnh này là sự phản ánh chính xác và có lợi cho
tổ chức.
Chất lượng thật sự của một tổ chức thường kém quan trọng hơn uy tín cũng như
danh tiếng về chất lượng (Gavin). Gronroos (1990) cho rằng hình ảnh nổi tiếng là
tài sản quý giá của bất kỳ tổ chức nào vì hình ảnh có thể tác động đến sự cảm nhận
của khách hàng về chất lượng, giá trị và sự thỏa mãn.
Trang 19
Còn Zeithaml và Bitner (2000) cho rằng hình ảnh công ty sẽ ảnh hưởng đến sự cảm
nhận của khách hàng về hoạt động của nhà cung cấp dịch vụ và sẽ được gia tăng bởi
những kinh nghiệm thật sự của họ, để từ đó cụ thể hóa hình ảnh mong muốn của họ.
Một số nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng hình ảnh công ty có thể bị ảnh hưởng những
kinh nghiệm tiêu thụ hay sự thỏa mãn trước đó của khách hàng (Johnson, Fornell,
Andreassen, Lervik và Cha 2001).
Thật vậy, nhiều nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh đến sự ảnh hưởng của hình ảnh công
ty đến thỏa mãn khách hàng (Andressen và Lindestand, 1998).
2.5 Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết
Phần trên đã điểm qua cơ sở lý thuyết và các mô hình, các kết quả nghiên cứu liên
quan đến chất lượng dịch vụ, giá cả và hình ảnh công ty đối với sự thỏa mãn khách
hàng. Với mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đã xác định, mô hình nghiên cứu được
đề nghị như sau:
Giá cả
Sự tin cậy
H1
H6
Sự phản hồi
H2
Sự đảm bảo
Thỏa mãn
khách hàng
H3
H4
Sự cảm thông
H5
H7
Sự hữu hình
Chất lượng dịch vụ
Hình ảnh
công ty
Hình 2.4. Mô hình nghiên cứu
Trang 20
Với mô hình nghiên cứu được xây dựng như trên, những giả thuyết về mối quan hệ
giữa sự thỏa mãn của khách hàng với năm thành phần của chất lượng dịch vụ có
quan hệ đồng biến, cụ thể như sau:
H1: Mức độ thỏa mãn tăng khi thành phần sự tin cậy tăng.
H2: Mức độ thỏa mãn tăng khi thành phần sự phản hồi tăng.
H3: Mức độ thỏa mãn tăng khi thành phần sự đảm bảo tăng.
H4: Mức độ thỏa mãn tăng khi thành phần sự cảm thông tăng.
H5: Mức độ thỏa mãn tăng khi thành phần sự hữu hình tăng.
Giả thuyết mối quan hệ giữa giá cả và sự thỏa mãn khách hàng là nghịch biến:
H6: Mức độ thỏa mãn tăng khi khách hàng cảm nhận giá thấp.
Giả thuyết mối quan hệ giữa hình ảnh công ty và sự thỏa mãn khách hàng là đồng
biến:
H7: Mức độ thỏa mãn tăng khi khách hàng cảm nhận hình ảnh công ty tốt.
- Xem thêm -