1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ
HÀI LÒNG CỦA KHÁCH HÀNG
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến sự hài lòng
của khách hàng đối với dịch vụ điện thoại di động.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, sự thành công hay thất bại của một doanh
nghiệp phụ thuộc khá nhiều vào khách hàng. Cũng chính vì lẽ đó, khái niệm sự hài lòng
khách hàng có tầm ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Trong nhiều thập niên qua, trên thế giới có khá nhiều nghiên cứu về
những yếu tố tác động đến sự hài lòng khách hàng. Tuy nhiên, do sự khác biệt về văn
hóa, địa lý, định kiến xã hội cũng như những yếu tố thuộc về tâm lý ở mỗi vùng miền
khác nhau, lĩnh vực kinh doanh khác nhau mà các học giả và các nhà quản trị marketing
cũng đưa ra ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều nhau.
Nhìn chung, sự thỏa mãn – hài lòng là mức độ của trạng thái cảm giác của một
người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ việc tiêu dùng sản phẩm/dịch vụ với
những kỳ vọng của người đó. Mức độ hài lòng phụ thuộc sự khác biệt giữa kết quả nhận
được và kỳ vọng, nếu kết quả thực tế thấp hơn kỳ vọng thì khách hàng không hài lòng,
nếu kết quả thực tế tương xứng với kỳ vọng thì khách hàng sẽ hài lòng, nếu kết quả thực
tế cao hơn kỳ vọng thì khách hàng rất hài lòng (Kotler, 2002).
Theo Oliver (1997): sự thỏa mãn là sự phản ứng của người tiêu dùng đối với
việc được đáp ứng những mong muốn. Định nghĩa này có hàm ý rằng sự thỏa mãn chính
là sự hài lòng của người tiêu dùng trong việc tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch vụ do nó đáp
ứng những mong muốn của họ, bao gồm cả mức độ đáp ứng trên mức mong muốn và
dưới mức mong muốn.
Do tính chất cấp thiết và quan trọng của nó mà nghiên cứu về sự hài lòng khách
hàng trong lĩnh vực dịch vụ điện thoại di động tại Việt Nam cũng đã thu hút khá nhiều
học giả trong những năm gần đây, cụ thể như sau:
Thạc Sĩ Phạm Đức Ký trong bài nghiên cứu “Thị trường di động – Đánh giá
sự trung thành của Khách hàng thông qua mức độ hài lòng và các rào cản chuyển đổi”
2
năm 2008, đã khái quát hình tình kinh doanh của các mạng điện thoại di động tại Việt
Nam. Từ kết quả nghiên cứu và ý nghĩa thực tiễn trình bày đưa đến một số gợi ý cho
nhà quản lý dịch vụ là để tăng cường sự trung thành của khách hàng thì tăng sự thỏa mãn
của họ đối với chất lượng dịch vụ là chưa đủ mà còn phải tăng rào cản chuyển đổi để giữ
khách hàng bằng cách tăng rào cản nội sinh (chi phí thích nghi) và giảm ảnh hưởng của
thành phần ngoại sinh (sự hấp dẫn của mạng khác). Về nguyên tắc doanh nghiệp cần
phối hợp thực hiện các giải pháp cụ thể như sau: Tăng cường chất lượng cuộc gọi, Điều
chỉnh cơ cấu chi phí-giá cước; Tăng cường Dịch vụ khách hàng; Tăng Sự thuận tiện;
Tăng Chi phí thích nghi và Giảm sự hấp dẫn của mạng khác.
Tác giả Phạm Ngọc Bích cũng có bài nghiên cứu về mức độ hài lòng của Đại
lý/kênh phân phối đối với Vinaphone cho rằng: Kênh phân phối là huyết mạch của
doanh nghiệp, đóng một vai trò quyết định trong quá trình sản xuất và tiêu dùng. Nó là
cầu nối đưa sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp đến đúng lúc, đúng nơi, đúng số lượng
với tổng chi phí thấp nhất. Một hệ thống kênh phân phối với nhiều trung gian hay không
có trung gian phụ thuộc vào khách hàng, sản phẩm, thị trường và tình hình của doanh
nghiệp. Một hệ thống kênh phân phối hiệu quả sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được chi
phí, mở rộng quy mô, thị trường và tăng lợi nhuận.
Nhà bán lẻ là một trong những trung gian trong kênh phân phối. Họ có vai trò
hết sức quan trọng trong kênh phân phối của bất kỳ doanh nghiệp nào. Nhà bán lẻ vừa
đóng vai trò là người mua và cũng là người bán. Nhà bán lẻ thấu hiểu khách hàng hơn
bất kỳ ai vì họ là người tiếp xúc trực tiếp, thường xuyên với khách hàng. Nhà bán lẻ là
người am hiểu sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp, đồng thời cũng biết được nhu cầu
của thị trường.
Qua phân tích nghiên cứu, tác giả đề xuất VinaPhone không ngừng hoàn thiện và
phát triển hệ thống kênh phân phối một cách hiệu quả.
Lê Thị Tuyết Trinh - chuyên ngành: Quản trị kinh doanh Mã số: 60.34.05 với
luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh : “Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng đối với
dịch vụ viễn thông di động Viettel tại Bình Định” - Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS
Lê Thế Giới - Quy Nhơn - Năm 2012 cho rằng:
3
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích nhận diện các nhân tố ảnh hưởng
đến sự hài lòng của KH cũng như mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố để từ đó đưa ra
các hàm ý chính sách nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng sử dụng Dịch vụ
viễn thông di động Viettel tại tỉnh Bình Định.
Dựa vào mô hình lý thuyết và thang đo ban đầu được xây dựng trên cơ sở lý
thuyết và kết quả của những nghiên cứu trước, kỹ thuật thảo luận nhóm được sử dụng để
điều chỉnh thang đo cho phù hợp với tình huống nghiên cứu rồi tiến hành thu thập dữ
liệu. Dữ liệu thu thập sau khi được kiểm tra độ tin cậy bằng hệ số Cronbach's Alpha, kỹ
thuật phân tích nhân tố khám phá được sử dụng nhằm thu nhỏ và tóm tắt dữ liệu, rút trích
từ các biến quan sát thành một số biến tổng hợp. Việc kiểm định mô hình nghiên cứu
được thực hiện bằng phân tích hồi quy bội.
Kết quả kiểm định cho thấy có ba nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách
hàng sử dụng Dịch vụ viễn thông di động Viettel tại Bình Định. Đó là các nhân tố chất
lượng cuộc gọi, cấu trúc giá, sự thuận tiện. Trong đó, sự thuận tiện là nhân tố tác động
mạnh nhất đến sự hài lòng của khách hàng, tiếp đến là cấu trúc giá và cuối cùng là chất
lượng cuộc gọi. Trong thời gian đến, các nhà quản trị Chi nhánh Viettel Bình Định cần
tiếp tục quan tâm cải thiện cảm nhận của khách hàng đối với các nhân tố ảnh hưởng đến
sự hài lòng nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng.
Dương Trí Thảo và Nguyễn Hải Biên với đề tài“Chất lượng dịch vụ các mạng
điện thoại di động tại thành phố Nha Trang” được đăng trênTạp chí khoa học năm 2011,
Đại Học cần Thơđã thực hiện trên một mẫu gồm 388 khách hàng tại thành phố Nha
Trang. Nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ thông tin di động
đến sự thỏa mãn của khách hàng dựa trên mô hình nghiên cứu lý thuyết về sự trung
thành và sự thỏa mãn của khách hàng thông tin di động tại Việt Nam. Các thang đo được
xây dựng bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá và kiểm định hệ số Cronbach 's
Alpha. Phương pháp mô hình cấu trúc được sử dụng để kiểm định độ tin cậy, giá trị phân
biệt của các khái niệm, đồng thời kiểm định các quan hệ giả thuyết nghiên cứu. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng mô hình phù hợp với dữ liệu thị trường, sự thỏa mãn của khách
hàng thông tin di động chịu sự tác động dương của 5 yếu tố: chất lượng cuộc gọi; dịch vụ
giá trị gia tăng; sự thuận tiện; cấu trúc giá; và dịch vụ khách hàng.
4
Nguyễn Hà Hạnh - Trường Đại học Kinh tế với Luận văn Thạc sĩ ngành: Quản
trị kinh doanh; Mã số: 60 34 05 Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Xuân Quang. Năm
bảo vệ: 2009 đưa ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ điện thoại di động
của Công ty Dịch vụ viễn thông (Vinaphone). Cơ sở của các biện pháp bao gồm: Mục
tiêu và phương hướng phát triển ngành thông tin di động của Việt Nam trong thời gian
(2010, 2020); Kế hoạch phát triển dịch vụ điện thoại di động của Vinaphone. Các giải
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh tập trung vào: Nâng cao chất lượng dịch vụ, hạ giá
cước dịch vụ, hoàn thiện kênh phân phối., nâng cao hiêu qua hoai; đông xúc, tiến yểm
trợ. Điều kiện thực hiện các biện pháp: về nhận thức, về tái cơ cấu tổ chức quản lý và
hoạt động cung cấp dịch vụ điện thoại di động. Sự cố gắng nỗ lực của cán bộ công nhân
viên Vinaphone.
Lê Thi Thuý - Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Như Liêm
với đề tài: “Nghiên cứu sự hài lòng khách hàng đối với dịch vụ mạng vinaphone trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng” nhận định rằng:
Với mục tiêu nhận dạng các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng khách hàng và xác
định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến sự hài lòng khách hàng đối với dịch vụ thông
tin di động mạng Vinaphone, kết quả nghiên cứu cho thấy có 03 yếu tố đó là: Chất lượng
dịch vụ, Giá trị gia tăng và thương hiệu và khuyến mãi. Tuy các yếu tố này có ảnh hưởng
đến sự hài lòng khách hàng nhưng phần cảm nhận đánh giá của khách hàng không cao.
Nhìn chung, mức đánh giá chưa tốt so với thang đo 5 mức độ.
Các công trình nghiên cứu này đã phần nào đáp ứng được nhu cầu thực tế ở thời
điểm nghiên cứu. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển chóng mặt của ngành dịch vụ viễn
thông, sự ra đời của thế hệ điện thoại di động mới - Smart Phone - cùng với sự đổi thay
trong xu hướng tiêu dùng, sự gia tăng về nhu cầu ngày càng cao, những kết luận trên có
một số hạn chế nhất định trong thời điển hiện tại mà tác giả của nghiên cứu này cần phải
cập nhật và làm sáng tỏ. Nhìn chung, nhược điểm của các công trình nghiên cứu trên
chưa chỉ rõ cụ thể ra loại khách hàng nào, chỗ nào, ở đâu và cái gì mà khách hàng chưa
hài lòng hoặc sự hài lòng còn hạn chế.
5
1.2. Tổng quan về tình hình áp dụng trên thực tế và các vấn đề còn chưa
được giải quyết
Mặc dù khái niệm “sự hài lòng” có ý nghĩa vô cùng quantrọng đối với các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực viễn thông nhưng việc áp dụng trong thực tế những yếu
tố tác động này còn rất hạn chế và mang tính ngẫu nhiên, thiếu chuyên nghiệp.
Qua phân tích một số nghiên cứu khác trong nước, nguyên nhân cơ bản khiến
nhà mạng Vinaphone còn tồn tại những hạn chế (điểm yếu) ảnh hưởng đến sự hài lòng
khách hàng là: Một là tự hài lòng với thành công, Hai là chưa coi trọng đối thủ cạnh
tranh, Ba làcông tác kế hoạch chưa được đổi mới trong bình diện so sánh, Bốn lànhận
thức của cán bộ, nhân viên về tình hình cạnh tranh trên thị trường chưa đầy đủ, Năm
lànguồn lực còn hạn chế, Sáu làcơ chế (hành lang pháp lý) chưa hoàn thiện và đầy đủ,
Bảy là chất lượng quản trị nhân lực chưa cao.(trích dẫn từ luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hà
Hạnh, năm 2009).
1.3. Sự cần thiết khách quan về nghiên cứu các yếu tố tác động đến sự hài
lòng của khách hàng
Trong bối cảnh ngày nay, với sự tiến bộ của công nghệ, dịch vụ viễn thông di
động đã trở nên phổ biến và không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Thị trường
thông tin di động Việt Nam, tuy còn mới mẻ nhưng đã có sự tham gia của nhiều nhà
cung cấp dịch vụ làm cho cuộc chiến cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Để thành công trên
thị trường, việc nghiên cứu về chất lượng dịch vụ viễn thông di động cung cấp cho khách
hàng của doanh nghiệp là vô cùng cần thiết, từ đó nâng cao sự hài lòng của khách hàng
về chất lượng dịch vụ, giữ chân khách hàng đã có cũng như lôi kéo những khách hàng
tiềm năng.
Sự hài lòng của khách hàng được xem như là chìa khóa để thành công cho các
doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Việc làm
khách hàng hài lòng đã trở thành một tài sản quan trọng đối với các doanh nghiệp. Xuất
phát từ sự cần thiết nêu trên, tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự
hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ điện thoại di động vinaphone trên địa bàn
tỉnh Long An”Chất lượng dịch vụ điện thoại di động vinaphone tỉnh Long An hiện nay
đã đáp ứng sự hài lòng của khách hàng khi sử dụng như thế nào? Các yếu tố nào ảnh
6
hưởng đến chất lượng dịch vụ điện thoại di động? Nghiên cứu này bước đầu khám phá
sự ảnh hưởng của các yếu tố chất lượng dịch vụ tác động đến sự hài lòng của khách hàng
về dịch vụ điện thoại di động vinaphone của Chi nhánh VNPT Long An.
1.4. Mục tiêu nghiên cứu về các yếu tố tác động đến sự hài lòng của khách
hàng
Như đã đề cập ở trên, sự hài lòng khách hàng trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
điện thoại di động đã được khá nhiều công trình nghiên cứu chung và ở một số địa
phương khác. Các kết luận của những công trình ấy là khác nhau và chính vì thế chúng
chỉ có tính tham khảo chứ không thể áp dụng thực tế trên địa bàn tỉnh Long An được.
Xuất phát từ tinh thần như thế công trình nghiên cứu của chúng tôi dựa trên lý thuyết
chung về sự hài lòng khách hàng hướng tới việc xác định cụ thể những yếu tố và mức độ
ảnh hưởng của chúng tới sự hài lòng về dịch vụ di động Vinaphone trên địa bàn tỉnh
Long An– nơi có đặc thù văn hóa vùng miền riêng biệt.Với công trình nghiên cứu nàyở
Long An, các nhà mạng, cụ thể là Vinaphone có cơ sở để xây dựng và đo lường sự hài
lòng khách hàng tại thị trường cụ thể của mình. Những mục tiêu cụ thể được nhằm đến ở
đây là:
-
Xác định rõ những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự hài lòng khách hàng đối với
dịch vụ di động Vinaphone trên địa bàn tỉnh Long An.
-
Xây dựng thang đo các yếu tố góp phần tạo nên sự hài lòng.
-
Đề xuất giải pháp phương hướng điều chỉnh khắc phục những hạn chế, đồng
thời sẽ phát triển mặt tích cực đối với nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại di động
Vinaphone trên địa bàn tỉnh Long An.
1.5. Nội dung nghiên cứu về các yếu tố tác động đến sự hài lòng của khách
hàng
Từ những mục tiêu nghiên cứu cụ thể, đề tài tập trung khai thác những nội dụng
sau:
Nội dung 1: Đánh giá tổng quan về những công trình nghiên cứu các yếu tố tác
động đến sự hài lòng của khách hàng
Nội dung 2: Cơ sở lý luận chung về sự hài lòng của khách hàng.
7
Nội dung 3: Khái quát hoạt động kinh doanh của Vinaphone và mô hình nghiên
cứu định lượng của các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch
vụ điện thoại di động vinaphone trên địa bàn tỉnh Long An.
Nội dung 4: Phân tích kết quả nghiên cứu, hiệu chỉnh mô hình nghiên cứu và
các phương hướng nhằm nâng cao sự hài lòng khách hàng đối với dịch vụ điện thoại di
động của Vinaphone Long An.
Nội dung 5: Một số giải pháp nâng cao sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch
vụ điện thoại di động vinaphone trên địa bàn tỉnh Long An.
1.6. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu về các yếu tố tác động đến sự hài
lòng của khách hàng.
1.6.1 Phương pháp luận:
Xác định đối tượng quan sát trên cơ sở mục đích của đề tài đồng thời xác định cả
các phương diện cụ thể của đối tượng cần phải quan sát; Lập kế hoạch quan sát: thời
gian, địa điểm, số lượng đối tượng, người quan sát, phương diện cụ thể của đối tượng
cần phải quan sát.
Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm nghiên cứu diễn biến và nguyên
nhân của các sự kiện và nghiên cứu các giải pháp thực tiễn đã áp dụng trong sản xuất hay
trong hoạt động xã hội để tìm ra các phương hướng hoàn hảo nhất.
Phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin từ các lý thuyết đã thu
thập được để được tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên
cứu. Tổng họp lý thuyết được thực hiện khi đã thu thập được nhiều tài liệu phong phú về
một đối tượng. Tổng hợp cho chúng ta tài liệu toàn diện và khái quát hơn các tài liệu đã
có; Phương pháp sắp xếp các tài liệu khoa học thành một hệ thống logic chặt chẽ theo
từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học có cùng dấu hiệu bản chất, cùng
một hướng phát triển.
Hệ thống hóa phương pháp tuân theo quan điểm hệ thống- cấu trúc trong nghiên
cứu khoa học. Những thông tin đa dạng thu thập từ các nguồn, các tài liệu khác nhau,
phương pháp hệ thống hóa mà ta có được một chính thể với một kết cấu chặt chẽ để từ
đó mà ta xây dựng một lý thuyết mới hoàn chỉnh.
8
Phương pháp phân tíchlý thuyết là phương pháp nghiên cứu các văn bản, tài liệu
lý luận khác nhau về một chủ thể bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận, từng
mặt theo lịch sử thời gian, để hiểu chúng một cách đầy đủ toàn diện. Phân tích lý thuyết
còn nhằm phát hiện ra những xu hướng, những trường phái nghiên cứu của từng tác giả
và từ đó chọn lọc những thông tin quan trọng phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
Xử lý tài liệu: Các tài liệu do các cá nhân quan sát được là tài liệu cảm tính,
mang tính chủ quan, chưa phải là tài liệu khoa học. Các tài liệu này cần phải được xử lý
thận trọng bằng cách phân loại, hệ thống hóa, bằng thống kê toán học, bằng máy tính
mới đáng tin cậy, các tài liệu qua xử lý cho ta thông tin cô đọng và khái quát về đối
tượng.
1.6.2 Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, tổng hợp sử dụng trong
suốt quá trình thu thập và xử lý dữ liệu thu thập; Phương pháp nghiên cứu áp dụng bao
gồm áp dụng cả định tính và định lượng các phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp thu thập thông tin từ số liệu báo cáo VNPT tỉnh Long An, các cá
nhân, tổ chức sử dụng dịch vụ điện thoại di động vinaphone trên địa bàn tỉnh.
Phương pháp phân tích thống kê và phân tích dữ liệu, so sánh trên cơ sở những
số liệu và thông tin thu thập được.
Phương pháp nghiên cứu: Gồm 14 bước:
Bước 1: Cơ sở lý thuyết về sự hài lòng khách hàng.
Bước 2: Xác định các nhân tố tác động đến sự hài lòng khách hàng.
Bước 3: Xây dựng mô hình nghiên cứu sự hài lòng khách hàng đối với dịch vụ
thông tin di động.
Bước 4: Xây dưng thang đo nháp.
Bước 5: Nghiên cứu sơ bộ.
Bước 6: Thang đo chính thức.
Bước 7: Nghiên cứu định lượng (n= 306).
9
Bước 8: Cronbach's Alpha (Đánh giá độ tin cậy các thang đo và loại biến không
phù hợp).
Bước 9: Phân tích nhân tố khám phá EFA (kiểm tra nhân tố trích và phương
saitrích).
Bước 10: Thang đo hoàn chỉnh.
Bước 11: Phân tích hồi quy tuyến tính bội
Bước 12: Dò tìm vi phạm các giả thuyết
Bước 13: Phân tích bổ sung các yếu tố ảnh hưởng sự hài lòng của khách hàng
Bước 14: Trình bày kết quả.
Theo Jame’ Applied Multivariate Statistics for the Social Sciences, thì quy tắc
thông thường là 15 mẫu cho một biến dự báo trong phân tích hồi quy đa biến tiêu
chuẩn(OLS). Từ khi mô hình SEM được sử dụng kết hợp với hồi quy đa biến thì phương
pháp lấy mẫu trên là không hợp lý. Bentler and Chou (1987) cho rằng có thể sử dụng 5
mẫu cho một tham số ước lượng trong phân tích mô hình SEM nhưng chỉ trong trường
hợp bộ dữ liệu có cấu trúc tốt (tức là dữ liệu có phân bố chuẩn, không bị thiếu và không
phân tán xa trung tâm,..). Chú ý rằng Bentler & Chou đề cập 5 mẫu cho một tham số ước
lượng chứ không phải cho một biến đo lường như tham khảo của một số đề tài luận văn
trước đây. Mỗi biến đo lường thông thường mô tả bằng một hệ số quan hệ với một biến
khác và phần dư hoặc ước lượng phương sai (tức là một biến đo lường ứng với ít nhất là
3 tham số). Từ đây có thể nhận thấy rằng đề nghị của Bentler & Chou ăn khớp với quy
tắc tối thiểu là: 5 x 3 = 15 mẫu cho một biến đo lường.
Tổng quát, Loehlin (1992) cũng đã báo cáo kết quả nghiên cứu mô phỏng
Monte-Carlo sử dụng mô hình phân tích nhân tố khẳng định (CFA). Theo kết quả này thì
một mô hình với 2 hay 4 nhân tố cần kích thước mẫu tối thiểu là 100, hoặc 200 thì tốt
hơn. Sử dụng kích thước mẫu nhỏ dẫn đến kết quả không phù hợp, độ chính xác của
tham số ước lượng thấp, sai số chuẩn cao,..Nói chung mô hình SEM cần mẫu có kích
thước lớn.
10
Mô hình của đề tài khảo sát gồm 39 biến quan sát vậy kích thước mẫu tối thiểu
là: N = 39 x 5 = 195. Tuy nhiên, theo Nguyễn Đình Thọ (2011) để có được kết quả hồi
quy tốt thì mẫu ít nhất phải trên 300 mẫu.
1.6.3 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ tập trung vào phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng khách
hàng đối với dịch vụ điện thoại di động của Vinaphone trên địa bàn tỉnh Long An, bao
gồm cả khách hàng có thuê bao trả trước và trả sau tại thành phố Tân An và 13 huyện
trực thuộc.
Thời gian nghiên cứu từ năm 2012 – 2013.
1.7. Dự kiến kết quả nghiên cứu về các yếu tố tác động đến sự hài lòng của
khách hàng
Nghiên cứu này dự kiến cho kết quả những yếu tố tác động đến sự hài lòng sẽ
khác nhau giữa những nhóm người có tình trạng nhân khẩu học khác nhau. Tuy nhiên,
nhìn chung sự thuận tiện có lẽ là yếu tố then chốt tác động đến sự hài lòng của người sử
dụng mạng Vinaphone ở tỉnh Long An. Mặc dù Long An là tỉnh giáp ranh với thành phố
Hồ Chí Minh nhưng do hạ tầng cơ sở ở các xã huyện thuộc Long An chưa phát triển nên
mức độ giao thoa và hội nhập công nghệ vẫn còn ở mức khiêm tốn. Hơn nữa, Long An
còn là tỉnh nghèo, dân trí chưa cao nên mức độ tiếp cận công nghệ còn hết sức hạn chế.
Vì thế, hệ thống giao dịch rộng khắp, thủ tục hòa mạng, thay simcard dễ dàng, giải quyết
khiếu nại nhanh chóng hay giờ giấc làm việc linh hoạt, các hình thức thanh toán đa dạng
hợp lý sẽ là lợi thế lớn cho các nhà mạng chinh phục khách hàng.
Trước sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà mạng thì mức giá cước hợp lýhay
siêu rẻ có lẻ không còn là yếu tố then chốt có tác động trực tiếp đáng kể trên sự hài lòng
của khách hàng hay ảnh hưởng gián tiếp đến sự hài lòng của khách hàng thông qua giá
trị nhận thức. Người sử dụng đã quá quen thuộc với cách giảm giá cước của các nhà
mạng. Việc các nhà mạng thi nhau giảm giá cước tăng khuyến mãi làm cho khách hàng
có nhiều nghi vấn liệu rằng cách tính cước có còn chính xác như trước đây hoặc cách
tính cước theo block 10 giây, 30 giây hay 60 giây có còn hữu hiệu,…
11
Một trong những yếu tố mà nghiên cứu này lần đầu tiên đề cập đó chính những
yếu tố ngoại sinh liên quan đến môi trường bên ngoài. Lợi thế so sánh giữa các nhà
mạng trong nhận thức của khách hàng có tác động như thế nào đến sự hài lòng hoặc giả
cở sở hạ tầng tốt như băng thông rộng, trạm phát sóng nhiều có giúp khách hàng gắn kết
lâu dài với nhà mạng hay không là câu hỏi được đặt ra trong phần kết quả nghiên cứu
của đề tài này. Ngoài ra, việc nhà mạng có thường xuyên ưu tiên đổi mới ứng dụng công
nghệ mới so với thế giới hay thích nghi với sự biến đổi của các điều kiện về kinh tế-xã
hội-văn hóa cũng có ảnh hưởng gián tiếp đến sự hài lòng khách hàng xét trên một góc độ
nào đó.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ HÀI
LÒNG CỦA KHÁCH HÀNG
2.1. Khái niệm, bản chất và vai trò của các yếu tố tác động đến sự hài lòng
của khách hàng
2.1.1 Khái niệm về sự hài lòng của khách hàng và các yếu tố tác động đến sự
hài lòng của họ
2.1.1.1Khái niệm về sự hài lòng khách hàng:
Sự hài lòng khách hàng là một thuật ngữ nhận được rất nhiều sự quan tâm chú ý
của các học giả và những nhà quản trị bởi vì tầm quan trọng của nó như là một yếu tố
chính trong chiến lược kinh doanh và là mục tiêu trong mọi hoạt động kinh doanh đặc
biệt trong bối cảnh thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay.(Anderson, Fornell, and
Lehmann, 1994; Gro'nroos, 1984; Lovelock & Wirtz, 2007). Khái niệm này đã được rất
nhiều tác giả định nghĩa theo những cách khác nhau. “ Sự thỏa mãn – hài lòng là mức độ
của trạng thái cảm giác của một người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ việc
tiêu dùng sản phẩm/dịch vụ với những kỳ vọng của người đó” (Kotler & Keller, 2006 p.
144). Mức độ hài lòng phụ thuộc sự khác biệt giữa kết quả nhận được và kỳ vọng, nếu
kết quả thực tế thấp hơn kỳ vọng thì khách hàng không hài lòng, nếu kết quả thực tế
12
tương xứng với kỳ vọng thì khách hàng sẽ hài lòng, nếu kết quả thực tế cao hơn kỳ vọng
thì khách hàng rất hài lòng (Kotler, 2002).
Sự thỏa mãn là một khái niệm tâm lý liên quan đến cảm giác hạnh phúc và vui
vẻ, kết quả từ việc đạt được những gì mà người ta hy vọng và mong đợi từ một sản
phẩm/dịch vụ hấp dẫn.(WTO, 1985). Sự hài lòng khách hàng là sự đánh giá thái độ yêu
thích theo sau một hành động mua sắm hay một loạt những tương tác giữa sản phẩm và
người tiêu dùng. Youjae Yi (1990 cited in Lovelock & Wirtz 2007). Sự hài lòng khách
hàng là sự đánh giá sau khi mua của người tiêu dùng và là phản ứng tích cực đối với toàn
bộ sản phẩm hay sự trải nghiệm của một dịch vụ nào đó. (Oliver, 1992). Tiếp theo đó
vào năm 1997, Oliver cũng cho rằng: sự thỏa mãn là sự phản ứng của người tiêu dùng
đối với việc được đáp ứng những mong muốn. Định nghĩa này có hàm ý rằng sự thỏa
mãn chính là sự hài lòng của người tiêu dùng trong việc tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch
vụ do nó đáp ứng những mong muốn của họ, bao gồm cả mức độ đáp ứng trên mức
mong muốn và dưới mức mong muốn. Từ định nghĩa có thể thấy được sự hài lòng của
khách hàng phụ thuộc vào mức độ kỳ vọng của khách hàng.
Ngoài ra, còn có một vài định nghĩa khác: “Sự hài lòng đơn giản là kết quả của
những sự vật không bị sai lệch, thỏa mãn những nhu cầu và kỳ vọng của người tiêu
dùng”. (Besterfield 1994); Sự hài lòng khách hàng là sự đánh giá của khách hàng dựa
vào kinh nghiệm về sự mong đợi như thế nào về những phẩm chất cá nhân hay chức
năng toàn bộ của những dịch vụ có được từ nhà cung cấp đã thực hiện. (Bruhn, 2003).
Theo Gyasi và Azumah (2009) sự hài lòng là một quá trình đánh giá tổng thể chủ quan
của khách hàng dựa trên sự mong đợi và kỳ vọng của họ trong một khoảng thời gian nhất
định.
Đối tượng của sự hài lòng khách hàng cũng có thể thay đổi và liên quan đến
nhiều khía cạnh của sự trải nghiệm khác nhau với nhà cung cấp dịch vụ hay sản phẩm.
(Surenshchandar et al. 2002 cited in Satari, 2007). Trong khi hầu hết các định nghĩa liên
quan đến chất lượng sản phẩm hay sự cung cấp dịch vụ (Kotler & Keller, 2006;
www.theacsu.org), sự hài lòng khách hàng cũng có thể liên quan đến những khía cạnh
không liên quan đến chất lượng khác. (Singh 1991; Garland and Westbrook. 1989). Nó
có thể liên quan đến mối quan hệ kinh doanh đang diễn ra hay liên quan đến giá cả- hiệu
13
suất, sự hài lòng về thời gian giao hàng hay cung cấp dịch vụ hay sự trải nghiệm dịch vụ,
bối cảnh dịch vụ và sự hài lòng về danh tiếng và tầm nhìn của tổ chức /doanh nghiệp.
Ngay cả chất lượng sản phẩm hay dịch vụ cũng có thể có nhiều khía cạnh hay yếu tố ảnh
hưởng (Gro'nroos, 2000, 2001; Bo Edvardsson 2005), như là sản phẩm cung cấp cái gì,
độ tin cậy của sản phẩm/dịch vụ, thời gian sử dụng, sự thân thiện của nhà cung cấp dịch
vụ và ý thích. Vì thế, phụ thuộc vào mục đích khách hàng muốn đạt được điều gì khách
hàng có thể biểu hiện sự hài lòng khách hàng vào đối tượng quan tâm
Thoả mãn khách hàng là trạng thái cảm xúc đối với sản phẩm dịch vụ đã từng sử
dụng[Spreng at al.,1996]. Bachelet (1995) định nghĩa sự thỏa mãn của khách hàng là
một phản ứng mang tính cảm xúc của khách hàng đáp lại với kinh nghiệm của họ với
một sản phẩm hay dịch vụ. Một quan niệm khác cho rằng sự thỏa mãn của khách hàng là
sự đáp ứng của khách hàng về sản phẩm và dịch vụ. Nó được đánh giá thông qua mức độ
hứng thú, hài lòng với những sản phẩm, dịch vụ.
Theo tác giả Lê Thị Thúy trong luận văn Thạc sĩ về “sự hài lòng trong lĩnh vực
điện thoại di động tại Đà Nẵng” cho rằng: Sự hài lòng khách hàng trong lĩnh vực thông
tin di độn g đượ chiểu là phản ứng của người tiêu dùng dịch vu thông tin di động khi so
sánh kết quả tiêu dùng dịch vụ với những mong đợi của họ về dịch vụ của một nhà cung
cấp nào đó.
Tuy nhiên, đặc điểm khách hàng trong lĩnh vực viễn thông di động rất khác biệt so
với những ngành khác, cụ thể như sau:
- Số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ ngày càng tăng.
- Nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng rất đa dạng và phong phú.
- Hoạt động mua bán của khách hàng trên thị trường không bị giới hạn bởi yếu tố
không gian và thời gian.
- Mức độ tiêu dùng có sự chênh lệch giữa các nhóm khách hàng.
- Nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng luôn có tính đ ồng nhất.
14
2.1.1.2 Các yếu tố tác động đến sự hài lòng:
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng khách hàng có thể được tóm tắt như sau theo SR
EN ISO 9001:2008, Quality Management Systems, ASRO, Bucuresti, 2008:
+ Chất lượng sản phẩm.
+ Đóng gói sản phẩm.
+ Cam kết giao hàng.
+ Giá cả.
+ Trách nhiệm và khả năng sử lý khiếu nại.
+ Thái độ phục vụ, giao tiếp, cách tiếp cận.
Leonard Berry năm 2002 mở rộng nghiên cứu trước đây lên thành 10 thành tố
bao gồm: Chất lượng, gía trị, thời gian, hiệu quả, sự dễ dàng tiếp cận, môi trường, tính
tập thể trong các phòng ban, cách ứng xử của nhân viên dịch vụ tiền tuyến, cam kết đổi
mới. Các yếu tố mà Ông Berry đưa ra thường dùng để đánh giá đo lường sự hài lòng
khách hàng trong lĩnh vực dịch vụ.
Sự mong đợi của Khách Hàng
Khách hàng yêu cầu sản phẩm và dịch vụ phải có:
Chất lượng tốt, giao hàng đúng hẹn và đáp ứng sự hài lòng của họ, được thực
hiện bởi đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp mà không có sự can thiệp của các yếu tố an
toàn, sức khỏe hay môi trường.
Tuân thủ luật pháp và các qui định hiện hành. Hệ thống quản lý nội bộ của các
Công ty định nghĩa sâu xa hơn các yêu cầu khách hàng như là chỉ tiêu đánh giá được
phân loại dựa vào tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường, sức khỏe và an toàn và được đo
lường bằng những hệ thống quản lý chấm điểm cân bằng (Balanced Scorecard).
Các nghiên cứu thực tế đã chỉ ra rằng hai khái niệm chất lượng dịch vụ và thỏa
mãn khách hàng là khác biệt về mặt quan niệm [Bitner, 1990; Boulding, Kalra, Staelin,
& Zeithaml, 1993. Sureshchandar et al, (2002) qua kết quả nghiên cứu đã phát hiện ra
rằng giữa chất lượng dịch vụ và thỏa mãn khách hàng có một quan hệ mạnh. Các nghiên
15
cứu tiếp tục gần đây của Spreng & Mackoy (1996) đề cập đến quan hệ giữa chất lượng
dịch vụ và sự thỏa mãn bằng cách phát triển mô hình của Oliver et al (1992). Trong mô
hình này cùng với nhiều phần tử khác, thì chất lượng nhận thức là nguyên nhân (tiền tố)
dẫn đến sự thỏa mãn. Spreng & Mackoy (1996) chỉ ra rằng chất lượng dịch vụ dẫn đến
sự thỏa mãn. Bitner (1990) phát triển mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ và kết quả
thực nghiệm ủng hộ giả thuyết về ảnh hưởng của sự thỏa mãn lên chất lượng dịch vụ.
Bolton & Drew (1991) cũng đề nghị rằng sự thỏa mãn có liên quan đến chất lượng dịch
vụ. Trước đó, Woodside et al. (1989) ủng hộ mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng dịch
vụ và sự thỏa mãn bằng dữ liệu thu thập trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Kết quả từ các nghiên cứu ở trên đã chỉ ra rằng có mối quan hệ giữa chất lượng
sản phẩm, chất lượng dịch vụ với sự thỏa mãn của khách hàng. Nói một cách khác, chất
lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ là các thành phần quan trọng tạo nên sự thỏa mãn
của khách hàng. Giả thuyết được phát biểu như sau:
Chất lượng dịch vụ càng cao dẫn đến mức độ thỏa mãn cao của khách hàng càng
cao.
Sự thoả mãn khách hàng càng cao càng mang lại nhiều lợi ích cho nhà cung cấp
dịch vụ như: Nâng cao mức độ trung thành của khách hàng, ngăn ngừa khách hàng
chuyển sang sử dụng dịch vụ của nhà cung cấp khác, giảm sự nhậy cảm về giá, giảm chi
phí tiếp thị và chi phí tạo khách hàng mới, giảm chi phí quản lý nhờ quy mô số lượng
khách hàng tăng, cải thiện hiệu quả quảng cáo và nâng cao hình ảnh Công ty[Fornell,
1992]
Yếu tố cơ bản xác định sự thoả mãn của khách hàng là nhận thức chất lượng
dịch vụ của chính bản thân khách hàng.[Zeithamanl & Bitner, 1996].
Chất lượng dịch vụ:
Một số đặc điểm của dịch vụ (trích dẫn theo tác giả Phạm Đức Ký – 2008):
Hiện nay có nhiều các định nghĩa dịch vụ. Theo định nghĩa của Valarie A
Zeithaml & Mary J Bitner thì:“Dịch vụ là những hành vi, quá trình và việc thực hiện
những hành vi, quá trình này nhằm tạo ra giá trị sử dụng cho khách hàng, thỏa mãn nhu
cầu và mong đợi của khách hàng.”
16
+ Tính vô hình
Không giống như các sản phẩm vật chất (hữu hình) mang tính đồng nhất, có thể
cân, đong, đo đếm thử nghiệm hoặc kiểm định trước khi mua.Sản phẩm dịch vụ là sản
phẩm vô hình, chúng không đồng nhất với nhau, và cũng không tách ly chúng được,
nghĩa là chất lượng dịch vụ thể hiện trong quá trình tương tác giữa khách hàng và nhân
viên công ty cung cấp dịch vụ [Svensson 2002]. Do đặc điểm này mà khách hàng rất khó
biết trước sản phẩm dịch vụ mình sắp mua có chất lượng như thế nào. Đối với dịch điện
thoại di động cũng vậy, khách hàng không thể hình dung được chất lượng và dịch vụ mà
nhà mạng di động mang đến cho họ như thế nào mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng thì
khách hàng mới cảm nhận được.
+ Tính không thể tách rời
Tính không thể tách rời của dịch vụ được thể hiện ở sự khó khăn trong việc phân
biệt giữa việc tạo thành một dịch vụ và việc sử dụng dịch vụ như là hai công việc riêng
biệt. Một dịch vụ không thể tách làm hai giai đoạn: giai đoạn tạo thành và giai đoạn sử
dụng nó.
Sự tạo thành và sử dụng của hầu hết các dịch vụ diễn ra đồng thời với nhau.
Dịch vụ và hàng hóa không giống nhau ở chỗ: hàng hóa đầu tiên được sản xuất, đưa vào
kho, bán và sử dụng; còn dịch vụ được tạo ra, sử dụng trong suốt quá trình tạo ra dịch vụ
đó và khách hàng tham gia trong suốt hoặc một phần của quá trình dịch vụ. Điều này
phát sinh các vấn đề như sau:
Sự an toàn cho khách hàng: khách hàng do không được huấn luyện như nhân
viên, nên việc sắp xếp và thiết kế tiện ích hay trang thiết bị phải đảm bảo yếu tố an toàn
cho khách hàng.
Cơ sở vật chất: Việc trang trí nội thất, bố trí cơ sở vật chất phục vụ phải tạo sự
thuận lợi cho khách hàng.
Phong cách phục vụ: Cần thiết phải huấn luyện nhân viên có phong cách phục
vụ mang tính chuyên nghiệp và làm hài lòng khách hàng. Vì khách hàng tham gia trực
tiếp vào quá trình cung cấp dịch vụ, nên chỉ một lỗi nhỏ của nhân viên cũng có thể bị
phát hiện và làm ảnh hưởng đến kết quả của dịch vụ.
17
Không kiểm nghiệm trước: do sản xuất và tiêu thụ diễn ra đồng thời nên không
thể kiểm nghiệm trước dịch vụ được. Chỉ khi quá trình dịch vụ xảy ra rồi thì mới biết
được kết quả. Như vậy khả năng nhà cung cấp dịch vụ điều chỉnh quá trình cung cấp
dịch vụ bị hạn chế.
Khó đoán trước: do mỗi khách hàng có tính cách, hành xử và nhu cầu tăng giảm
khác nhau nên có thể dẫn đến nhiều bất ngờ không dự đoán được làm ảnh hưởng đến
việc quản lý lịch trình, công suất, năng lực phục vụ của nhà cung cấp dịch vụ. Do vậy
công tác thu thập thông tin, dự báo nhu cầu để thiết kế chương trình, chuẩn bị cơ sở vật
chất và huấn luyện nhân viên để ứng phó tốt những bất ngờ xảy ra là rất cần thiết.
Khách hàng có vai trò như nhân viên: cùng tham gia vào quá trình dịch vụ nên
khách hàng có thể thực hiện những việc mà đáng lẽ nhân viên phải làm. Ngoài ra khách
hàng còn đóng vai trò giám sát chất lượng khi tham gia vào quá trình.
Yếu tố thâm dụng lao động: Mức độ thâm dụng lao động của ngành dịch vụ luôn
cao so với ngành sản xuất.
Phán đoán chủ quan cao: Nhân viên phải tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên
phải sử dụng kỹ năng giao tiếp và sự phán đoán để làm thỏa mãn khách hàng.
Nhiều địa điểm tiếp xúc khách hàng: Nhà cung cấp dịch vụ phải có mạng lưới
phục vụ rộng khắp đảm bảo thuận tiện cho khách hàng khi giao dịch.
Kiểm tra quy trình: để đảm bảo chất lượng dịch vụ chỉ có thể kiểm tra trong quy
trình mà thôi, bởi vì khi quá trình dịch vụ xảy ra khó có thể can thiệp chỉnh sửa như
trong quá trình sản xuất.
+ Tính không đồng nhất
Tính không đồng nhất thể hiện ở sự khác nhau của các mức độ thực hiện dịch
vụ, có nghĩa là dịch vụ có thể được xếp hạng từ rất kém đến hoàn hảo.
Tính không đồng nhất liên quan đến sự biến thiên cao trong thực hiện dịch vụ.
Những vấn đề thiết yếu và chất lượng của một dịch vụ có thể thay đổi tùy theo người
phục vụ, khách hàng và thời gian. Đặc điểm này làm cho việc chuẩn hóa dịch vụ khó
thực hiện hơn.
18
+ Tính không thể tồn trữ
Dịch vụ không thể đem cất đi và sau đó lấy ra dùng. Nói cách khác ta không thể
tồn trữ dịch vụ được.Vì vậy một dịch vụ không thể được sản xuất tồn trữ và sau đó đem
bán.
2.1.2 Bản chất của các yếu tố tác động đến sự hài lòng của khách hàng
Muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật, hiện
tượng, quá trình thực tế vì lẽ rằng bản chất không tồn tại thuần túy mà tồn tại trong sự
vật và biểu hiện qua hiện tượng. Bản chất của sự vật không được biểu hiện đầy đủ trong
một hiện tượng nhất định nào và cũng biến đổi trong quá trình phát triển của sự vật. Do
vậy phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng
điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự vật. Nhận thức bản chất của sự vật là một
quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu
sắc hơn.
Trong nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức
được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự
vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng vì
bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động
phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động
phát triển của sự vật.
Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự
vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự
vận động phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà
phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải
dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không
được dựa vào hiện tượng. (trích từ nguồn từ điển bách khoa toàn thư Wikipedia)
Bản chất chính là mục đích để làm gì, của ai, đến từ đâu,…hay là làm sao để
phân biệt giũa sự vật, hiện tượng với những sự vật, hiện tượng khác.
19
Trong nghiên cứu này bản chất của các yếu tố ảnh hưởng sự hài lòng khách hàng
thực chất là sự tác động của các lực lượng bên trong và bên ngoài. Từ đó, chúng ta có thể
phân ra làm hai nhóm yếu tố khác nhau:
Thứ nhất là nhóm yếu tố bên ngoài không kiểm soát được ví dụ như yếu tố về
môi trường, yếu tố về cạnh tranh,hay những yếu tố từ bên ngoài khác.
Thứ hai là nhóm yếu tố từ bên trong mà nhà mạng có thể kiểm soát được.
Còn theo Philip Kolter chia các yếu tố tác động đến nhu cầu khách hàng làm hai
nhóm:
Nhóm thứ nhất: nhóm yếu tố hoạt động marketing. Là những yếu tố mà các tổ
chức/doanh nghiệp có thể thực hiện được, kiểm soát được, đó chính là 4 P: Sản phẩm
(Product), Giá cả (Price), Khuyến mãi (Promotion) và Kênh phân phối (Place) hay có thể
hiểu rộng ra là 7P: thêm vào 3P nữa: Con người (People), Qui trình (Process), Cơ sở vật
chất (Physical evidence).
Nhóm thứ hai: nhóm hoạt động không marketing. Chính là nhóm yếu tố về kinh
tế - văn hóa – xã hội hoặc pháp luật mà nhà kinh doanh không phải làm gì, nhưng phải
thích nghi với nó để đạt được mục tiêu đề ra.
Bản chất là tìm ra hướng tác động từ đâu và cái nào ta có thể làm ra được, có thể
tối ưu hóa sự hài lòng khách hàng. Cái nào không thể làm được thì ta thích nghi với nó.
Nói đến bản chất thì ta phải tìm cái nào tác động là chủ yếu và thuộc về nhóm
nào trong những phân định nêu trên và ta phải làm gì. Ta cũng xem xét bản chất sự tác
động là đến từ góc độ nào, tồn tại bao lâu, xem xét sự tác động đó được bao nhiêu lâu,
xem xu hướng của nó ngày càng mạnh lên như thế nào,…. Phân tích nhóm các yếu tố
nào là tức thời hay lâu dài đồng thời tìm ra thế lực nào đang gây ra sự tác động đó. Từ
đó, chúng ta phải có những hành động cốt yếu và chiếc lược để nâng cao hiệu quả kinh
doanh trong thời kỳ cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Hiểu bản chất là hiểu được tầm quan trọng và vị trí của nó trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Vì thế công trình nghiên cứu của tôi xem xét khái quát thực chất là nó
hành động gì, của ai, tầm cỡ như thế nào và làm để làm gì, xem cái gì tác động, lực
20
lượng nào tác động và doanh nghiệp phải thích nghi với nó trong hoạt động marketing.
Lâu nay, các công trình nghiên cứu trước đã không khái quát được điều này.
2.1.3 Vai trò của các yếu tố tác động đến sự hài lòng của khách hàng
Sự hài lòng khách hàng có vai trò tác động đối với mục tiêu, chiến lược phát
triển của doanh nghiệp và tổ chức. Việc thỏa mãn khách hàng trở thành tài sản quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ, giữ vững sự trung thành, nâng cao năng
lực cạnh tranh của tổ chức, doanh nghiệp. Khách hàng được thỏa mãn là yếu tố quan
trọng để duy trì được sự thành công lâu dài trong kinh doanh và các chiến lược kinh
doanh phù hợp nhằm thu hút và duy trì khách hàng (Zeithaml & ctg 1996)
Các báo cáo hàng năm (2000-2006) của J.D Power & Associates đánh giá về
mức độ thoả mãn của khách hàng đối với các nhà cung cấp dịch vụ di động tại Anh,
Nhật, Singapore,… đều đánh giá chất lượng dịch vụ dựa trên các yếu tố tương tự như
sau:
Bảng 2.1 Tổng kết các thành phần chất lượng dịch vụ.
YẾU
ANH
TỐ
NHẬT
SINGAPORE
Chất lượng cuộc gọi
Chất lượng cuộc gọi Chất lượng cuộc gọi
Vùng phủ sóng
Vùng phủ sóng
Vùng phủ sóng
2
Hình ảnh
Hình ảnh Công ty
Hình ảnh/Tin cậy
3
Chi phí
Chi phí
Chi phí hàng tháng
4
Máy đầu cuối
Máy đầu cuối
5
Khuyến mãi/quà tặng
6
Hóa đơn cước
7
Dịch vụ khách hàng
1
8
Hóa đơn cước
Dịch vụ gia tăng
9
10
Dịch vụ gia tăng
Chi phí ban đầu (hòa mạng)
Giao tiếp khách hàng
- Xem thêm -