Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu các giải pháp tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại tổng cục ii bộ ...

Tài liệu Nghiên cứu các giải pháp tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại tổng cục ii bộ quốc phòng

.PDF
100
283
95

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRẦN THU THỦY NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRẦN THU THỦY NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Hà Văn Đức Hà Nội - 2014 2 LỜI CAM ĐOAN Ngoài sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Hà Văn Đức, để hoàn thành luận văn này, tất cả ý tưởng, đề tài và nội dung chính của luận văn là do sự nghiên cứu nghiêm túc của tôi. Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi có sử dụng các tư liệu tham khảo liên quan đến vấn đề nghiên cứu của mình nhưng chỉ để gợi mở cho tôi các ý tưởng nghiên cứu cũng như tăng thêm tính thuyết phục cho những lập luận của để tài thêm chặt chẽ. Khi sử dụng một số trích đoạn, chúng tôi có chú thích một cách cụ thể và rõ ràng. Kết quả nghiên cứu này không trùng khít với bất kì công trình nghiên cứu nào được công bố trước đó. Tôi xin cam đoan những điều này là sự thật. Nếu có vấn đề gì sai phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Học viên Trần Thu Thủy 3 LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu cũng như hoàn thành luận văn này, cùng với những nỗ lực của bản thân là sự giúp đỡ, động viên của các thầy giáo, cô giáo, gia đình và bạn bè. Lời đầu tiên cho tôi gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo trong khoa Văn học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội. Đặc biệt, tôi muốn gửi lời tri ân sâu sắc nhất đến PGS.TS. Hà Văn Đức, người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho tôi để hoàn thành luận văn Thạc sĩ này. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ và chia sẻ với tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Một lẫn nữa tôi xin cảm ơn tất cả mọi người đã dành cho tôi điểm tựa và động lực về mặt tinh thần để tôi hoàn thành luận văn Thạc sĩ này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2014 Học viên Trần Thu Thủy 4 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................7 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................7 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................8 3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu ....................................................15 4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................15 5. Cấu trúc luận văn ...............................................................................................16 CHƢƠNG 1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN ...17 1.1. Người kể chuyện và các hình thức người kể chuyện trong tác phẩm tự sự ...17 1.1.1. Khái lược về Người kể chuyện trong tác phẩm tự sự ...............................17 1.1.2. Các hình thức xuất hiện của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự .......20 1.1.2.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất với phương thức trần thuật chủ quan hóa 21 1.1.2.2. Người kể chuyện ngôi thứ ba với phương thức trần thuật khách quan – chủ quan hóa ................................................................................................22 1.2. Người kể chuyện trong truyện ngắn của Kim Lân .........................................24 1.2.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất với phương thức trần thuật chủ quan hóa trong truyện ngắn Kim Lân ................................................................................24 1.2.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất với vai trò là người dẫn chuyện................. 24 1.2.1.2.Người kể chuyện ngôi thứ nhất với vai trò vừa là người dẫn chuyện vừa là một nhân vật .........................................................................................28 1.2.2. Người kể chuyện ngôi thứ ba trong truyện ngắn Kim Lân .......................32 1.2.2.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba với phương thức trần thuật khách quan hóa ....... 33 1.2.2.2. Người kể chuyện ngôi thứ ba theo phương thức trần thuật chủ quan hóa .35 1.2.2.3. Những truyện ngắn mang dấu ấn tự truyện của Kim Lân với sự đồng hành của người kể chuyện ngôi thứ ba ...........................................................37 Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................41 CHƢƠNG 2. KẾT CẤU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN .44 2.1. Khái lược về kết cấu trần thuật trong tác phẩm tự sự .....................................44 2.2. Các hình thức kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân ........................45 5 2.2.1. Dạng kết cấu trần thuật theo trình tự thời gian trong truyện ngắn Kim Lân ....47 2.2.2. Dạng kết cấu gấp khúc thời gian trần thuật.............................................53 2.2.3. Dạng kết cấu trần thuật theo dòng tâm trạng nhân vật ...........................59 2.2.4. Dạng kết cấu trần thuật trùng phức mạch truyện ....................................65 Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................69 CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN ..................................................................................71 3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân ...........................................71 3.1.1. Khái lược về ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm tự sự ..........................71 3.1.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân ....................................72 3.1.2.1. Sự thâm nhập của ngôn ngữ đời sống vào trần thuật ........................73 3.1.2.2. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình ..............................................................75 3.1.2.3. Câu văn ngắn gọn, mộc mạc ..............................................................81 3.2. Giọng điệu trần thuật ......................................................................................82 3.2.1. Giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự.............................................82 3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân ..................................85 3.2.2.1. Giọng điệu trữ tình sâu lắng ..............................................................85 3.2.2.2. Giọng điệu dân dã, tự nhiên ..............................................................89 3.2.2.3. Sự gặp gỡ tự nhiên của giọng điệu người kể chuyện và giọng điệu nhân vật qua lời nửa trực tiếp tự do ...............................................................92 Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................94 KẾT LUẬN ..............................................................................................................95 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................98 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Xuất phát từ niềm yêu thích nghệ thuật tuồng nên ông đã lấy tên nhân vật tuồng Kim Lân trở thành bút danh của mình từ những năm bốn mươi của thế kỉ trước. Kim Lân có một đời sống riêng thua thiệt, ông là con của người vợ thứ ba trong một gia đình bình thường, bị mọi người trong gia đình rẻ rúm. Do điều kiện khó khăn, Kim Lân chỉ học hết bậc Tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, thợ sơn mài, khắc tranh bình phong vừa viết văn. Kim Lân đến với văn học xuất phát từ lòng say mê, ham thích. Hơn nữa, động lực đến với sáng tạo văn chương nghệ thuật của ông được bắt nguồn từ ý chí vượt lên số phận, “đòi cho mình một thân phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống bé nhỏ quẩn quanh của quê hương” [34, tr.15]. Kim Lân bắt đầu sự nghiệp bằng truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ đăng trên báo Trung Bắc chủ nhật năm 1942, một tác phẩm mang tính tự truyện. Trong những năm 1941 đến năm 1944, ông viết khá đều tay và đăng chủ yếu trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Ở giai đoạn sáng tác này, ý thức trách nhiệm của nhà văn đối với Kim Lân còn mơ hồ nên những tác phẩm của ông thường viết về bản thân và cái mình thích. Tuy nhiên, với tấm lòng của người “vốn là con đẻ của đồng ruộng”, Kim Lân đã hướng ngòi bút vào khung cảnh làng quê với cuộc sống và số phận của người nông dân nghèo khổ, lam lũ, từ đó toát lên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Bên cạnh đó, một số tác phẩm của ông như: Đuổi tà, Ông Cản Ngũ, Đôi chim thành, Con Mã Mái, Cầu đánh vật…đã tái hiện những sinh hoạt phong phú ở vùng thôn quê, thể hiện vốn hiểu biết tường tận, sự trân trọng của nhà văn với những giá trị văn hóa truyền thống. Sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân ý thức hơn về trách nhiệm của mình đối với cuộc sống và xã hội, ông tiếp tục viết về làng quê Việt Nam, tiếp tục viết về những cảnh đời khốn khó, tội nghiệp, nhưng hơn hết là sự đổi đời của người nông dân nhờ cách mạng. Kim Lân đã sáng tạo ra những tác phầm có giá trị như Làng, Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Vợ nhặt,… với những 7 thay đổi tình cảm, nhận thức, sự đổi đời của người nông dân trong cải cách ruộng đất và tham gia hoạt động cách mạng. Truyện ngắn là một thể loại thuộc phương thức tự sự. Về phương diện nội dung, nó được xem là một lát cắt ngang của cuộc sống. Với dung lượng nhỏ, thể loại này là sự kết tinh cao của ngôn từ. Cách kể chuyện trong truyện ngắn khác so với tiểu thuyết bởi tính cô đọng, súc tích của đặc trưng thể loại. Dung lượng ngắn là một thế mạnh đồng thời cũng đòi hỏi những sáng tạo của nhà văn, nhất là sáng tạo trong nghệ thuật trần thuật đảm bảo cho sự hấp dẫn và tác động mạnh mẽ của truyện ngắn. Vì vậy, tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn qua tác phẩm của những nhà văn thành công là hướng đi có nhiều ý nghĩa. Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và là cây bút viết truyện ngắn vững vàng. Trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân viết không nhiều nhưng ở giai đoạn nào ông cũng có tác phẩm hay. Như lời nhận xét độc đáo, sắc sảo về truyện ngắn Kim Lân của nhà văn Trung Trung Đỉnh: “Những truyện ngắn Kim Lân thì quả là đặc sắc, tinh vi, ranh mãnh, dồn nén và cả đáo để nữa” [34, tr.645]. Chính vì vậy, truyện ngắn của Kim Lân luôn hấp dẫn và thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân đòi hỏi được xem xét trên tinh thần khoa học và toàn diện hơn để hiểu rõ tài năng và đóng góp của nhà văn trong tiến trình hiện đại hóa văn xuôi nghệ thuật tiếng Việt. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Kim Lân là nhà văn gần gũi, quen thuộc với công chúng trong nhiều thập kỉ qua. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Kim Lân chưa nhiều. Hơn nữa các công trình nghiên cứu về nghệ thuật truyện ngắn của Kim Lân đã được công bố cũng chỉ ở mức độ riêng lẻ, chưa tập trung và hệ thống. Trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi sẽ hệ thống những ý kiến nổi bật, những nhận định quan trọng liên quan đến đề tài. 8 2.1. Đánh giá về phong cách nghệ thuật và giá trị chủ đề tư tưởng của truyện ngắn Kim Lân Nhà văn Nguyên Hồng đã rất chính xác khi đánh giá về phương diện nội dung và mối quan hệ giữa tác phẩm và hiện thực trong văn chương Kim Lân: “Từ giữa những năm 1943 – 1944 ấy, tôi được đọc mấy truyện của Kim Lân. Thoạt tiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân chương chướng thế nào ấy… Nhưng rồi, chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại ướt át một cách hợm hãi, trái lại nó có cái gì chân chất của đời sống và con người nghèo hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung cảm thắm thiết, đặc biệt là lại gần gũi với mình…” [16, tr.10]. Đây có thể xem là ý kiến rất đáng chú ý khi tìm hiểu phong cách nghệ thuật của Kim Lân về nội dung tư tưởng và giọng điệu tác phẩm. Cũng gần với quan điểm trên của nhà văn Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra nhận xét: “Đọc văn xuôi Kim Lân, ta bắt gặp cái thế giới của những người thường dân nghèo khổ vốn là hạng “hạ lưu” ở xã hội cũ: Những người nông dân miền xuôi mất nhà mất đất xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một xóm chợ bến sông, một góc phố núi hay ven một đồn điền, một xóm trại, tiếp tục vật lộn với miếng sống sơ đẳng hàng ngày. Đã có lúc nhà văn gọi những nhân vật thân thuộc ấy của ngòi bút mình là “những đầu thừa đuôi thẹo ở khắp xó xỉnh cuộc sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh danh đầy đau xót của chính các nhân vật ấy (…) Mạch kể chuyện của Kim Lân dường như bắt rất nhạy vào những cảnh thương tâm: cảnh bỏ nhà xiêu dạt vì công nợ, thuế khóa, cảnh ăn xin, cảnh chết đường chết chợ, cảnh bị áp bức đọa đầy,…” [2, tr.56]. Thực vậy, ở những tác phẩm đầu tay, Kim Lân dường như chưa ý thức phản ánh một vấn đề gì có ý nghĩa hiện thực sâu sắc cả nhưng chất hiện thực cứ toát ra một cách tự nhiên từ những hình tượng nhân vật của ông, vì đó thường là những con người của quê hương ông, ruột thịt với ông, từ cuộc sống lam lũ bần cùng, họ đã trực tiếp bước vào những sáng tác của ông. Năm 1991, Trần Ninh Hồ đưa ra ý kiến nhận xét, đánh giá về truyện ngắn của Kim Lân: “Tuy tầm vóc, vị trí của mỗi nhà văn một khác, nhwng Kim Lân cũng 9 là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người rất khó diễn đạt thành lời ấy (…) Năm mươi năm, một nửa thế kỉ cầm bút mà chỉ vẻn vẹn có chừng ngót chục truyện ngắn thì quả là ít ỏi. Nhưng cũng kỳ lạ thay, mỗi khi lần mở những trang văn ít ỏi ấy, ta lại cảm thấy có một bước ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong gần nửa thế kỉ qua mà Kim Lân không đar động tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn là: truyện ngắn.” [36, tr.106-107]. Năm 1996 trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên có trích dẫn ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, Lữ Quốc Văn và Nguyễn Đăng Mạnh: “Hình như những mẫu người ddầu thừa đuôi thẹo ấy đã gửi một đại diện của họ vào văn học và Kim Lân đã làm việc này một cách đàng hoàng chững chạc” [34, tr.16]. Đó là những trang số phận của các đầu thừa đuôi thẹo, được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt trang giấy trắng chất chứa nhân thế, nhân tình hoặc những trang tuy nghiêng về nhiều phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh…, nhưng vẫn biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của một người nông dân trước cách mạng – những người sống vất vả, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh, tài hoa” [34, tr.18]. “Kim Lân là một nhà tiểu thuyết phong tục hạng nhất của Việt Nam” [34, tr.18-19]. Ở ba ý kiến trên, các nhà nghiên cứu đã rất tinh tế khái quát đặc điểm về nội dung trong truyện ngắn của Kim Lân. Từ các ý kiến này, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên bổ sung và nhấn mạnh: “Tuy nhiên nếu có dịp đọc lại các tác phẩm của Kim Lân mà chủ yếu là truyện ngắn, ta sẽ thấy ông không phải chỉ là đại diện văn học của loại nhân vật đầu thừa đuôi thẹo, ông còn là đại diện văn học sáng giá của những lớp người tài hoa, bặt thiệp, phong lưu riêng thú, chọi gà, thả chim, đấu võ, đánh vật…” [32, tr.16]. Cùng thống nhất với các quan điểm trên, nhà nghiên cứu Hoài Việt đưa ra nhận xét về hai đề tài chính trong truyện ngắn của Kim Lân: “Chính cái vốn sống phong phú của ông đã dẫn ông tới với hai đề tài chủ yếu trong nghiệp văn của ông: - Số phận những người thấp cổ bé họng trong xã hội cũ. 10 - Phong tục tập quán, những thú vui, trò chơi nơi thôn dã.” [47, tr.88] - Ngoài ý kiến về hai đề tài chủ yếu trong truyện ngắn của Kim Lân, nhà nghiên cứu Hoài Việt còn chỉ ra nguồn gốc thành công của Kim Lân là ở cái tâm và cái tài. Cái tâm của ông là lòng thương xót con người hay con vật, là sự chân thật, thẳng thắn, ghét sự khuất tất, ám muội. Cái “tài là con mắt nhìn, cái óc nghĩ, cây bút viết ra” [47, tr.89]. Sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân tìm thấy nguồn cảm hứng mới, ý thức hơn về trách nhiệm của một nhà văn cách mạng: “Sau cách mạng tháng tám, ngòi bút Kim Lân tập trung vào phương diện xã hội chính trị, của đời sống nông dân gắn liền với vận mệnh đất nước. Về đề tài này, Làng và Vợ nhặt xứng đáng được xem là những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại” [28, tr.49]. Khi bàn về nội dung truyện ngắn Kim Lân ở giai đoạn sau cách mạng tháng tám, Lại Nguyên Ân là một trong những người viết nhiều về Kim Lân đã cho rằng “Do chỗ tập trung miêu tả người nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ, cho nên ở hầu hết truyện ngắn của ông, Kim Lân chưa chú trọng khám phá óc tư hữu của họ. Nét tâm lý căn bản này, chỉ cần bước vào thời kỳ đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là lập tức bộc lộ rõ rệt. Nhà văn đã thấy ngay nét đó: ở ông cả Luốn gốc me trong truyện ngắn cùng tên, nhà văn đã khá tinh tế nhận thấy có một tương quan nào đó giữa gia trưởng và óc tư hữu trong tâm lý người nông dân này (…). Đasng tiếc là những tâm lý ứng xử như vậy của người nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đã không được Kim Lân tiếp tục phân tích và thể hiện nữa trong văn xuôi của ông: giữa những năm sáu mươi về sau, hầu như ông đã thôi không sáng tác nữa” [2, tr.58-59] Đọc truyện ngắn Kim Lân, người đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi những tố chất và vẻ đẹp dung dị, kín đáo của con người làng quê Bắc bộ - những con người lịch lãm, hào hoa và đầy tinh thần thượng võ. Đặc biệt là cái thú “phong lưu đồng ruộng” trong văn ông vừa có nét tinh tế, lại vừa thật thà, cởi mở qua đôi mắt nhìn rất kỹ, quan sát cuộc sống nông thôn một cách say sưa, tỉ mỉ, cụ thể rồi ghi lại với ý thức thể hiện những mảnh đời, những số phận bằng lối diễn đạt của chính mình – 11 lối diễn đạt đậm “chất quê” của một con người “vốn là con đẻ của đồng ruộng” (lời của Nguyên Hồng). 2.2. Đánh giá về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân 2.2.1. Về nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kết cấu truyện ngắn Kim Lân Năm 1986, trong bài Văn xuôi Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra nhận định: “Có lẽ do số lượng tác phẩm không nhiều nên truyện ngắn Kim Lân cũng không thật đa dạng về các kiểu cấu tứ. Bằng vào hai tập “Vợ nhặt” và “Nên vợ nên chồng”, có thể kể được khoảng ba kiểu truyện chính. Kiểu phổ biến hơn cả có thế gọi là những truyện ngắn tính cách. Nhiệm vụ nghệ thuật mà nhà văn vẽ ra ở đó là vẽ ra một con người (…) Diễn biến của truyện không nhằm khám phá một nét tính cách nào của một trong số các nhân vật. Cái được chủ yếu ở đây là miêu tả một tình thương. Đây có thể gọi là ước lệ là truyện ngắn tình huống (…) Có một kiểu truyện nữa mà Kim Lân viết rất ít. Tôi muốn nói truyện ngắn “Con chó xấu xí” từng được đặt làm cái tên chung cho tập truyện “Vợ nhặt” hồi in lần đầu thành sách. Đây là truyện có hơi hướng ngụ ý” [2, tr.59-61]. Ở ý kiến này, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân chia truyện ngắn Kim Lân thành ba loại: truyện ngắn tính cách, truyện ngắn tình huống và truyện ngắn ngụ ý. Năm 1996 trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên đã mượn lời của nhà nghiên cứu Nguyên An để đánh giá về truyện ngắn của Kim Lân “ông là một nhà văn kỹ lưỡng, tinh tế trong việc lựa chọn chi tiết, kỳ khu và tài hoa trong việc lựa chọn ngôn từ, hình ảnh. Vì thế mà Nguyễn Khải coi ông là một bậc thầy để noi theo” [34, tr.18]. Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Theo nhận xét của Hà Minh Đức, Kim Lân “là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều nhưng sáng tác của ông đã gây được ấn tượng với người đọc” [7, tr.31]. 2.2.2. Về ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Kim Lân Cũng trong bài viết Văn xuôi Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân còn đưa ra nhận xét về ngôn ngữ và chất giọng trong văn xuôi Kim Lân: “Chất giọng 12 thường xuyên trong truyện ngắn của Kim Lân là chất giọng thực sự văn xuôi. Nó không thích hướng vào chất trữ tình, không thích rống lên thống thiết. Nó thích phô bày cái nôm na thật thà, đáng yêu nhưng cũng đáng tức cười của những sự thật xung quanh chứ không thích phủ lên các sự thật ấy một sự cảm động đến rưng rưng.” [2, tr.59-61]. Năm 1997 trong bài Sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc của truyện Kim Lân, tác giả Bảo Nguyên cũng cùng quan điểm với các nhà nghiên cứu khác, khi chỉ ra thành công của truyện ngắn Kim Lân ở các phương diện sử dụng ngữ âm và từ vựng: “Kim Lân đã dùng hàng loạt từ láy: xác xơ, heo hút, ngăn ngắt, úp súp, sù sì, dặt dờ, thê thiết (…) Từ láy đã góp phần tích cực tạo ra âm điệu trầm, nhịp ngôn ngữ chậm, có tác dụng nhấn mạnh những đặc tính cần miêu tả (…) Ông lựa chọn những từ ngữ còn mang hơi thở của cuộc sống hàng ngày, để diễn đạt chúng đúng cái cuộc sống miền quê với những con người quê giản dị và đáng yêu (…) Trong việc sử dụng từ ngữ, Kim Lân đặc biệt chú ý những thành ngữ, những từ đệm vốn là những từ ngữ cửa miệng của người dân: “giời đất cha mẹ ơi”, “cụ bảo thì là dân ta”, “dầu bây giờ đắt gớm” (…) Những từ ngữ này đặt đúng hoàn cảnh đã tạo ra tác dụng vừa khắc họa tính cách nhân vật vừa gợi nên nét đời thường rất phù hợp với cuộc sống miền quê” [31, tr.230-231]. Điều đó có lẽ đã làm cho tác phẩm của Kim Lân mang giá trị hiện thực và tạo cho ông một phong cách rất riêng về bố cục, kết cấu giọng điệu, ngôn ngữ, cách tả người, tả việc,… Tác giả Bảo Nguyên còn rất tinh tế khi bổ sung thêm: Giọng văn chủ đạo của ông thường trầm sáng như giọng ca dao cổ tích. Nhịp văn của ông chậm gọn… đó là một thứ giọng đệm phù hợp với quang cảnh nông thôn với văn minh nông nghiệp (…). Yêu thương ca ngợi là nét giọng chủ đạo trong các truyện ngắn Kim Lân. Song ở mỗi truyện, ở mỗi hoàn cảnh, ở mỗi nhân vật trong từng điều kiện Kim Lân sử dụng các giọng khác nhau để miêu tả. Giọng phẫn uất lẫn mỉa mai trong “Con 13 chó xấu xí”, giọng cảm thông lẫn kính phục trong “Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng vật” [31, tr.232]. Trong các truyện tâm lý xã hội của Kim Lân ta thường bắt gặp một giọng kể giản dị, độc đáo, tác giả Bảo Nguyên đã đưa ra kết luận khái quát: “Ngữ âm từ vựng, giọng điệu được bàn tay nhà nghệ sĩ tài ba Kim Lân đã sắp đặt tạo ra một thứ ngôn từ mang đậm chất “văn xuôi”. Đó là một đóa hoa tạo nên sức hút ban đầu cho các độc giả. Đó là phong cách giản dị độc đáo của Kim Lân” [31, tr.232]. Đây có thể xem là một ý kiến rất đáng chú ý khi tìm hiểu phong cách nghệ thuật của Kim Lân về nội dung tư tưởng và giọng điệu tác phẩm. Nhận định chung: Các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Kim Lân được thực hiện ở các phương diện và mức độ khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu và tác giả đều thống nhất ở những khía cạnh sau: - Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. - Thế giới nghệ thuật của Kim Lân tập trung ở khung cảnh làng quê cùng với cuộc sống, thân phận người dân quê, ông viết rất hay về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. - Trong các truyện ngắn, Kim Lân thể hiện rất rõ cái tôi giàu lòng nhân ái, trân trọng và ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động nghèo. - Kim Lân là nhà văn kỹ lưỡng tinh tế trong việc lựa chọn chi tiết và tài hoa trong việc lựa chọn ngôn ngữ, hình ảnh. - Truyện Kim Lân thường ít hành động và vai trò của cốt truyện là vai trò thứ yếu, Kim Lân là một nhà văn thành công trong việc dùng “chi tiết lấn át cốt truyện, chi tiết thể hiện một cách tinh tế nhất và rõ ràng nhất tính cách nhân vật cũng như hoàn cảnh sống của nhân vật”, ông đi sâu diễn tả tâm tư, ý nghĩ, cảm xúc của nhân vật khá tinh tế. Nhìn chung các bài viết, các chuyên luận, các công trình nghiên cứu đã nêu, dù khác nhau về góc nhìn, về quy mô nghiên cứu, trực tiếp hay không trực tiếp đều đã góp một tiếng nói có ý nghĩa cho việc nghiên cứu phong cách nghệ thuật cũng 14 như thi pháp truyện ngắn Kim Lân. Đó là cơ sở khoa học để chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân. Tiếp thu những thành tựu của những người đi trước, chúng tôi muốn tiếp tục đi sâu tìm hiểu một cách trực diện, hệ thống và khái quát về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của tác giả văn học này. 3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân 3.2. Phạm vi nghiên cứu Để hoàn thành đề tài luận văn, chúng tôi đã khảo sát và nghiên cứu truyện ngắn Kim Lân sang tác trước và sau cách mạng tháng tám 1945. Bên cạnh đó, chúng tôi còn tiếp thu có chọn lọc những ý kiến của chính tác giả Kim Lân về tác phẩm và những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học về truyện ngắn của Kim Lân đã được công bố để đảm bảo tính khách quan và khoa học cho luận văn. 3.3. Mục đích nghiên cứu Luận văn hướng tới mục đích là đưa ra được những nhận định, kết luận mang tính khái quát về đặc điểm của nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp hệ thống Hệ thống các tác phẩm của Kim Lân để rút ra những vấn đề có tính quy luật, tính hệ thống, từ đó phân tích để khái quát thành đặc điểm về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân. Hệ thống những tác phẩm của những tác giả cùng thời để nghiên cứu truyện ngắn Kim Lân trong mối tương quan với các nhà văn và xu hướng sáng tác chung của văn học cùng thời Kim Lân. 4.2. Phương pháp so sánh Phương pháp này nhằm làm rõ những nét đặc trưng khác biệt của nghệ thuật trần thuật Kim Lân so với các tác giả khác (so sánh lịch đại, so sánh đồng đại). 15 4.3. Phương pháp thống kê, phân loại Phương pháp này giúp chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ các truyện ngắn và thống kê phân loại theo phương thức trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật,… 4.4. Phương pháp loại hình Để có thể xác lập được những luận điểm, những nhận định có sức thuyết phục, chúng tôi chú ý đến phương pháp loại hình để phân loại, thống kê các số liệu cụ thể một cách có hệ thống và đảm bảo tính khoa học, phục vụ cho đề tài nghiên cứu. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được triển khai phần nội dung thành ba chương: Chương 1: Người kể chuyện trong truyện ngắn Kim Lân Chương 2: Kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân 16 CHƢƠNG 1 NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN 1.1. Ngƣời kể chuyện và các hình thức ngƣời kể chuyện trong tác phẩm tự sự 1.1.1. Khái lược về Người kể chuyện trong tác phẩm tự sự Trong văn tự sự, khái niệm người kể chuyện còn được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác như: người trần thuật, người thuật chuyện, chủ thể trần thuật, chủ thể kể chuyện, kẻ mang thông điệp,… Trong luận văn, chúng tôi thống nhất chọn dùng tên gọi người kể chuyện. Trong tác phẩm tự sự, trần thuật bao giờ cũng được tiến hành bởi một người nào đó và với một tư thế nào đó. Người kể chuyện đóng vai trò giới thiệu, miêu tả, thuyết minh đối với sự kiện, nhân vật theo cách nhìn của người kể chuyện để định hướng, cắt nghĩa, “mách nước” cho người đọc. Do đó, trong tác phẩm tự sự, hình tượng người kể chuyện không chỉ tái hiện cái được kể mà còn tái hiện người kể. Trước đây, khái niệm người kể chuyện thường bị bỏ qua, người đọc chỉ chú ý vào nhân vật, các sự kiện, biến cố, các biện pháp tu từ,… Còn trong trần thuật học hiện nay, người đọc hiện đại hướng sự quan tâm nhiều hơn đến việc nhà văn nói gì và nói như thế nào, quan tâm nhiều hơn đến cách kể chuyện của tác phẩm, cách nhìn nhận và đánh giá thế giới khách quan của nhà văn. Bởi vậy mà nghệ thuật trần thuật (bao gồm tất cả các phương tiện mà người nghệ sĩ sử dụng để viết lên tác phẩm như người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu,…) đã trở thành một con đường để độc giả đi tìm ý nghĩa nội dung tư tưởng mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Và thuật ngữ người kể chuyện mới thực sự được chú ý. Trong thể loại tự sự, người kể chuyện (Narrator) là một khái niệm trung tâm của lý thuyết tự sự học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, người kể chuyện là “một nhân vật hư cấu hoặc có thật mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo thành (…) nó bị trừu tượng hóa đi, trở thành một nhân vật hoặc ẩn hoặc hiện trong tác phẩm tự sự” [8, tr.211-212]. Theo định nghĩa trên, người kể chuyện là một hình tượng do nhà văn sáng tạo ra trong tác phẩm để thay mình làm nhiệm vụ 17 kể lại một câu chuyện hay một sự việc nào đó. Và văn bản tự sự chính là sản phẩm ngôn từ do hoạt động ngôn ngữ của nhân vật người kể chuyện này xây dựng nên. Người kể chuyện có thể lộ diện hoặc ẩn tàng trong quá trình hoạt động ngôn ngữ. Các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học, còn đưa ra nhận định phủ nhận quan điểm đồng nhất người kể chuyện và tác giả trước đây bằng sự khẳng định: “Trong kể miệng, người kể chuyện là một người sống sinh động. Trong trần thuật viết phi văn học, người kể chuyện nói chung đồng nhất với tác giả. Nhưng trong tác phẩm trần thuật mang tính chất văn học thì người trần thuật lại khác, nó bị trừu tượng hóa đi, trở thành một nhân vật ẩn hoặc hiện trong tác phẩm tự sự” [8, tr.223]. Đồng quan điểm này, Trần Đình Sử cho rằng: “tác giả không bao giờ hiện diện trong tác phẩm như một người kể, người phát ngôn (…). Tác giả thực sự xuất hiện chỉ như người ghi, người sao lục lời kể, hoặc là người nghe trộm người kể. Người trần thuật là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể. Và hành vi trần thuật là hành vi của người trần thuật đó mà sản phẩm là văn bản tự sự” [37, tr.7]. Tác giả Lại Nguyên Ân với sự khẳng định vai trò cầu nối và dẫn dắt, chứng kiến và giải thích câu chuyện của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự đã đưa ra định nghĩa: “Trần thuật tự sự được dẫn dắt bởi một ngôi được gọi là người trần thuật – một loại trung giới giữa cái được miêu tả và thính giả (độc giả), loại người chứng kiến và giải thích về những gì đã xảy ra” [3, tr.360]. Đây chính là những dấu hiệu cơ bản nhất để nhận diện người kể chuyện trong các sáng tác tự sự từ xưa đến nay. Còn theo nhà nghiên cứu Ngô Tự Lập thì người kể chuyện có vai trò như một “kẻ mang thông điệp” chuyển tải những thông điệp từ người phát ngôn đến người nhận: “Các thông điệp của một văn bản bao giờ cũng được chuyển đi, trực tiếp hoặc gián tiếp, nhờ một hay một vài phát ngôn viên (speaker hoặc narrator), mà tôi gọi là kẻ mang thông điệp: một người sĩ quan ra mệnh lệnh (…). Những kẻ mang thông điệp có thể có thật hoặc hư cấu” [48, tr.178]. Với một quan điểm rộng dựa trên nền của lý thuyết hội thoại, tác giả của Văn chương như là quá trình dụng điển đã xác định được vai trò quan trọng của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự: cầu nối trung gian giữa tác giả, tác phẩm và người đọc. Thêm vào đó ông còn nhấn 18 mạnh “chính đặc điểm và mối quan hệ giữa thông điệp và kẻ mang thông điệp là cái quyết định tính chất của văn bản” [48, tr.178] và “trong truyện, thông điệp mang tính chất khái quát, và kẻ mang thông điệp là những nhân vật hư cấu” [48, tr.180]. Quan điểm này thống nhất với các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học. Tác giả Lê Ngọc Trà đưa ra một quan niệm ngắn gọn về người kể chuyện: “Người kể chuyện là chủ thể của lời kể chuyện, là người đứng ra kể trong tác phẩm văn học” [44, tr.89]. Ở đây, định nghĩa đã nêu bật được vai trò đặc trưng mang tính chức năng của người kể chuyện, dựa trên mối quan hệ giữa người kể chuyện và lời kể trong tác phẩm tự sự. Còn với Huỳnh Như Phương, khái niệm này được hiểu dưới hình thức diễn đạt là hình tượng tác giả, ông khẳng định: “Khái niệm hình tượng tác giả (người kể chuyện – NV) nói lên bản chất của tác phẩm nghệ thuật và là nơi tập trung sự thống nhất về tư tưởng, kết cấu, hình tượng và ngôn từ của tác phẩm. Đó là phạm trù thi pháp cao nhất quyết định đặc điểm và nội dung của cấu trúc tác phẩm, quyết định cá tính khuynh hướng và sự triển khai tác phẩm đó” [10, tr.215]. Ở đây, Huỳnh Như Phương đã nhấn mạnh vai trò định hướng và quyết định của người kể chuyện đối với việc tổ chức các yếu tố trong cấu trúc của một văn bản tự sự. Người kể chuyện cùng hành vi kể chuyện giữ một vai trò cầu nối quan trọng trong mối quan hệ giữa câu chuyện được kể và người đọc/người nghe câu chuyện. Ngoài chức năng cầu nối này, Timofeev còn phát hiện và nhấn mạnh vai trò quan trọng của người kể chuyện trong việc tổ chức các yếu tố làm nên kết cấu của một văn bản tự sự: “Hình tượng này có một vai trò hết sức to lớn trong việc xây dựng tác phẩm bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra. Cách đánh giá các nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân người kể chuyện” [49, tr.44]. Như vậy, cách hiểu về người kể chuyện được mỗi học giả, mỗi nhà nghiên cứu khai thác ở một phương diện khác nhau. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã khái quát được những đặc điểm cơ bản sau về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự: 19 + Người kể chuyện là sản phẩm nghệ thuật do tác giả hư cấu, sáng tạo nên, có mối liên hệ đặc biệt đối với tác giả, là người đại diện phát ngôn cho tác giả trong tác phẩm tự sự. + Người kể chuyện thực hiện nhiệm vụ trần thuật, truyền đạt, nhân vật hóa, chỉ dẫn, bình luận những vấn đề được kể trong tác phẩm tự sự. + Người kể chuyện giữ vai trò là cầu nối giữa tác giả, tác phẩm và độc giả, giúp tác giả cung cấp cho người đọc những dấu hiệu, chỉ dẫn để thâm nhập sâu vào thế giới hình tượng nghệ thuật của tác phẩm, hiểu được những quan niệm của tác giả về hiện thực, về nhân sinh + Trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện là chủ thể của lời kể và là nhân tố trung tâm chi phối việc lựa chọn điểm nhìn, sắp xếp bố cục những sự kiện, sự việc cũng như tìm lời trần thuật và giọng điệu trần thuật phù hợp nhất đối với câu chuyện được kể. 1.1.2. Các hình thức xuất hiện của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự Có nhiều nhà lí luận tập trung vào việc nghiên cứu về phạm trù người kể chuyện trong tác phẩm tự sự như R. Scholes và R. Kellogy, G. Genette, Bathkhin, W. Booth,… Họ đưa ra nhiều quan điểm cũng như cách phân loại người kể chuyện. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của G. Genette được mọi người chấp nhận và ủng hộ nhiều hơn cả. Genette nghiên cứu người trần thuật trong mối tương quan với các yếu tố nội cấu trúc như tiêu cự (focus), tiêu điểm (focalization), thức (mood), giọng điệu (voice) và tần suất. Từ đó, ông nêu ra bốn kiểu kể chuyện tương ứng với bốn kiểu người kể chuyện khác nhau. Nếu dựa vào việc xác định nơi truyện kể bắt đầu thì có hai kiểu người kể chuyện là người kể chuyện bên trong (intradiegetic narrator) và người kể chuyện bên ngoài (extradiegetic narrator). Còn dựa vào mức độ liên quan tới cốt truyện thì có người kể chuyện đồng sự (homodiegetic narrator) và người kể chuyện dị sự (heterodiegetic narrator). Theo quan điểm của chúng tôi, trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện có thể xuất hiện dưới các hình thức sau: người kể chuyện ngôi thứ nhất với phương thức 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan