Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nghi lễ cắt giải tiền duyên trong lên đồng của đạo mẫu ở việt nam ( qua nghiên c...

Tài liệu Nghi lễ cắt giải tiền duyên trong lên đồng của đạo mẫu ở việt nam ( qua nghiên cứu thực tế tại phủ dày xã kim thái huyện vụ bản tỉnh nam định )

.PDF
102
497
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI VIỆN VIỆT NAM HỌC & KHOA HỌC PHÁT TRIỂN ---------------------------- HÀ THỊ THU HIỀN NGHI LỄ CẮT GIẢI TIỀN DUYÊN TRONG LÊN ĐỒNG CỦA ĐẠO MẪU Ở VIỆT NAM ( QUA NGHIÊN CỨU THỰC TẾ TẠI PHỦ DẦY- XÃ KIM THÁI HUYỆN VỤ BẢN - TỈNH NAM ĐỊNH) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học Mã số : 603160 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Ngô Đức Thịnh Hà Nội - 2011 MỤC LỤC MỤC LỤC ................................................................................................. 1 PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................ 3 PHẦN NỘI DUNG .................................................................................... 9 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẠO MẪU, NGHI LỄ LÊN ĐỒNG VÀ VỀ PHỦ DẦY . .......................................................................................... 9 1.1 Tổng quan về Đạo Mẫu. ..................................................................... 9 1.2 Nghi lễ lên đồng của Đạo Mẫu. ........................................................ 17 1.3 Giới thiệu về Phủ Dầy. ..................................................................... 26 1.3.1 Giới thiệu về vùng đất địa linh Thiên Bản. ................................. 26 1.3.2 Lịch sử phát triển của Phủ Dầy. ................................................ 28 Chương 2: NGHI LỄ CẮT GIẢI TIỀN DUYÊN CỦA ĐẠO MẪU Ở VIỆT NAM (QUA NGHIÊN CỨU THỰC TẾ TẠI PHỦ DẦY – XÃ KIM THÁI - HUYỆN VỤ BẢN - TỈNH NAM ĐỊNH). ......................... 31 2.1 Giải thích khái niệm. ........................................................................ 32 2.1.1 Nghi lễ ....................................................................................... 32 2.1.2 Định nghĩa tiền duyên. ............................................................... 33 2.2 Bước đầu mô tả về nghi lễ cắt giải tiền duyên ở Phủ Dầy – Xã Kim Thái – Huyện Vụ Bản – Tỉnh Nam Định. ............................................... 34 2.2.1 Giới thiệu về nghi lễ cắt giải tiền duyên. .................................... 34 2.2.2 Nghi lễ cắt giải tiền duyên do thầy pháp sư thực hiện ................ 41 2.2.3 Nghi lễ cắt giải tiền duyên do đồng thầy Đạo Mẫu thực hiện ..... 44 Chương 3: NGHI LỄ CẮT GIẢI TIỀN DUYÊN TỪ CÁI NHÌN CỦA NHỮNG NGƯỜI TRONG . ................................................................... 50 3.1 Nghi lễ cắt giải tiền duyên dưới cái nhìn của người đồng thầy. ........ 50 3.1.1 Con đường dẫn đến vai trò đồng thầy. ....................................... 50 1 3.1.2 Tâm tư, nguyện vọng sau khi tiến hành nghi lễ cắt giải tiền duyên của đồng thầy N. ................................................................................ 56 3.2 Nguyên nhân tiến hành nghi lễ cùng tâm tư, nguyện vọng của người đi làm lễ. ................................................................................................ 60 3.2.1 Nhân vật thứ nhất. ..................................................................... 61 3.2.2 Nhân vật thứ hai. ....................................................................... 67 3.2.3 Nhân vật thứ ba. ........................................................................ 72 3.3 Thử đưa ra những nhận xét, đánh giá về nghi lễ cắt giải tiền duyên. 77 3.3.1 Nghi lễ cắt giải tiền duyên được nhìn dưới góc độ một hiện tượng văn hóa xã hội. ................................................................................... 78 3.3.2 Nghi lễ cắt giải tiền duyên được làm xuất phát từ niềm tin tôn giáo của con người. ............................................................................ 81 3.3.3 Những tác động của nghi lễ cắt giải tiền duyên với xã hội Việt Nam hiện nay. .................................................................................... 84 PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................. 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 93 PHỤ LỤC ẢNH ....................................................................................... 98 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tín ngưỡng dân gian của người Việt và một số dân tộc khác có tục thờ Nữ thần, thờ Mẫu và Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ mà ngày nay chúng ta gọi là Đạo Mẫu đang đóng một vai trò và vị trí quan trọng. Đạo Mẫu đáp ứng những nhu cầu và khát vọng trong đời sống thường nhật của con người nên được phổ biến khá rộng, từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi đến miền núi. Đạo Mẫu là tín ngưỡng bản địa có nguồn gốc từ lâu đời, đã từng tồn tại trong thời kỳ lâu dài của lịch sử chế độ phong kiến, nhất là thế kỷ XV - XIX, hiện nay vẫn tiềm ẩn và có chiều hướng phát triển trong xã hội, ở cả đồng bằng, đô thị và miền núi, tạo nên một nét khá nổi bật trong bức tranh chung vốn hết sức đa dạng và phong phú của tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam. Đây là một tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa đích thực, mặc dù trong quá trình phát triển, nó đã thu nhận không ít những ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo và thậm chí cả Nho giáo nữa. Đạo Mẫu tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm đấng sáng tạo và bảo trì cho vũ trụ - con người, là nơi con người ký thác những mong ước, khát vọng về đời sống trần thế của mình, đạt tới sức khỏe, tài lộc. Một tôn giáo tín ngưỡng hướng về đời sống trần thế hiện tại, chứ không phải là mai sau, ở thế giới bên kia như nhiều tôn giáo khác! Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngày nay các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng của Đạo Mẫu diễn ra phong phú trong đó các nghi lễ thờ cúng được coi là một đặc trưng tiêu biểu khiến con người nhớ đến nhất khi nhắc về tôn giáo này. Đạo Mẫu cùng với sinh hoạt nghi lễ của mình trở thành một phần trong bức tranh sinh hoạt tôn giáo của dân tộc Việt Nam. Trong những nghi lễ này luôn chứa đựng giá trị văn hóa – nghệ thuật, ý nghĩa 3 nhân văn nên đã tạo nên một thứ văn hóa tôn giáo chỉ có riêng trong Đạo Mẫu, chứa đựng nhiều sắc thái văn hóa độc đáo của dân tộc. Khi nhắc đến Đạo Mẫu, chúng ta hẳn sẽ nghĩ đến nghi lễ hầu đồng, đây được coi là một nghi lễ tiêu biểu, đặc trưng nhất của tôn giáo này. Nhưng rất thiếu xót khi tìm hiểu về Đạo Mẫu mà chúng ta không nhắc đến một vài nghi lễ nhỏ khác như: nghi lễ trả nợ tào quan, trình đồng tiễn căn, cắt giải tiền duyên… Những nghi lễ trên tuy không được nhắc nhiều đến nhưng nó đóng vai trò khá quan trọng bởi khi tìm hiểu về ý nghĩa của từng nghi lễ này chúng ta sẽ thấy chức năng của nó chính là giải quyết từng vấn đề trong cuộc sống con người. Và trong buổi hầu đồng, các nghi lễ này diễn ra trở thành một bộ phận cấu thành không thể thiếu của Đạo Mẫu Tứ Phủ. Trong quá trình nghiên cứu của mình, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến nghi lễ cắt giải tiền duyên với đối tượng tiến hành chủ yếu là người phụ nữ, nhân tố đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội và bảo tồn các giá trị văn hóa lịch sử dân tộc. Nghi lễ cắt giải tiền duyên cũng giống như nghi lễ lên đồng là đều gắn liền với sự thăng trầm của Đạo Mẫu, từ khi đất nước phát triển nền kinh tế, hội nhập quốc tế, Đạo Mẫu được phục hưng do đó nghi lễ này được quay trở lại trong các buổi lễ hầu. Nó xuất phát từ thực tế khi kinh tế phát triển đi kèm với nó là các vấn đề xã hội, áp lực của con người càng lớn nên yêu cầu giải quyết mọi việc bằng con đường tâm linh được đặt ra ngày một nhiều. Do nhận thấy nghi lễ cắt giải tiền duyên của Đạo Mẫu là một sinh hoạt tín ngưỡng của một số ít cá nhân trong xã hội Việt Nam, tuy nhiên lại đóng một vai trò nhất định về mặt tinh thần và trong chừng mực nào đó là chất kết dính quan trọng của hệ thống nghi lễ Tứ Phủ bởi vậy chúng tôi đã chọn vấn đề tìm hiểu về Nghi lễ cắt giải tiền duyên trong lên đồng của Đạo 4 Mẫu ở Việt Nam (Qua nghiên cứu thực tế tại Phủ Dầy – Xã Kim Thái – Huyện Vụ Bản – Tỉnh Nam Định) làm đề tài nghiên cứu trong luận văn của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của luận văn. Nghi lễ cắt giải tiền duyên được diễn ra trong buổi hầu đồng của Đạo Mẫu. Nghi lễ được tiến hành với mục đích là dứt bỏ liên hệ về tình duyên kiếp trước của con người, làm cho họ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong kiếp sống này, đây cũng là tư tưởng xuyên suốt của tất cả mọi nghi lễ trong Đạo Mẫu. Nên khi nghiên cứu về nghi lễ này chúng ta phải đặt nó trong ý nghĩa chung của Đạo Mẫu thì mới hiểu cụ thể được. Ngoài ra cũng như nghi lễ hầu đồng, khi con người tiến hành nghi lễ cắt giải tiền duyên sẽ được coi là một phương pháp trị liệu tích cực giúp họ có niềm tin vào cuộc sống. Thông qua nghi lễ này, cá nhân được thức tỉnh, và cảm nhận ở mình một nguồn năng lượng mới, mạnh mẽ có ý nghĩa hơn trước trong một xã hội với nền kinh tế đang đà phát triển. Hơn nữa đối tượng của nghi lễ này là người phụ nữ - một nhân tố bảo tồn các giá trị văn hóa, và hiện nay nghi lễ này đang được thực hiện khá phổ biến ở cả nông thôn và thành thị. Điều này đã tạo ra những mặt tích cực và tiêu cực luôn đi kèm với nhau do đó việc tìm hiểu về nghi lễ này là một việc nên làm. Cho nên chúng tôi nghĩ rằng đề tài này mang tính thiết thực và cần được quan tâm nghiên cứu hơn nữa. 3. Đối tượng nghiên cứu, giới hạn nghiên cứu, tư liệu tham khảo. Đối tượng mà chúng tôi đề cập đến trong luận văn của mình gồm các nhân vật: đồng thầy – người trực tiếp tiến hành nghi lễ cắt giải tiền duyên, và những người phụ nữ đi làm lễ cắt giải tiền duyên. Chúng tôi nghiên cứu và đề cập đến các nhân vật này dưới góc độ tiểu sử, lý do họ làm nghi lễ, tâm tư tình cảm của họ trước và sau khi đã tiến hành nghi lễ cắt giải tiền 5 duyên. Bên cạnh đó chúng tôi cũng miêu tả về phương thức tiến hành của nghi lễ cắt giải tiền duyên. Và đi từ những điều trên, chúng tôi sẽ tìm ra tính biểu trưng văn hóa cùng ý nghĩa tôn giáo của nghi lễ này. Vấn đề tìm hiểu về các nghi lễ của Đạo Mẫu đã được đề cập đến trong một số nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước. Trong đó có nhiều công trình khoa học, tác phẩm viết đầy đủ, chi tiết về nghi lễ lên đồng, hầu bóng của tín ngưỡng thờ Mẫu. Trước cách mạng có Việc thờ cúng các vị thần bất tử ở Việt Nam xuất bản năm 1944 bằng tiếng Pháp của tác giả Nguyễn Văn Huyên. Những năm gần đây, bắt đầu từ năm 1990, khi tín ngưỡng thờ Mẫu gần như được phục hưng trỗi dậy, thì vấn đề này được các nhà học giả Việt Nam chú ý xem xét như vấn đề văn hóa. Nhiều công trình ra đời liên quan đến vấn đề này, đáng chú ý là cuốn Vân Cát thần nữ của GS Vũ Ngọc Khánh xuất bản năm 1990 và cuốn Tứ bất tử của GS Vũ Ngọc Khánh, GS.TS Ngô Đức Thịnh xuất bản năm 1991. Ngoài ra còn có các tài liệu khảo sát về Các nữ thần ở Việt Nam của Mai Thị Ngọc Chúc và Đỗ Thị Hảo bước đầu đã tích hợp thần tích, công trạng, ngọc phả của 75 vị nữ thần ở Việt Nam. Bên cạnh đó tài liệu của tác giả Đặng Văn Lung về Tam tòa Thánh Mẫu xuất bản năm 1991, các công trình chuyên khảo về Đạo Mẫu như Hát Văn, Đạo Mẫu ở Việt Nam do GS.TS Ngô Đức Thịnh chủ biên xuất bản năm 1996, cuốn sách Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Trung Bộ do tác giả Nguyễn Văn Thông chủ biên năm 2002. Đặc biệt hơn cả là các bài tham luận của học giả trong, ngoài nước về tục thờ Mẫu Việt Nam trong hội thảo “Tín ngưỡng thờ Mẫu và Lễ hội Phủ Dầy” tổ chức tại Hà Nội từ 30/3 đến 2/4/2001 được tập hợp đầy đủ trong cuốn Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á do GS.TS Ngô Đức Thịnh chủ biên. 6 Có thể thấy các công trình nghiên cứu trên, Đạo Mẫu đã được tìm hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau một cách đầy đủ và tương đối toàn vẹn để từ đó chúng ta có thể tự hào đây là tôn giáo của người Việt, mang bản sắc văn hóa, tư tưởng của người Việt, là tinh hoa chắt lọc qua bao thế hệ, biểu tượng cho sức mạnh, tinh thần đoàn kết, sáng tạo không mệt mỏi… Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về những nghi lễ nhỏ của Đạo Mẫu nói chung trong đó có nghi lễ cắt giải tiền duyên nói riêng để thấy đó là một đối tượng ngày nay đang diễn ra hết sức sôi động và nảy sinh nhiều vấn đề. Cho nên, trong luận văn của mình chúng tôi đi vào vấn đề chuyên biệt là Nghi lễ cắt giải tiền duyên trong lên đồng của Đạo Mẫu ở Việt Nam (Qua nghiên cứu thực tế tại Phủ Dầy – Xã Kim Thái – Huyện Vụ Bản – Tỉnh Nam Định). 4. Phương pháp nghiên cứu. Do nghi lễ cắt giải tiền duyên được tiến hành trong các buổi hầu đồng lớn với sự hiện diện của bóng thần linh Tam Phủ, Tứ Phủ qua thân xác ông, bà đồng với sự tham dự của người đi làm lễ nên khá độc đáo. Cho nên phương pháp nghiên cứu chúng tôi sử dụng chủ yếu là tiếp cận đối tượng bằng phương pháp điền dã dân tộc học nhằm tiếp xúc trực tiếp với các ông, bà đồng và người đi làm lễ cắt giải tiền duyên. Trong quá trình tiếp xúc với họ, chúng tôi thực hiện phỏng vấn trực tiếp, hoặc qua sẻ chia tâm sự để hiểu rõ hơn vấn đề cần quan tâm. Bên cạnh đó, chúng tôi còn phải tìm hiểu, cập nhật các tài liệu, văn bản để hiểu rõ hơn về Đạo Mẫu, sử dụng các băng hình, ảnh chụp để làm cơ sở đánh giá, nhận xét về các bước thực hành nghi lễ. Từ những điều đã tìm hiểu được bằng phương pháp so sánh, miêu tả, chúng tôi đưa ra các nhận xét để có thể hiểu rõ hơn về vấn đề cần tìm hiểu. Đây là những phương pháp chủ yếu được chúng tôi sử dụng trong quá trình nghiên cứu của mình. 7 5. Đóng góp của luận văn. Vấn đề chúng tôi tìm hiểu trong luận văn của mình tuy không mới mẻ lại ở một góc độ rất nhỏ nhưng điều mà chúng tôi muốn truyền tải đến giúp người đọc có thể hình dung cụ thể nghi lễ cắt giải tiền duyên qua tâm tư, tình cảm của chính những người trong cuộc. Có như vậy chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của nghi lễ tôn giáo có tích cực và tiêu cực như thế nào trong đời sống con người hiện nay. Từ đây chúng tôi mong muốn sẽ góp dân tộc Việt Nam. 6. Bố cục luận văn. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tư liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn bao gồm ba chương như sau: Chương 1: Tổng quan về Đạo Mẫu, nghi lễ lên đồng và về Phủ Dầy. Chương 2: Nghi lễ cắt giải tiền duyên của Đạo Mẫu ở Việt Nam (Qua khảo cứu thực tế tại Phủ Dầy – Xã Kim Thái – Huyện Vụ Bản – Tỉnh Nam Định). Chương 3: Nghi lễ cắt giải tiền duyên từ cái nhìn của những người trong cuộc. 8 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẠO MẪU, NGHI LỄ LÊN ĐỒNG VÀ VỀ PHỦ DẦY . 1.1 Tổng quan về Đạo Mẫu. Tục thờ nữ thần và thờ Mẫu là một tín ngưỡng có từ lâu đời trên thế giới. Đây là hiện tượng tín ngưỡng tâm linh, đặc trưng của tín ngưỡng này là coi trọng phụ nữ, coi trọng đời sống nông nghiệp. Và Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài quy luật tâm linh này. Bởi lẽ đất nước Việt Nam hình thành trên cơ sở một nền nông nghiệp lạc hậu chịu ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt địa hình phức tạp, bị các thế lực ngoại bang xâm chiếm, cảnh nội chiến phân tranh đã đẩy dân tộc đến chỗ bế tắc bị kìm hãm triền miên. Trước hoàn cảnh ấy, người Việt cổ và các thế hệ tiếp nối luôn có sự đấu tranh sinh tồn vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, sáng tạo ra nền văn hóa, văn minh riêng trong đó có tục thờ nữ thần nông nghiệp. Phải chăng ở đây có một Nguyên lý Mẹ như GS Trần Quốc Vượng nói đến trong văn hóa truyền thống Việt Nam, là hiện tượng phổ quát trong nền văn hóa chung của khu vực Đông Á, mà thực tế đó là nguyên lý của nền nông nghiệp lúa nước thì chính xác hơn. Sự tương đồng như ta thấy, là căn bản của một nền sản xuất nông nghiệp gần giống nhau, trên một môi trường có nhiều nét tương đồng. Như vậy, vai trò của người phụ nữ có tính chất toàn thế giới, do đời sống và sự biết ơn, nhờ vậy đem lại nét chung mang tính chất toàn thế giới của hiện tượng thờ nữ thần. Với nguyên lý Mẹ - cội nguồn của sự sinh sôi, nảy nở và phát triển vai trò của người mẹ, người phụ nữ càng có vai trò quan trọng trong đời sống sản xuất đời thường và tâm linh của cư dân nông nghiệp. Và tín ngưỡng đề cao vai trò của người phụ nữ hiện nay vẫn được duy trì trong đời sống của các tộc người cư trú tại vùng Trường Sơn, Tây Nguyên còn ở người Kinh tuy mức 9 độ nó đã hạ thấp hơn nhưng cuộc sống gia đình vẫn do người vợ, người mẹ đảm đương mọi công việc như: tề gia, nuôi dạy con cái, là lực lượng lao động chính. Như vậy truyền thống thờ nữ thần, thờ Mẫu ở Việt Nam thuộc phạm trù của khái niệm Nguyên lý Mẹ của nền văn hóa Việt Nam 1, thuộc mẫu hình của Nguyên lý Mẹ. Chỉ có một nguyên lý mẹ của nền nông nghiệp lúa nước, thì mới có hiện tượng tâm linh coi trọng vai trò của phụ nữ. Điều đặc biệt trong văn hóa Việt Nam chính là hiện tượng coi trọng và coi người phụ nữ có vai trò đặc biệt trong xã hội. Điều này không phải/chưa chắc đã do việc ảnh hưởng lâu dài của chế độ mẫu hệ lên đời sống, nhưng Mẫu hệ sẽ để lại các hóa thạch văn hóa dài lâu. Đối với Việt Nam, cũng như cái nét chung của loài người, kết thúc Mẫu hệ là bước vào thời kỳ của Phụ hệ. Nhưng ngay cả khi làm ra chiếc trống đồng, trong văn hóa Đông Sơn, người phụ nữ cũng là người đánh đầu tiên. Vậy sức mạnh của giới nữ, các vị nữ thần nằm ở đâu, mà trong văn hóa Việt Nam hiện tượng này là phổ biến, và tín ngưỡng thờ nữ thần có khắp mọi nơi, và tín ngưỡng Mẫu là nét đặc trưng rất riêng, mà trong đó nổi bật là thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Thậm chí nét riêng biệt đặc biệt đó mà có nhiều người gọi đó là Đạo Mẫu 2. Danh từ Mẫu là gốc Hán Việt, còn thuần Việt gọi là Mẹ. Nghĩa ban đầu Mẫu hay Mẹ đều để chỉ người phụ nữ đã sinh ra một người nào đó, là tiếng xưng hô của người con với người đã sinh ra mình. Ngoài ý nghĩa 1 Đây là khái niệm được GS Trần Quốc Vượng phát biểu trong một bài viết của cuốn sách Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn học, Hà Nội, 2003, Trang 467-472. Trong cuốn sách này, GS đã đặt câu hỏi về Nguyên lý Mẹ “Thế cho nên tôi nghĩ là nền văn hóa truyền thống Việt Nam đã từng có NGUYÊN LÝ MẸ ” (trang 472). Trong cuốn sách này, GS tìm hiểu và đưa dẫn chứng về quan điểm này, trong lịch sử và vai trò của người phụ nữ trong văn hóa Việt Nam. Cuối bài viết GS, có nhấn mạnh đến 3 câu hỏi về Nguyên lý Mẹ : 1. Vì sao dân gian nói “nhất vợ nhì giời” còn Nho giáo lại là “Vua-quan-dân”, như vậy Vua – con trời chỉ ở thứ ba. 2. Kiểu từ ngữ bắt đầu bằng tiếng “cái”, tức là gọi Mẹ, hay cái gì to tát – sông cái, ngón tay cái, đường cái, cột cái…3. Câu thành ngữ “Giàu con út, khó con út” là tại sao ? vì Nam Trung Bộ tài sản của bố mẹ, thuộc về con gái út. 2 Có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về tín ngưỡng Mẫu, trong đó GS Ngô Đức Thịnh cho rằng, việc thờ các Mẫu là Đạo Mẫu, xin xem Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu ở Việt Nam, NXB VHTT, Hà Nội, 1996. 10 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi xưng hô đó, từ Mẫu – Mẹ còn có ý nghĩa tôn vinh những bà Mẹ chung của mọi người. Đạo Mẫu Việt Nam chứa đựng những nhân tố về một hệ thống vũ trụ luận nguyên sơ, thể hiện một ý thức nhân sinh, ý thức dân tộc, cội nguồn sâu sắc mà trong đó biểu tượng Mẫu là biểu tượng cao nhất và đẹp đẽ nhất. Việt Nam ngoài việc thờ mẫu tự nhiên như Tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) là bốn lực lượng tạo ra hạt mưa và Tứ phủ (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa) là bốn miền tạo dựng lên vũ trụ sáng tạo ra bầu trời, mặt đất, rừng, biển còn có các Mẫu nhân thần. Hiện tượng đặc biệt trong các vị mẫu phải kể đến Mẫu Liễu Hạnh, bà là vị Mẫu trung tâm của các vị Mẫu, là vị chủ Mẫu. Không có sự công nhận mang tính nghi thức quốc gia hay quy chế rằng Liễu Hạnh là vị chúa Mẫu, xong việc bà được thờ rất rộng, các nghi thức có quy chế định hình không văn bản, cũng như vai trò của bà trong tín ngưỡng dân gian làm cho việc thờ phụng Liễu Hạnh trở nên quan trọng nhất. Nó thể hiện sự độc đáo mang bản sắc của dân vùng lúa nước, vùng châu thổ sông Hồng và các tỉnh trong nước có mối liên quan. Khác với mẹ Âu Cơ của người Việt, khác với bà Sao Cái của người Tày, nữ thần Yana của dân tộc Chăm… tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh mới xuất hiện trên 500 năm nhưng so với các Mẫu nguyên thủy thì thật trẻ trung ấy vậy mà trở thành một thế giới mơ và qua sự mơ ước còn nảy sinh ý thức tu dưỡng để trở thành người hoàn thiện hơn, hoàn mỹ hơn. Từ trên năm thế kỷ này, tục thờ Mẫu Liễu Hạnh song song tồn tại cùng đạo Phật, cũng như tín ngưỡng thờ Thành Hoàng, thờ danh nhân, danh tướng có công với dân, với nước. “Sinh hỏa suất ba phen trinh hiếu gương treo quận bắc Tinh thần năm trăm lẻ anh linh bóng dọi chốn thành Nam” (Câu đối lăng Mẫu tại Tiên Hương) 11 Tâm thức dân gian tôn vinh Mẫu Liễu Hạnh trong hàng “Tứ bất tử ” Việt Nam, công đức lớn lao như Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thánh là những bậc thánh thần đạo cao, đức trọng, công lớn với đất nước, với hậu thế từ buổi bình minh lịch sử, mãi mãi tồn tại trong đời sống tinh thần dân tộc. Người xưa đã ghi nhận hiện tượng nữ thần Liễu Hạnh công chúa là một sự kỳ lạ, qua sách Truyền kỳ tân phả do nữ sỹ tài danh Đoàn Thị Điểm viết. Nguyễn Công Trứ viết Liễu Hạnh công chúa diễn âm cùng nhiều tác giả viết một số bài về Thánh Mẫu Liễu Hạnh, song trong ý niệm dân gian thì lai lịch của Mẫu trên lãnh thổ Việt Nam vô cùng phong phú, nó không bó hẹp trong thư tịch Hán Nôm, bi ký mà lan rộng trong truyền thuyết khắp các lũy tre xanh, trên lời hay ý đẹp của các câu đối, đại tự, các bài văn chầu, thi ca cùng những hoạt động tín ngưỡng lễ hội. Nó không chỉ thể hiện ở những địa danh thờ Mẫu mà còn xuất hiện khắp mọi nơi. Hình bóng bà Chúa Liễu như cây tùng, cây bách bao trùm cả các vị thần linh khác, giúp các vị ân thần, dương thần dựa bóng Mẫu để phù hộ cho nước, cho dân, cứu chữa cho dân gian khỏi bị bệnh tật, đói nghèo do thiên tai. Dân gian tôn vinh Mẫu là mẹ của thiên hạ sánh cùng với Hưng Đạo Đại Vương của thời Trần hoặc Bát Hải Đại Vương là những danh thần hơn Mẫu hàng trăm, hàng ngàn năm tuổi. Ảnh hưởng của Mẫu Liễu là một xu hướng hồi cổ của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước thuộc nhiều tỉnh, nhiều vùng đặc biệt trên địa bàn châu thổ sông Hồng như Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Ninh Bình, Hà Nội. Vấn đề này không phải là sự ngẫu nhiên mà là sự phát triển theo quy luật lịch sử xã hội. Nó thể hiện truyền thống tín ngưỡng văn hóa nguyên thủy của dân tộc. Nó cũng thể hiện xu hướng bài trừ “Vọng ngoại” do đó mà diện mạo thờ Mẫu Liễu Hạnh vừa phong phú, đa dạng vừa có ý thức tự chủ. Riêng với Phủ Dầy, Sòng Sơn, 12 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Quảng Nạp, Điện Hòn Chén, Tây Hồ… khi phụ nữ đặt chân đến đều có cảm giác như được về với quê mẹ. Một cảm xúc thân quen trào lên, muốn thủ thỉ nhỏ to, những chuyện vui buồn để cầu mẹ có sự cảm thông gia ân cho con cháu. Vì thế với hình tượng Mẫu Liễu, người Việt đã xây dựng cho mình một bà Mẹ nhân sinh (Chữ của GS Vũ Ngọc Khánh)[18,tr. 52], một con người đầy huyền thoại và mang tính nhân văn. Đạo Mẫu với hình tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh được thờ từ địa đầu Tổ quốc đến Đèo Ngang và từ địa danh này trở vào Nam nó biến đổi kết hợp với tục thờ nữ thần của dân tộc Chăm trở thành một hình thái mới. Miền Trung thờ Thánh mẫu Thiên Yana cùng Bà Đen là hai chị em họ của Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở miền Bắc. Các vị Thánh Mẫu này cũng có thánh tích giống như Thánh Mẫu Liễu Hạnh với việc lập gia đình, sinh con, có công trạng với nhân dân. Ngoài ra ở Nam Bộ còn có tục thờ Bà Chúa Xứ, Bà Thủy, Bà Hỏa… là những vị thần nữ có quyền phép phù trợ cho đời sống hàng ngày của cư dân nơi đây. Như vậy trải qua những thăng trầm của lịch sử, Đạo Mẫu đang biến đổi và chuyển hóa từ một tín ngưỡng nguyên thủy trở thành một tôn giáo sơ khai. Bằng cơ sở nông nghiệp là chính, nhiều dân tộc Việt Nam trong đó có tộc người Kinh đang dần lấy tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành một nét hàng ngày trong sinh hoạt tôn giáo. Việc thờ Mẫu thể hiện khát vọng có cuộc sống ấm no hạnh phúc, có sức khỏe dồi dào trong kiếp sống hiện tại. Như vậy nó hợp với nguyên lý Mẹ - một nguyên lý đề cao sự sinh sôi và phát triển. Khi tìm hiểu về Đạo Mẫu chúng ta có cảm nhận rằng các vị thần linh trong Tam Phủ và Tứ Phủ được sắp xếp giống như mô hình một triều đình nơi trần thế. Khi gạt bỏ những sai khác có tính địa phương, chắt lọc những 13 cái chung chúng ta có thể đưa ra một hệ thống điện thần Đạo Mẫu như sau[36, tr. 22]: - Ngọc Hoàng - Tam tòa Thánh Mẫu (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Địa Tiên Thánh Mẫu). - Ngũ vị Vương quan (Từ Đệ nhất đến Đệ ngũ), thường người ta xếp Đức Thánh Trần vào hàng các Quan. - Tứ vị Chầu bà hay Tứ vị Thánh bà là hóa thân trực tiếp của Tam tòa Thánh Mẫu. - Ngũ vị Hoàng tử (gọi theo từ Đệ nhất đến Đệ ngũ). - Thập nhị Vương cô (gọi theo thứ tự từ 1 đến 12). - Thập nhị Vương cậu ( gọi theo thứ tự từ 1 đến 12). - Quan ngũ Hổ. - Ông Lốt. Ngọc Hoàng là vị Thánh cao nhất trong Đạo Mẫu, có ban thờ riêng trong các đền và phủ, nhưng vai trò của Ngọc Hoàng trong các nghi lễ thờ cúng và tâm thức dân gian lại mờ nhạt. Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh thì đó là sự gá lắp lỏng lẻo của Đạo Giáo Trung Quốc vào Đạo Mẫu khi nó phù hợp với tâm thức của người Việt Nam là có mẹ thì phải có cha. Vị thần chủ có quyền lực nhất trong Đạo Mẫu chính là Tam tòa Thánh Mẫu cai quản các miền khác nhau của vũ trụ. Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một nhưng hóa thân thành Mẫu Thượng Thiên và Mẫu Địa cai quản vùng trời và nhân sinh. Mẫu Thượng Ngàn cai quản vùng rừng núi, Mẫu Thoải trông coi vùng sông nước biển hồ. Tiếp theo là tới hàng Quan Lớn, gồm 10 vị được thờ và hay nhập đồng gọi theo thứ tự từ 1 đến 10. Trong 10 vị này có 5 vị đầu thường hay giáng đồng hơn. Các quan đều thuộc dòng Long Vương Thủy phủ. 14 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Hàng Chầu gồm 12 vị được gọi từ 1 đến 12 trong đó Tứ vị Chầu bà là hóa thân trực tiếp của Thánh Mẫu trông coi các phủ và rất hay giáng đồng. Các vị thánh này đều có nguồn gốc người dân tộc ở vùng núi, thuộc Nhạc phủ, dòng Tiên nữ. Khi giáng đồng các Chầu ăn mặc theo trang phục dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mường, nhạc chầu văn theo điệu Xá Thượng mang đặc trưng miền núi. Dưới hàng Chầu là hàng Quan Hoàng gồm 10 ông từ Hoàng Nhất đến Hoàng Mười nhưng chỉ có bốn ông hay giáng đồng là Hoàng Cả, Hoàng Bơ, Hoàng Bảy, Hoàng Mười. Hàng Cô có 12 cô từ Cô Cả đến Cô Bé đều là thị nữ của Thánh Mẫu và các Chầu. Tuy nhiên khi giáng đồng chỉ thấy Cô Đôi, Cô Bơ, Cô Chín, Cô Cam Đường thường hay giáng còn Cô Bốn, Cô Sáu thi thoảng có giáng ở phủ Thượng Ngàn hoặc Thoải Phủ. Hàng Cậu là phụ tá của các Quan Hoàng. Khi giáng đồng chỉ thấy Cậu Bơ và Cậu Bé là hay giáng. Bên cạnh đó Quan Ngũ Hổ và Ông Lốt cũng hay giáng đồng cho những người có căn Ngũ Hổ hoặc Bạch Xà. Trong điện thờ Mẫu, hệ thống thần linh cũng được chia ra làm các phủ riêng biệt. Và mỗi phủ đó đại diện cho một miền khác nhau của vũ trụ. Trong Đạo Mẫu hiện nay tồn tại quan niệm Tam Phủ và Tứ Phủ. Tứ Phủ là gồm ba phủ trong Tam Phủ (Thiên, Địa, Thoải) và có thêm Phủ Thượng Ngàn (Nhạc Phủ). Quan niệm này đều bắt nguồn từ quan niệm vũ trụ luận nguyên sơ là Âm và Dương, dần dần yếu tố âm trong lưỡng cực Âm Dương phân hóa thành Địa Phủ, Thoải Phủ và Nhạc Phủ. Tứ phủ ứng với bốn phương, bốn miền của vũ trụ biểu hiện thành bốn màu cơ bản: Thiên Phủ ứng với màu đỏ, Thoải Phủ ứng với màu trắng, Địa Phủ ứng với màu vàng, Nhạc Phủ ứng với màu xanh. Đó cũng là màu sắc của trang phục các vị 15 thánh khi giáng đồng, và màu sắc của các đồ cúng lễ. Từ màu sắc này chúng ta có thể dễ dàng phân biệt vị thánh thuộc phủ nào trong hệ thống Tam Phủ, Tứ Phủ khi hầu đồng. Còn có các địa điểm thờ Mẫu Liễu Hạnh lớn được gọi là Phủ như Phủ Giầy (Nam Định), Phủ Tây Hồ (Hà Nội) là xuất phát từ sự mô phỏng của dân gian theo cách định danh cung vua, phủ chúa thời vua Lê, chúa Trịnh. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu còn có một phủ hay được nhắc đến đó là Phủ Trần Triều. Đứng ở phương diện điện thần, Đức Thánh Trần được coi là vị thánh Tứ Phủ. Tuy nhiên về hàng bậc cũng như phủ của Ông trong Tứ Phủ lại không dễ xác định. Ông không thuộc dòng tiên thánh mà thuộc dòng nhân thần được quy về dòng Long Vương Bát Hải Đại Vương nên được đặt riêng ra thành một phủ Nhân thần thường hay gọi là phủ Trần Triều. Về thứ bậc có lúc ông được đồng nhất với Vua cha trong đối sánh với Mẫu mẹ, kèm theo lễ hội tưởng niệm “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, thậm chí còn được đẩy lên mức độ cao hơn là Ngọc Hoàng (nơi thờ ông ở Kiếp Bạc hai bên có hai dãy núi Nam Tào và Bắc Đẩu chầu về). Thông thường ở các giá vua cha, Ngọc Hoàng chỉ giáng chứ không nhập đồng. Nhưng Đức Thánh Trần lại khác, cùng các thuộc hạ và thần nhân Ông nhập đồng để trừ tà, chữa bệnh hình thành một dòng đồng mới là dòng thanh đồng[36, tr. 38] Tóm lại hệ thống thần linh trong Đạo Mẫu bao gồm cả thiên thần và nhân thần đều là các vị thần linh có nguồn gốc tiên thánh. Các vị thần này trải qua quá trình lịch sử hóa, trần gian hóa đã được tái tạo trở thành những người có đầy đủ nguồn gốc công trạng với nhân dân nên được nhân dân tôn kính và phụng thờ. Thánh Mẫu Liễu Hạnh ra đời muộn nhất nhưng thần tích và công trạng của bà được nhân dân lưu truyền và lịch sử hóa một cách trọn vẹn nên bà đã bước lên ngôi vị cao nhất trong điện thần Tứ phủ. 16 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Trong điện thờ Mẫu, tuy Mẫu đứng ngôi vị cao nhất có quyền năng tối thượng nhưng bên cạnh Mẫu luôn có những người giúp việc là các Nam thần và Nữ thần. Các vị thánh nam thì hóa thân trực tiếp vào các vị trí hàng Quan Lớn, Quan Hoàng, Cậu và cũng phân thành Tứ Phủ. Thánh Mẫu với vai trò thần chủ của điện thờ nhưng lại hóa thân trực tiếp vào hàng Chầu Bà với những người giúp việc là hàng các Cô. Như vậy theo quan niệm dân gian, Mẫu là một, là nhất thể nhưng lại hóa thành tam vị: Thiên, Địa, Thoải để rồi thành ra Tứ vị Mẫu, tượng trưng cho bốn miền vũ trụ tạo thành cặp Thiên – Địa (Trời – Đất), Thanh – Thoải (Rừng núi – Sông biển). Còn ở tầm vi mô, Tứ phủ lại mô phỏng như một gia tộc, theo quan niệm truyền thống “nhân thân tiểu thiên địa”. Hơn thế nữa đó là một gia tộc đã được cung đình hóa qua cách thức bài trí, hệ thống xưng hô, trang phục… Khá nhiều vị thánh trong Tứ phủ được gán với chức vị công chúa, hoàng tử thuộc triều đại nào đó[36, tr. 43]. Tuy ở trên cao nhưng Mẫu và các vị thánh Tứ Phủ vẫn có suy nghĩ gần gũi với người dân lao động nên tục thờ Mẫu nhanh chóng được hòa nhập vào không gian thờ cúng ở làng quê Việt Nam chính là một ban thờ sau ban Phật trong ngôi chùa làng. Từ những nét trên đã cho chúng ta một cảm nhận ban đầu rằng Đạo Mẫu chính là khát vọng của nhân dân lao động Việt Nam muốn có một tôn giáo mang hơi thở, khát vọng, tư duy của chính họ. Do vậy chúng ta cần phải bảo lưu những giá trị tốt đẹp của tôn giáo cổ truyền này. 1.2 Nghi lễ lên đồng của Đạo Mẫu. Hầu đồng là nghi lễ chính của thờ Mẫu Tứ phủ cũng như một số dạng thờ Mẫu khác. Đó là nghi lễ nhập hồn của các vị thánh Tứ phủ vào thân xác các ông đồng, bà đồng là sự tái hiện lại hình ảnh các vị thánh, nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc cho các tín đồ đạo Mẫu. 17 Lên đồng, hầu đồng hay hầu bóng là thuật ngữ quen thuộc trong tín ngưỡng Tứ phủ. Đồng là từ gốc Hán để chỉ người con trai dưới 15 tuổi với tư chất trong trắng, ngây thơ tự nhiên để thần linh có thể nhập vào. Dần dần sau này người ta dùng các cô gái thay thế các thiếu niên này tuy nhiên trong số các ông đồng, bà đồng thỉnh thoảng người ta thấy các em trai nhỏ trên dưới 10 tuổi. Hầu bóng trong đó từ bóng chỉ vị thần linh nào đó chiếu, nhập cái bóng (hồn) của mình vào ông đồng hay bà đồng và ông bà đồng này chỉ là người hầu hạ cái bóng thần linh đó. Lên đồng hay hầu đồng là hiện tượng nhập hồn nhiều lần của nhiều vị thần linh, trong đó mỗi lần một vị thần linh nhập hồn (ốp đồng, giáng đồng) rồi làm việc quan (tức thời gian thực hiện các nghi lễ, nhảy múa, ban lộc, phán truyền) và xuất hồn (thăng đồng) được gọi là một giá đồng (tức thời gian thần linh ngự trên cái giá của mình là các ông đồng bà đồng). Hầu bóng thường diễn ra vào nhiều dịp trong một năm. Với những đồng thầy đền thì trong một năm có lễ hầu xông đền, lễ hầu thượng nguyên (tháng giêng), lễ hầu nhập hạ (tháng 4), lễ tán hạ (tháng 7), lễ tất niên (tháng 12), lễ hạp ấn (25 - 12)… Trong các dịp trên, hai lần được coi là quan trọng hơn cả là vào tháng 3 giỗ Thánh Mẫu và tháng 8 là dịp giỗ Vua Cha Bát Hải, Đức Thánh Trần. Đối với mỗi đền hay mỗi ông đồng bà đồng thì các dịp hầu đồng còn nhiều hơn nữa như đầu tiên là lễ trình đồng, lễ lên đồng, lễ hầu bản mệnh, lễ hầu ngày tiệc các vị thánh như tiệc cô Bơ (12/6), tiệc Quan Tam Phủ (24/6), ông Hoàng Bảy (17/7), Trần Triều (20/8), Đức Vua Cha (22/8), tiệc Chầu Bắc Lệ (tháng 9)… Với các đồng thầy ngoài việc đảm bảo lễ trong các tiệc trên họ có thể tiến hành hầu đồng quanh năm. Trong lễ hầu đó họ kết hợp hình thức lên đồng với các nghi lễ cắt giải tiền duyên, di cung hoán số, trình đồng tiễn căn… cho người có căn cao số 18 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi nặng. Các bước chuẩn bị cho những nghi lễ này dựa trên nền tảng của nghi lễ hầu đồng[44, tr. 190]. Mục đích của chúng tôi khi mô tả lại chi tiết nghi lễ hầu đồng nhằm cho người đọc có cái nhìn sơ lược về nghi thức này. Nhưng nghi lễ hầu đồng chỉ là nền tảng căn bản để người hầu thông qua đó thực hiện những nghi lễ riêng như trình đồng, khai căn mở phủ, di cung hoán số, cắt giải tiền duyên. Và trong nghi lễ hầu đồng này chúng ta cũng cần phải biết về hầu đồng của thanh đồng, của đồng thầy có sự khác biệt nhau. Hầu đồng của thanh đồng chỉ có các giá đồng về ốp đồng đây được coi là hầu vì căn quả cho nhẹ nghiệp đồng thời cầu sức khỏe, tài lộc. Còn nghi lễ hầu của đồng thầy lại hoàn toàn khác bởi họ phải chuẩn bị mã gồm voi, ngựa, thuyền rồng để làm nghi lễ chứng đàn, chứng mã. Đây không phải là hầu vai mà hầu để làm việc nên người đồng thầy có thể hầu ngang, hầu tắt, hầu lướt vì đã có sắc ấn rồi. Còn thanh đồng khi hầu buộc phải hầu hết các giá chính thường là 20 đến 22 giá (không hầu hết 36 giá vì có giá phải lướt bóng tức “se giá hồi cung”). Một người có căn đồng một năm thường chỉ hầu từ 2 đên 3 vấn nhưng đồng thầy tiến hành các khóa hầu quanh năm. Có khi một tháng họ hầu 3 đến 4 vấn tùy thuộc vào nhu cầu của người đi đăng ký làm lễ tứ phủ như trình đồng tiễn căn, di cung hoán số… Do vậy hầu đồng do căn quả và hầu đồng của đồng thầy về căn bản đều xuất phát từ nền tảng nghi lễ hầu đồng của Đạo Mẫu nhưng khi tham gia chúng ta sẽ thấy nét độc đáo của từng buổi hầu. Để hầu đồng làm lễ cho các gia chủ, ông đồng và bà đồng thường phải chọn ngày lành. Mấy hôm trước khi hầu, người hầu đồng phải báo trước chủ đồng đền, mời bạn bè là các con nhang đệ tử các bạn đồng, những người thân những người có cùng lòng tin vào Thánh tới dự. Chủ đền hay trực tiếp đồng thầy sẽ chỉ định hai người hầu dâng, tức người giúp 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan