VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHẢM
VŨ THỊ THANH HẢI
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VIẾT VỀ CHIẾN TRANH
SAU 1986
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 9 22 01 20
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
PGS.
HÀ NỘI, 2018
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Đoàn Đức Phương
2. PGS.TS. Lưu Khánh Thơ
Phản biện 1: PGS.TS. Trần Khánh Thành
Phản biện 2: PGS.TS. Trương Đăng Dung
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại: Hội trường …................................................................,
Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội vào
hồi …. giờ … phút, ngày …. tháng …. năm 2018.
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chiến tranh - đó là một trong những hiện tượng, sự kiện lịch
sử, xã hội đặc thù, một thách thức không nhỏ đối với con người và là
một đề tài lớn của văn học từ xưa đến nay. Ở Việt Nam, chiến tranh
vẫn là đề tài có tính thời sự, luôn thu hút đông đảo các thế hệ nhà văn
và vẫn có sức hấp dẫn đối với công chúng. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu về nghệ thuật tiểu thuyết viết về chiến tranh của những
tác giả riêng biệt hay những giai đoạn trước đó, nhưng khám phá tiểu
thuyết chiến tranh sau Đổi mới từ phương diện nghệ thuật tự sự vẫn
là một vấn đề còn để ngỏ. Do vậy, việc vận dụng lý thuyết tự sự học
vào nghiên cứu phạm trù văn học này là cần thiết và có ý nghĩa. Tiếp
cận văn học từ hướng đi này sẽ đem lại một cái nhìn đa chiều, đa
diện không chỉ với tiểu thuyết chiến tranh mà cả diện mạo văn xuôi
Việt Nam đương đại. Trên đây là tất cả những lý do để chúng tôi lựa
chọn đề tài Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến
tranh sau 1986.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam viết về
chiến tranh sau 1986 ở phương diện truyện kể, người kể chuyện,
nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu.
- Tìm ra những điểm chung trong sự đổi mới tư duy và phương
thức tự sự của các nhà văn có tác phẩm viết về chiến tranh giai đoạn từ
1986 đến nay ở thể loại tiểu thuyết.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1986 để thấy
được sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật, sự đa dạng trong góc
1
nhìn và trong lối viết của các nhà văn sau 1986 về hiện thực chiến
tranh và số phận con người.
- Vận dụng lý thuyết tự sự học hiện đại để tìm hiểu và phân tích
một số tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1986 nhằm thấy được điểm
chung, điểm riêng, sự kế thừa và cách tân trong nghệ thuật tự sự của các
nhà văn giai đoạn này.
- Thông qua việc chứng minh sự linh hoạt, sáng tạo của các
nhà văn trong cách vận dụng các phương tiện nghệ thuật để khám
phá tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1986, chúng tôi thêm một lần
nữa khẳng định sự cố gắng và nỗ lực không ngừng của họ đối với thể
loại tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ Đổi mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghệ thuật tự sự trên các
bình diện cơ bản như truyện kể, người kể chuyện, nhân vật, ngôn
ngữ, giọng điệu trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh từ
1986 đến nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm những tiểu thuyết viết
về chiến tranh xuất bản tại các nhà xuất bản ở Việt Nam từ 1986 đến
nay. Song, do khối lượng tác phẩm khá lớn và sự hạn chế về nguồn
tư liệu, chúng tôi chỉ lựa chọn những tác phẩm tiêu biểu về đề tài
chiến tranh để thuận lợi cho việc nghiên cứu, đánh giá.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
- Về mặt phương pháp luận, chúng tôi chủ yếu sử dụng những
lý thuyết nghiên cứu hình thức từ thi pháp học (poetics) đến tự sự học
(naratology) để tái hiện lại cấu trúc tự sự của tiểu thuyết Việt Nam
viết về chiến tranh sau 1986.
2
- Về các phương pháp nghiên cứu cụ thể, chúng tôi sử dụng
các phương pháp chuyên ngành của văn học sử và thi pháp học hiện
đại như: Phương pháp tiếp cận từ lý thuyết tự sự học, phương pháp
loại hình, phương pháp cấu trúc, phương pháp hệ thống, phương
pháp thống kê, phương pháp so sánh
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án góp phần khẳng định tầm quan trọng của việc ứng
dụng lý thuyết tự sự học vào việc tìm hiểu các hiện tượng văn học
sau Đổi mới, đặc biệt là ở lĩnh vực tiểu thuyết viết về mảng đề tài
chiến tranh.
- Luận án cung cấp cái nhìn hệ thống về một số vấn đề của nghệ
thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986.
- Luận án khẳng định vai trò, nỗ lực sáng tạo của các nhà văn
trong việc cách tân tiểu thuyết trên phương diện nghệ thuật tự sự, qua
đó nhận diện thành tựu nghệ thuật của tiểu thuyết viết về chiến tranh
thời kỳ Đổi mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án có giá trị lý luận và thực tiễn. Luận án là một trong
những công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống các tác phẩm tiểu
thuyết Việt Nam viết về chiến tranh từ 1986 đến nay. Kết quả nghiên
cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ sự vận động và đặc trưng thể loại,
truyện kể và người kể chuyện, nhân vật và ngôn ngữ, giọng điệu trần
thuật của tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986. Luận án
được thực hiện thành công sẽ bổ sung thêm nguồn tư liệu cho công tác
nghiên cứu khoa học về tiểu thuyết, về văn học chiến tranh nói riêng và
văn xuôi Việt Nam đương đại nói chung.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được triển khai thành
bốn chương:
3
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Sự vận động và đặc trưng thể loại của tiểu thuyết
Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986
Chương 3: Truyện kể và người kể chuyện trong tiểu thuyết
Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986
Chương 4: Nhân vật và ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật trong
tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu lý thuyết tự sự hiện đại
1.1.1. Những dòng chủ lưu
Tổng thuật quá trình nghiên cứu của lý thuyết tự sự hiện đại
trên thế giới, nhà lý luận Mỹ Gerald Prince đã chia ra làm ba nhóm,
tạo thành những dòng chủ lưu sau: Nhóm thứ nhất chịu ảnh hưởng
của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga chú ý tới cấu trúc của câu
chuyện được kể, đối tượng của trần thuật, trong đó chú ý xây dựng
ngữ pháp của tự sự, chức năng của sự kiện, kết cấu logic phát triển
của chúng, không đi sâu vào đặc trưng biểu đạt của chất liệu. Nhóm
thứ hai tập trung nghiên cứu sự triển khai của diễn ngôn trần thuật.
Nhóm thứ ba quan tâm đến phương pháp nghiên cứu tổng thể. Khi tự
sự học kinh điển bị công kích bởi chủ nghĩa giải cấu trúc và chủ
nghĩa lịch sử, tự sự học hậu kinh điển ra đời. Tự sự học hiện nay có
nhiều hướng đi mới mẻ.
1.1.2. Hướng nghiên cứu lý thuyết tự sự ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, lý
thuyết về tự sự học mới được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng
mức. Gs. Ts. NGND Trần Đình Sử là một trong những người đầu
tiên đưa tự sự học vào giới thiệu ở Việt Nam qua nhiều công trình do
ông chủ biên như: Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và lịch sử (phần
1 và phần 2, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004 & 2008), Dẫn luận
thi pháp học, Tự sự học – Lý thuyết và ứng dụng.
1.1.3. Nghệ thuật tự sự và những vấn đề trọng tâm
1.1.3.1. Nghệ thuật tự sự (art of narrative)
Nghệ thuật tự sự tức nghệ thuật kể chuyện là một khái niệm có
nội hàm rộng lớn, bao gồm rất nhiều phương diện: truyện kể, nhân vật,
5
người kể chuyện, kết cấu, ngôn ngữ, không gian, thời gian nghệ thuật…
Vấn đề này đã được các nhà nghiên cứu quốc tế và trong nước tiếp cận,
giới thuyết qua nhiều công trình: Dẫn luận nghiên cứu văn học (G.N.
Pospelov), Trần thuật học – Nhập môn lý thuyết trần thuật học (Manfred
Jahn), Những vấn đề thi pháp của truyện (Nguyễn Thái Hòa)…
1.1.3.2. Truyện kể (sujet)
Nhờ lý thuyết tự sự học hiện đại, vấn đề này được quan tâm
đúng nghĩa hơn qua các nghiên cứu của: Trần Đình Sử trong công
trình Dẫn luận Thi pháp học văn học và chuyên luận Lí luận văn học
Nga hậu Xô Viết cùng các bài dịch của Lã Nguyên từ nguồn
https://languyensp.wordpress.com.
1.1.3.3. Người kể chuyện (narrator)
Người kể chuyện là một phương diện quan trọng của lý thuyết
tự sự, tìm hiểu người kể chuyện sẽ giúp ta hiểu được phương diện chủ
thể của tác phẩm tự sự một cách sâu sắc và trọn vẹn hơn.
1.1.3.4. Điểm nhìn
Thuật ngữ điểm nhìn được dịnh danh bằng nhiều từ khác nhau
trong các tài liệu, chẳng hạn: viewpoint, view, point of wiew, vision…
Thực tế cho thấy, các nhà lý luận phê bình cũng sử dụng rất nhiều
những thuật ngữ khác nhau để cùng nói về khái niệm này.
1.1.3.5. Giọng điệu
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của văn học, góp phần xác
định hình tượng người kể chuyện trong tác phẩm văn học. Các nhà lý
luận phương Tây và Việt Nam khi gọi tên khái niệm đã có sự phân biệt
giữa Voice (giọng) và Tone (giọng điệu).
1.1.3.6. Nhân vật
Nhân vật hay gọi đầy đủ hơn, nhân vật văn học đã trở thành khái
niệm quen thuộc, thiết yếu được đưa vào trong hầu hết các công trình
6
mang tính công cụ như từ điển thuật ngữ văn học, giáo trình lý luận
văn học...
1.2. Tổng quan những nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong tiểu
thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986
1.2.1. Những nghiên cứu khái quát về tiểu thuyết chiến tranh cách
mạng Việt Nam
Sau năm 1986, những công trình, bài viết về đề tài chiến tranh
ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Cho đến nay, thật khó có
thể liệt kê được đầy đủ nguồn tài liệu phong phú này. Vì thế, chúng tôi
chỉ xin điểm những công trình, bài viết có giá trị nghiên cứu khái quát
về tiểu thuyết chiến tranh cách mạng Việt Nam.
1.2.2. Nghiên cứu các vấn đề của nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết
Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986
Qua khảo sát tài liệu, chúng tôi đã tìm hiểu vấn đề này qua các
công trình, bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Tú, Tôn
Phương Lan, Bùi Việt Thắng… Bên cạnh đó là một số luận án của
người đi trước: Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam sau
1975 – Những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật (Nguyễn Thị
Thanh), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 viết về chiến tranh (Ngô Thị
Quỳnh Nga)…
Tiểu kết chương 1
Trong những năm vừa qua, hướng nghiên cứu văn học dựa trên
lý thuyết tự sự học là hướng nghiên cứu đã được quan tâm sâu rộng
trên thế giới. Khi được du nhập vào nước ta, hệ thống lý thuyết này
đã giúp các học giả Việt Nam có thêm cơ sở đào sâu việc tìm hiểu tác
phẩm văn học, hình thành nên những công trình có giá trị trong
nghiên cứu văn học. Đặc biệt, trong số đó có rất nhiều công trình ứng
dụng lý thuyết tự sự học vào nghiên cứu thể tài tiểu thuyết Việt Nam
7
viết về chiến tranh. Tuy nhiên, việc khảo sát mới chỉ dừng ở từng tác
phẩm hoặc nhóm tác phẩm cụ thể. Nhiều vấn đề của nghệ thuật tự sự
trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986 vẫn còn bỏ
ngỏ như vấn đề truyện kể, nghệ thuật xây dựng nhân vật, sự đổi mới
hình thức người kể chuyện và phương thức trần thuật…
Chương 2
SỰ VẬN ĐỘNG VÀ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CỦA TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM VIẾT VỀ CHIẾN TRANH SAU 1986
2.1. Sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986
2.1.1. Bối cảnh xã hội – văn hóa
Năm 1986, nhận thức được sự khủng hoảng trầm trọng và sâu
sắc trên mọi lĩnh vực của tình hình kinh tế - xã hội, Đảng ta đã tiến
hành đổi mới. Từ đây, kinh tế Việt Nam dần thoát khỏi khủng hoảng,
từng bước được phục hồi, khởi sắc, tạo đà cho sự phát triển trên các
lĩnh vực xã hội, văn hóa. Sự phát triển mới trong tư duy sáng tạo và
không khí tự do dân chủ mở ra từ sau Đại hội VI đã tạo nên những
khởi sắc trong sáng tạo văn học nghệ thuật..
2.1.2. Sự vận động, đổi mới tư duy nghệ thuật về tiểu thuyết chiến
tranh sau 1986
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), các nhà văn mong muốn
“đem đến tinh thần đối thoại” cho văn chương, nhấn mạnh hơn vào yếu tố
“chân thực”, không bằng lòng với cái hiện thực được lý tưởng hóa một
chiều của giai đoạn trước, quyết tâm từ bỏ việc “mỹ hóa” chiến tranh.
8
2.2. Đặc trưng thể loại của tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến
tranh sau 1986
2.2.1. Chủ thể tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh sau 1986
Các nhà tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1986 phần nhiều là
nam giới, họ ở các lứa tuổi khác nhau, sống tại các vùng miền khác
nhau vì thế cách tri nhận về đời sống chiến tranh ở mỗi nhà văn là
không giống nhau.
2.2.2. Đặc trưng phản ánh hiện thực chiến tranh
Từ sự kế thừa những đặc điểm của văn học các giai đoạn
trước, tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau năm 1986 có sự
giản lược độ đậm đặc của các sự kiện lịch sử và thay vào đó là xu
hướng lấy số phận con người để dựng lại các sự kiện lịch sử
2.2.2.1. Hiện thực bất thường, phi lý và khốc liệt của chiến tranh
Năm 1986, lớp mặt nạ cuối cùng của bộ mặt chiến tranh đã
hoàn toàn bị các nhà văn bóc trần. Sự thật về bản chất của chiến tranh
nhìn từ phía con người hiện lên là một hiện thực bất thường, phi lý và
vô vàn những khốc liệt.
2.2.2.2. Cái nhìn đa diện, phức tạp và sâu sắc về người lính
Sau năm 1986, mọi người lính, từ vị chỉ huy cấp cao, những
con người dạn dày trận mạc đến các chiến sĩ, từ người lính bên ta đến
người lính phía bên kia chiến tuyến đều được khắc họa một cách
chân thực, sinh động, “hiện lên hết màu hết nét” qua ngòi bút hiện
thực không hoàn mỹ của các nhà văn.
2.2.3. Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết
Tiểu thuyết viết về chiến tranh sau năm 1986 đã có những
chuyển biến trong cách thức tiếp cận và phản ánh đời sống. Mặc dù
đặc điểm nghệ thuật của giai đoạn này trên các phương diện (cốt
truyện, kết cấu và các phương thức trần thuật…) không hoàn toàn là
những cách tân mới mẻ, độc đáo song đã phần nào khẳng định nỗ lực
9
không ngừng của các nhà văn trong việc tìm tòi phương thức biểu đạt
phù hợp cho mảng đề tài cũ trong một giai đoạn mới.
Tiểu kết chương 2
Đồng hành cùng sự phát triển của nền văn học dân tộc, tiểu
thuyết viết về chiến tranh sau năm 1986 đã có bước phát triển mới,
khẳng định vị trí của đề tài luôn là nguồn cảm hứng dồi dào cho mọi
thế hệ nhà văn, “là dòng riêng giữa nguồn chung” trong dòng chảy
của văn học Việt Nam đương đại. Bối cảnh xã hội văn hóa cùng sự
vận động, đổi mới trong tư duy nghệ thuật đã tạo nên những đặc
trưng riêng về nội dung và nghệ thuật cho giai đoạn này. Kết quả của
đổi mới không phải là “phủ nhận truyền thống để tạo lập các giá trị
cách tân đối lập với truyền thống” mà nó “luôn lấy truyền thống làm
điểm tựa”.
10
Chương 3
TRUYỆN KỂ VÀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM VIẾT VỀ CHIẾN TRANH SAU 1986
3.1. Truyện kể trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986
3.1.1. Khái lược về truyện kể
Theo Trần Đình Sử trong công trình Dẫn luận thi pháp học
văn học, “Truyện kể là hệ thống các biến cố trong trật tự nghệ thuật
đã được lựa chọn, sắp xếp. Điểm mở đầu và kết thúc của truyện kể rõ
ràng là không phải lúc nào cũng trùng khít với điểm mở đầu và kết
thúc của câu chuyện… Truyện kể là thực tại nghệ thuật, là các biến
cố trong sự miêu tả” [tr.279].
3.1.2. Các loại truyện kể trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến
tranh sau 1986
Việc phân loại truyện kể đến nay vẫn rất phức tạp nên mọi sự
phân chia chỉ mang tính chất tương đối, bởi có những tác phẩm nằm
trong sự dung hòa của nhiều loại hình truyện kể.
3.1.2.1. Truyện kể sự kiện
Đây là kiểu truyện kể đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử nghệ
thuật tự sự. Tác phẩm thường có mở đầu và kết thúc trọn vẹn, số
phận của nhân vật được miêu tả đầy đủ chứ không mấy khi có kết
thúc bỏ lửng hay để ngỏ cho người đọc đoán định. Loại truyện kể này
có thể tìm thấy trong Không phải trò đùa (Khuất Quang Thụy), Vòng
tròn bội bạc (Chu Lai), Ở đất kẻ thù (Lê Lan Anh)...
3.1.2.2. Truyện kể tâm lý
Truyện kể tâm lý là truyện kể đặc trưng cho tự sự hiện đại.
Điểm tựa truyện kể là thế giới nội tâm bao la với vô vàn những ẩn ức
và suy nghĩ quá khứ, thực tại chồng chéo lên nhau. Trong tiểu thuyết
Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986, kiểu tổ chức truyện kể này có
11
thể thấy trong Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nỗi buồn chiến tranh
(Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng, Ba lần và một lần (Chu Lai)...
3.1.2.3. Truyện kể lồng trong truyện
Đặc điểm của kiểu truyện kể này là sự đan cài, lồng ghép của
hai hay nhiều truyện kể khác nhau tạo nên kết cấu “tiểu thuyết trong
tiểu thuyết”. Sau năm 1986, kiểu truyện kể này đã làm nên thành
công cho các tiểu thuyết như: Sông xa (Chu Lai), Mình và họ
(Nguyễn Bình Phương), Hoang tâm, Xác phàm (Nguyễn Đình Tú)…
3.1.2.4. Truyện kể lắp ghép
Truyện kể lắp ghép là kiểu truyện kể được tạo nên từ hệ thống
các mảng có tính độc lập tồn tại bên cạnh nhau. Truyện bị nghiền nát,
đập vỡ thành từng mảnh vụn rời rạc không theo một trình tự thời gian
hay mối liên hệ nhân quả nào và mỗi mảnh vụn chính là một mảnh
của hiện thực. Đỉnh cao hoang vắng (Khuất Quang Thụy), Mảnh vỡ
của mảnh vỡ (Vĩnh Quyền)… đều thuộc kiểu truyện kể này.
3.2. Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến
tranh sau 1986
3.2.1. Giới thuyết về người kể chuyện
Theo Từ điển văn học, người kể chuyện (narator) là thuật ngữ
chỉ nhân vật đóng vai trò là chủ thể của lời kể chuyện, là người đứng
ra kể trong tác phẩm văn học. người kể chuyện. Có rất nhiều tiêu chí
được các nhà nghiên cứu dựa vào để phân loại kiểu người kể chuyện.
3.2.2. Ngôi kể
Tiến hành khảo sát ngôi kể của các tác phẩm tiểu thuyết viết về
chiến tranh từ 1986 đến nay, chúng tôi nhận thấy có ba vấn đề sau:
Thứ nhất: Hình thức kể chuyện từ ngôi thứ ba (toàn tri) tiếp tục được
các tiểu thuyết gia sử dụng. Thứ hai: Các tác giả bắt đầu tìm tòi sáng
tạo hình thức kể chuyện từ ngôi thứ nhất xuyên suốt (tự sự một người
12
kể). Thứ ba: hình thức kết hợp linh hoạt hai ngôi kể (1+3) và kiểu tự
sự nhiều người kể.
3.2.3. Điểm nhìn
Theo Trần Đình Sử trong cuốn Giáo trình lý luận văn học:
“Điểm nhìn thể hiện vị trí người kể dựa vào để quan sát trần thuật các
nhân vật và sự kiện” [tr.61]. Có nhiều cách phân loại điểm nhìn tự sự
khác nhau trong văn bản. Trong tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh
từ cuối thập kỷ tám mươi đến nay, chúng tôi nhận thấy điểm nhìn
trần thuật rất đa dạng.
3.2.3.1. Điểm nhìn toàn tri
Đây là dạng điểm nhìn mà người kể trần thuật, miêu tả sự vật
từ phía bên ngoài nhân vật (cái bên ngoài ở đây được hiểu là cái có
thể quan sát ở bên ngoài), kể những điều nhân vật không biết, một
kiểu điểm nhìn truyền thống, người trần thuật miêu tả, tái hiện cuộc
sống chủ yếu từ ngôi thứ ba toàn tri và ngôi thứ ba mang điểm nhìn
nhân vật (cái nhìn này cũng chỉ mang tính quan sát bên ngoài chứ
không kèm theo đời sống nội tâm).
3.2.3.2. Điểm nhìn bên trong
Đây là dạng điểm nhìn mà người trần thuật từng bước nhập vai
vào nhân vật, quan sát nhân vật từ cảm nhận nội tâm của mình, nhìn
thế giới và trình bày cảm nhận bằng chính cảm nhận của nhân vật.
Trong tiểu thuyết viết về chiến tránh thời Đổi mới điểm nhìn bên
trong sẽ được triển khai theo hai hướng.
3.2.3.3. Sự dịch chuyển và gấp bội điểm nhìn
Đó là hình thức có sự phối hợp, đan xen nhiều điểm nhìn,
nhiều quan điểm trần thuật. Người kể chuyện trao gửi điểm nhìn cho
nhân vật trong truyện và điểm nhìn ấy không chỉ cố định trên một
nhân vật duy nhất mà còn được phân tán cho nhiều nhân vật khác.
13
3.2.4. Lời người kể chuyện
Theo Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học văn học, lời
người kể chuyện là “lời văn đảm đương chức năng trần thuật trong
văn bản tự sự, giới thiệu, miêu tả, bình luận con người và sự kiện,
phân biệt với lời trực tiếp được đặt trong ngoặc kép hoặc sau gạch
đầu dòng” [tr. 376].
3.2.4.1. Lời dẫn
Dẫn chuyện là phần trình bày, thuyết minh, giới thiệu về nhân
vật, bối cảnh, tình huống… cung cấp những thông tin bước đầu về
nhân vật, chuẩn bị cho các biến cố hoặc thông tin dự báo trong quá
trình hoạt động của nhân vật.
3.2.4.2. Lời kể
Lời kể là cách thức mà chủ thể phát ngôn (người kể chuyện/
người được nhà văn trao quyền) sử dụng lời kể để thực hiện hành vi
kể chuyện. Qua đó, các sự kiện, biến cố, hành động, nhân vật... dần
được phục dựng, giúp người đọc khám phá nội dung cùng thế giới
nghệ thuật đa dạng, phức tạp của tác phẩm.
3.2.4.3. Lời tả
Miêu tả là vẽ ra, tạo hình cho cảnh tượng, con người trở nên có
hình hài, thậm chí “biến dạng” qua lăng kính, cảm quan cá nhân của
nhà văn.
3.2.4.4. Lời bình luận
Đối với các tác phẩm tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh sau
1986, chủ đề bình luận khá đa dạng và phong phú, người kể chuyện
có thể bình luận về mọi điều: sự vật, lịch sử, con người, giá trị sống...
3.2.4.5. Lời đa thanh
Trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986, đây
là loại lời phát triển nhất và phong phú nhất.Theo nhà nghiên cứu
Trần Đình Sử, nó có thể được biểu hiện qua một số dạng thường gặp
14
như: lời phong cách hóa, lời nửa trực tiếp và lời văn nhại. Ở đây,
chúng tôi quan tâm đến lời nửa trực tiếp bởi tần xuất, mật độ và sự
thể hiện đa dạng của nó. Ví dụ chứng minh trong Mưa đỏ (Chu Lai),
Mảnh vỡ của mảnh vỡ (Vĩnh Quyền)
Tiểu kết chương 3
Thực hiện việc khảo sát truyện kể trong tiểu thuyết viết về
chiến tranh sau 1986, chúng tôi nhận thấy sự phân rã cấu trúc truyện
kể đang là một hiện tượng phổ biến. Nó chứng tỏ các nhà văn luôn
nuôi tham vọng vượt qua/ khắc phục kiểu truyện kể sự kiện tuyến
tính nhằm biểu đạt các trạng thái một cách sống động và bất ngờ hơn
qua loại hình truyện kể tâm lý, truyện kể lồng trong truyện và truyện
kể lắp ghép. Tương tự như vậy, khi đi sâu vào vấn đề người kể
chuyện qua các phương diện ngôi kể, điểm nhìn và lời người trần
thuật chúng tôi đã thấy được vai trò tích cực của anh ta trong việc
chuyển tải quan niệm, tư tưởng của các nhà tiểu thuyết viết về chiến
tranh giai đoạn này - giai đoạn mà tinh thần dân chủ trong sáng tạo
và tiếp nhận được đề cao.
15
Chương 4
NHÂN VẬT VÀ NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VIẾT VỀ
CHIẾN TRANH SAU 1986
4.1. Nhân vật trong tự sự của tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến
tranh sau 1986
4.1.1. Khái lược về nhân vật và nhân vật trong tiểu thuyết viết về
chiến tranh sau 1986
Theo Hà Minh Đức trong Giáo trình Lý luận văn học, nhân vật
trong văn học là “một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó
không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con
người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình
về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách…” [tr. 126]. Các nhà nghiên cứu
đã đưa ra nhiều tiêu chí để phân loại nhân vật. Trong dòng văn học
viết về đề tài chiến tranh, người lính luôn đóng vai trò là nhân vật
trung tâm quan trọng. Sau 1986, các nhà tiểu thuyết viết về chiến
tranh đã đổi mới hình thức xây dựng nhân vật người lính.
4.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết về chiến
tranh sau 1986
4.1.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật
Ngoại hình là toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bên
ngoài của nhân vật (hình dáng, diện mạo, trang phục, cử chỉ, tác
phong…).
4.1.2.2. Nghệ thuật miêu tả hành động nhân vật
Đó chính là những việc làm cụ thể của nhân vật trong quan hệ
ứng xử với các nhân vật khác và trong những tình huống khác nhau
của cuộc sống.
16
4.1.2.3. Nghệ thuật biểu hiện nội tâm nhân vật
Nội tâm là khái niệm chỉ toàn bộ cuộc sống bên trong của nhân
vật, đó là những tâm trạng, suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, những phản
ứng tâm lý của bản thân nhân vật trước cảnh ngộ, tình huống mà
nhân vật chứng kiến hoặc thể nghiệm trên bước đường đời của mình.
4.1.2.4. Ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ nhân vật là ngôn ngữ tính cách, biểu hiện đời sống,
phẩm chất, bản chất của mỗi nhân vật. Trong tiểu thuyết Việt Nam
viết về chiến tranh sau 1986, nhân vật hiện ra bằng ngôn ngữ độc
thoại và ngôn ngữ đối thoại (bao gồm các hình thức song thoại, tam
thoại, đa thoại).
4.2. Ngôn ngữ trần thuật
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc
trưng của văn học, không có ngôn ngữ thì không thể có tác phẩm văn
học.
4.2.1. Ngôn ngữ chiến trường
Đây là loại ngôn ngữ dễ nhận thấy nhất trong các tiểu thuyết
viết về chiến tranh, chiếm vị trí chủ đạo không dễ gì thay thế, nhằm
chuyển tải các nội dung chính trị, quân sự, nội dung tuyên truyền, cổ
vũ…
4.2.2. Ngôn ngữ đời thường
Sau năm 1986, ngôn ngữ đời thường hay ngôn ngữ thông tục,
dân dã, ngôn ngữ bình dân xuất hiện rất nhiều trong các tiểu thuyết
viết về chiến tranh bởi sự tăng dần của cảm hứng thế sự, đời tư.
4.2.3. Ngôn ngữ trữ tình
Với mục đích ngợi ca lý tưởng, ngợi ca cuộc sống, hướng tới
tương lai tốt đẹp và thể hiện niềm tin, niềm lạc quan của con người
trong thời đại mới, tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1986 vẫn cần
17
có những trang văn lãng mạn, thấm đẫm chất thơ, bởi vậy mà ngôn
ngữ trữ tình luôn chiếm một tỷ lệ không nhỏ.
4.2.4. Ngôn ngữ tính dục
Được xem là thứ ngôn ngữ nhạy cảm khá gần với ngôn ngữ
sex (nếu thiếu tính nghệ thuật) song loại ngôn ngữ này lại xuất hiện
khá nhiều trong các tiểu thuyết viết về chiến tranh sau Đổi mới..
4.3. Giọng điệu trần thuật
Sau năm 1986, tính đơn thanh thuần nhất của giọng điệu đã
dần được thay thế bằng tính đa thanh và đối thoại, tiểu thuyết có sự
đan xen và phối hợp nhiều giọng điệu khác nhau.
4.3.1. Giọng hào sảng, ngợi ca
Sau năm 1986, chất giọng này vẫn được xem là giọng điệu cần
thiết khi miêu tả cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc nhằm ngợi ca
kháng chiến, ngợi ca con người với thái độ kính trọng, tự hào.
4.3.2. Giọng trào lộng, giễu nhại
Giọng điệu trào lộng, giễu nhại là chất giọng chủ đạo làm nên
tiếng cười. Nó giúp cho đời sống tinh thần của những người lính
thêm phần phong phú hơn.
4.3.3. Giọng cảm thương, ngậm ngùi
Từ sau Đổi mới, chất giọng cảm thương, ngậm ngùi gần như
chiếm vị trí chủ đạo với tần số xuất hiện dày đặc trên khắp các trang tiểu
thuyết của số đông nhà văn
4.3.4. Giọng triết lý, chiêm nghiệm
Đây là loại hình giọng điệu phổ biến trong tiểu thuyết viết về
chiến tranh thời Đổi mới. Cơ sở của giọng điệu này bắt nguồn từ tinh
thần dân chủ trong việc nhận thức lại lịch sử và mong ước lý giải về
những vấn đề trong cuộc sống của con người.
18
- Xem thêm -