BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Trần Thị Lan Hương
NGHỆ THUẬT MÚA TRONG SÂN KHẤU
RÔ BĂM VÀ DÙ KÊ CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Trần Thị Lan Hương
NGHỆ THUẬT MÚA TRONG SÂN KHẤU
RÔ BĂM VÀ DÙ KÊ CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ
Chuyên ngành : Lý luận và Lịch sử Sân khấu
Mã số: 9210221
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Lê Thị Hoài Phương
Hà Nội – 2017
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Nghệ thuật múa trong sân khấu Rô Băm và Dù
Kê của người Khmer Nam Bộ là công trình nghiên cứu do tôi viết dưới sự hướng
dẫn của GS. TS. Lê Thị Hoài Phương. Các trích dẫn và kết quả nghiên cứu nêu
trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 02 tháng 12 năm 2017
Tác giả luận án
Trần Thị Lan Hương
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN..................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT...................................................................... 3
QUY ƯỚC VỀ CÁCH VIẾT, TÊN GỌI MỘT SỐ DANH TỪ RIÊNG............. 4
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI........................ 20
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài................................................................................. 20
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài ............................................................................ 37
Tiểu kết.................................................................................................................... 56
Chương 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHỆ THUẬT MÚA TRONG SÂN
KHẤU RÔ BĂM VÀ DÙ KÊ ............................................................................... 58
2.1. Những đặc điểm của múa trong sân khấu Rô Băm của người Khmer
Nam Bộ.................................................................................................................... 58
2.2. Những đặc điểm của múa trong sân khấu Dù Kê của người Khmer
Nam Bộ.................................................................................................................... 83
2.3. Những điểm tương đồng và khác biệt về múa trong sân khấu Rô Băm và
sân khấu Dù Kê ..................................................................................................... 95
Tiểu kết.................................................................................................................... 98
Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.............................. 101
3.1. Những vấn đề bàn luận của tác giả luận án………………….…..…........ 101
3.2. Đánh giá thực trạng hoạt động của sân khấu Rô Băm và Dù Kê…….... 117
3.3. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy NTSK Rô Băm và Dù Kê ........... 128
Tiểu kết.................................................................................................................. 134
KẾT LUẬN........................................................................................................... 137
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ.............. 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 142
PHỤ LỤC.............................................................................................................. 149
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Viết tắt
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
GS.TS
Giáo sư, Tiến sĩ
HCV
Huy chương Vàng
KH và CN
Khoa học và Công nghệ
NCKH
Nghiên cứu khoa học
NCS
Nghiên cứu sinh
NSND
Nghệ sĩ Nhân dân
NSƯT
Nghệ sĩ Ưu tú
NT
Nghệ thuật
NTBD
Nghệ thuật biểu diễn
NTDG
Nghệ thuật dân gian
NTM
Nghệ thuật múa
NTSK
Nghệ thuật sân khấu
Nxb
Nhà xuất bản
PGS.TS
Phó Giáo sư, Tiến sĩ
PL
Phụ lục
NTSKTT
Nghệ thuật sân khấu truyền thống
Ths
Thạc sĩ
THVHNT
Trung học Văn hóa Nghệ thuật
Tp. HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
Tr.
Trang
VHNT
Văn hóa Nghệ thuật
VH – TT
Văn hóa – Thông tin
VHTTDL
Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Việt Nam
4
QUY ƯỚC VỀ CÁCH VIẾT MỘT SỐ DANH TỪ RIÊNG
1. Cách viết tên gọi tộc người “Khmer”
Được biết, Khmer là từ được viết theo phiên âm tiếng Pháp. Tiếng Việt phiên
âm thành Khơ-me.
Qua nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài luận án, tác giả luận án
nhận thấy cách viết danh từ riêng – tên gọi của tộc người Khmer không thống nhất.
Có một số tác giả viết là “Khơ – me”, một số ít viết liền thành “Khơme”, nhiều hơn
cả là các tác giả viết “Khmer”. Đặc biệt, trong hầu hết các công trình nghiên cứu
được hoàn thành từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, từ các sách đã xuất bản
cho đến các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, hay các luận văn, khóa luận đều
thống nhất viết là “Khmer”. Vì vậy, để cho thống nhất với cách viết phổ biến nhất
trong hầu hết các tài liệu mà luận án tham khảo, trích dẫn, NCS cũng sử dụng cách
viết là “Khmer”.
2. Tên gọi, cách viết “Rô Băm”, “Dù Kê”
Về tên gọi và cách viết cụm từ “Rô Băm” có sự khác nhau giữa các nhà
nghiên cứu. Có người viết là “Rôbam”, một số người viết là “Rô băm”, thậm chí có
tác giả viết là “Ròbâm”..., nhưng phổ biến hơn cả là “Rô Băm”.
Về sân khấu Dù Kê, có số ít nhà nghiên cứu viết là “Yukê”, hoặc là “Dù kê”, hay
“Dù Kê”...
Theo tác giả luận án, sở dĩ có sự khác nhau như vậy là do tùy thuộc vào cách
phiên âm từ tiếng dân tộc Khmer ra tiếng Việt của từng người viết.
Căn cứ vào cách viết phổ biến nhất và gần đây nhất, tác giả luận án chọn
cách viết “Rô Băm” và “Dù Kê” để sử dụng thống nhất trong toàn bộ luận án này.
Trong trường hợp trích dẫn từ công trình nghiên cứu nào đó, với tinh thần tôn trọng
tác giả của các công trình ấy, tác giả luận án sẽ trích dẫn nguyên văn, đúng như văn
bản.
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam có 54 dân tộc chung sống hòa bình trên mảnh đất hình
chữ S, hầu như dân tộc nào cũng có những nét văn hóa độc đáo, đặc sắc, phản ánh
tư tưởng, tình cảm, lối sống, phong tục, tín ngưỡng của dân tộc mình; đồng thời có
những nét văn hóa là kết quả của sự tiếp biến, giao thoa trong quá trình cộng sinh
hay giao lưu giữa các dân tộc trong vùng và trong khu vực. Vùng văn hóa Nam Bộ
là nơi tập trung sinh sống của đồng bào các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm,
Stiêng... Trong đó, tộc người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long được biết đến là
một cộng đồng cư dân đông đúc, có một kho tàng văn hóa nghệ thuật truyền thống
rất phong phú và đặc sắc.
Người Khmer Nam Bộ sáng tạo nên nhiều thể loại, loại hình NTBD đặc sắc
gồm dân ca, âm nhạc, múa và sân khấu. Nhiều bài hát dân ca, các điệu múa dân
gian truyền thống và các hình thức sân khấu đã gắn bó với đời sống của người dân
Khmer hàng trăm năm nay, là món ăn tinh thần không thể thiếu của cộng đồng
người Khmer, hiện diện trong cuộc sống hàng ngày của họ, trong các lễ nghi tôn
giáo và tín ngưỡng, trong các lễ hội, đám cưới, đám ma, đám rước, trong sinh hoạt
cộng đồng... Người Khmer rất thích múa và ai cũng biết múa, từ già, trẻ, gái, trai –
ai ai cũng hiểu biết và có thể trình diễn các điệu múa dân gian Khmer. Rồi dần dần
các điệu múa dân gian trong sinh hoạt được những người nghệ sĩ dân gian tài ba bồi
đắp, hoàn thiện thành những điệu múa biểu diễn trên sân khấu chuyên nghiệp của
người Khmer. Hơn thế nữa, múa, hát là chất liệu đặc trưng để người Khmer sáng
tạo nên các thể loại sân khấu kịch hát riêng của mình, là sân khấu Rô Băm và Dù
Kê. Nói đến người Khmer ở Nam Bộ là người ta nghĩ ngay đến NTM, đến NTSK
cổ truyền Rô Băm và sân khấu Dù Kê. NTSK kịch hát Khmer Nam bộ là nơi hội tụ
nhiều loại hình nghệ thuật như ca hát, múa, âm nhạc, thơ văn, hội họa, nghệ thuật
tạo hình, v.v… trong đó, NTM Khmer chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
Từ lâu nền văn hoá - nghệ thuật đặc sắc của người Khmer Nam Bộ đã thu hút
sự chú ý của nhiều học giả, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian. Các nhà nghiên
6
cứu đã tìm hiểu, mô tả, phân tích, khái quát các yếu tố, thành tố của kho tàng
VHNT phong phú của người Khmer Nam Bộ từ nhiều góc độ khác nhau. Trong đó,
NTM, âm nhạc và sân khấu của người Khmer được nhiều người quan tâm. Từ
những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước cho đến nay đã có khá nhiều công
trình NCKH, nhiều bài viết nghiên cứu, các luận văn thạc sĩ, các hội thảo khoa học
bàn về VHNT của người Khmer Nam Bộ được công bố. Tuy nhiên chưa có công
trình nghiên cứu lớn nào tập trung nghiên cứu đồng thời cả hai hình thức sân khấu
Rô Băm và Dù Kê, và đi sâu hơn nữa là nghiên cứu về NTM trong hai hình thức sân
khấu này.
Nghiên cứu một cách có hệ thống về hai hình thức sân khấu đặc sắc của
người Khmer Nam Bộ là Rô Băm và Dù Kê với vai trò quan trọng của NTM trong
đó, là nhu cầu thiết thực của ngành múa Việt Nam nói riêng, ngành NTBD ở nước
ta nói chung, nhằm giải quyết những vấn đề về mặt lý luận cũng như thực tiễn để
giúp cho công tác bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật đặc sắc của các dân
tộc thuộc đại gia đình Việt Nam trong tiến trình phát triển của đất nước.
Là một nghệ sĩ múa hiện đang làm công tác giảng dạy về múa và tham gia
công tác quản lý đào tạo trong một trường đại học nghệ thuật, NCS nhận thấy đây là
một vấn đề có ý nghĩa thiết thực cho công tác chuyên môn của bản thân cũng như
cho công tác đào tạo của nhà trường, đồng thời đáp ứng đúng nhu cầu về mặt lý
luận cũng như thực tiễn của đời sống xã hội, phù hợp với đường lối văn nghệ của
Đảng ta là bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập
quốc tế. Đó là các lý do khiến NCS chọn đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ của
mình là “Nghệ thuật múa trong sân khấu Rô Băm và Dù Kê của người Khmer Nam
Bộ”, với mong muốn luận án sẽ có được những đóng góp mới mẻ trong việc nghiên
cứu về NTM và sân khấu của người Khmer Nam Bộ.
2. Khái lược tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài của luận án
Qua nghiên cứu các tài liệu thu thập được phục vụ cho việc viết luận án, tác
giả luận án phân chia tài liệu thành hai nhóm lớn sau:
7
- Nhóm thứ nhất: Gồm các công trình nghiên cứu chung về văn hóa của
nhiều dân tộc, trong đó có nói về VHNT của người Khmer Nam Bộ.
- Nhóm thứ hai: Gồm các công trình nghiên cứu trực tiếp về NTM, về sân
khấu Rô Băm và sân khấu Dù Kê của người Khmer Nam Bộ.
Để cụ thể hơn, trong mỗi nhóm lớn trên NCS lại phân loại tài liệu thành các
nhóm nhỏ hơn có cùng vấn đề hay đối tượng nghiên cứu.
2.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu chung có nói về văn hóa nghệ
thuật của người Khmer Nam Bộ
2.1.1. Các công trình nghiên cứu chung về văn hóa của một số dân tộc thiểu
số và dân tộc Khmer ở Nam Bộ.
Trước hết cần nói đến công trình nghiên cứu Người Khơ-me tỉnh Cửu Long
[46], công trình hợp tác giữa Viện Văn hóa (bộ phận thường trú tại thành phố Hồ
Chí Minh) và Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Cửu Long, xuất bản năm 1987. Cuốn
sách gồm có bốn chương, trong đó, chương III nói về Văn học và nghệ thuật của
người Khơ-me tỉnh Cửu Long. Trong phần này, tác giả Huỳnh Ngọc Trảng dành
nhiều trang viết về sân khấu Rô Băm (tác giả phiên âm là Ròbâm) và sân khấu Dù
Kê của người Khmer Nam Bộ. Tác giả cho rằng: “Đối với Ròbâm là loại hình vũ
kịch, các nhân vật đều lấy múa làm ngôn ngữ chính, và sau múa là hát và đối thoại”,
và “khác Ròbâm, Dù kê thuộc loại hình ca kịch – ca trở thành ngôn ngữ chính” [45, tr. 167].
Những nhận định trên đây sẽ được NCS bàn luận trong luận án của mình, vì
xác định chủng loại của sân khấu Rô Băm và Dù Kê cũng là một trong các nhiệm
vụ quan trọng mà NCS phải giải quyết trong luận án.
Tiếp sau đó, Viện Văn hóa (bộ phận thường trú tại Tp. HCM) lại có công
trình nghiên cứu Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ, được Nxb Tổng
hợp Hậu Giang xuất bản năm 1988 [46]. Đây là cuốn sách tập hợp các tham luận
tiêu biểu đã từng được công bố tại một số cuộc hội thảo khoa học về văn hoá, văn
nghệ truyền thống của người Khmer ở ĐBSCL...Trong số các bài nghiên cứu có bài
“Múa truyền thống của tộc người Khmer ở ĐBSCL” của tác giả Hoàng Túc, và bài
“Sân khấu của người Khmer ở ĐBSCL” của tác giả Đặng Vũ Thị Thảo khiến tác giả
8
luận án quan tâm, vì mặc dù các bài viết không cung cấp những nghiên cứu chuyên
sâu về sân khấu Rô Băm hay Dù Kê và về NTM trong đó, nhưng cũng là tài liệu có
giá trị, gợi ra nhiều vấn đề cho NCS tiếp tục tìm hiểu, nhất là khi đi nghiên cứu điền
dã, phỏng vấn nghệ nhân và lãnh đạo địa phương.
Năm 1993, cuốn sách Văn hóa người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, do Trường Lưu làm chủ biên [39], được xuất bản. Đây là tư liệu quý cho
những ai quan tâm đến VHNT truyền thống của người Khmer Nam Bộ. Nhưng về
NTM và sân khấu Rô Băm và Dù Kê thì cuốn sách này cũng chỉ dừng ở mức độ
giới thiệu khái quát những nét cơ bản.
Năm 1993, Viện Sân khấu, Vụ Văn hóa dân tộc – Miền núi và Hội Văn hóa
các dân tộc thiểu số phối hợp tổ chức hội thảo khoa học về bảo tồn và phát triển sân
khấu các dân tộc, vào ngày 15 tháng 11 tại Hà Nội. Sau đó, các bản tham luận đã
được tập hợp lại và in thành Kỷ yếu Bảo tồn và phát triển Nghệ thuật sân khấu các
dân tộc [47]. Trong số 20 bài tham luận có một số bài đề cập trực tiếp tới sân khấu
của người Khmer Nam Bộ. Những bài viết này xem xét sân khấu Rô Băm và Dù Kê
của người Khmer Nam Bộ trong bối cảnh chung của đất nước và trong mối tương
quan với các loại hình sân khấu khác của các dân tộc anh em, đáng để NCS tham khảo.
Cũng viết về sân khấu các dân tộc thiểu số nhà nghiên cứu sân khấu Nguyễn
Huy Hồng có sách Truyền thống sân khấu các dân tộc ít người Việt Nam [29]. Nội
dung cơ bản của cuốn sách là sưu tập tư liệu về truyền thống sân khấu các dân tộc ít
người ở Việt Nam. Trong đó tác giả đã đánh giá cao hai loại hình sân khấu Rô Băm
và Dù Kê của người Khmer Nam Bộ, coi chúng là những loại hình sân khấu thực
thụ, đã có lịch sử và trình độ phát triển đáng kể, đạt đến trình độ của loại hình sân
khấu độc lập. Điều đặc biệt là tác giả đã xếp cả Rô Băm và Dù Kê vào chủng loại
Kịch hát, giống như Tuồng, Chèo, Cải lương, Ca kịch Bài chòi, Ca kịch Huế và sân
khấu Dá Hai của người Tày – Nùng ở Cao Bằng [29, tr. 7]. Đây là một ý kiến được NCS
quan tâm.
Trong số các công trình nghiên cứu chung về văn hóa các dân tộc ở Việt
Nam còn có sách: Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ - thực trạng và những vấn đề
9
đặt ra, GS.TS. Trần Văn Bính chủ biên, xuất bản năm 2004 [5]. Cuốn sách là tài
liệu có giá trị để NCS tham khảo, tăng thêm sự hiểu biết về văn hóa tộc người
Khmer ở Nam Bộ.
2.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan gián tiếp đến văn hóa nghệ thuật
của người Khmer Nam Bộ
Có một số nhà nghiên cứu đã dành tâm huyết để nghiên cứu về các nước có
mối quan hệ mật thiết với Việt Nam từ xa xưa, đó là Ấn Độ và Campuchia. Bằng
cách gián tiếp đó, các công trình này cũng rất có giá trị đối với luận án của NCS, vì
đã cung cấp nhiều thông tin có liên quan đến đề tài của luận án, giúp cho NCS sáng
tỏ thêm nhiều vấn đề khi NTM của người Khmer Nam Bộ có chung nguồn gốc với
NTM cổ điển của Hoàng cung Campuchia và sân khấu Rô Băm đã sử dụng tích
truyện lấy từ anh hùng ca Ramayana của Ấn Độ...
Trước hết cần nói tới tác giả Lê Hương, một người từ trước năm 1975 đã có
khá nhiều công trình nghiên cứu về đất nước Ăngkor, về lịch sử Cao Miên, sử Phù
Nam, về người Khmer ở Campuchia và ở Việt Nam... Từ năm 1969 Lê Hương đã
có sách Tìm hiểu Angkor (Đế Thiên, Đế Thích) [32]; ông cũng là người đã dịch
cuốn Chân Lạp Phong thổ ký của Châu Đạt Quan [13], ấn hành lần thứ nhất vào
năm 1973 tại Sài Gòn. Với tác giả luận án, cuốn Người Việt gốc Miên [31] có giá trị
tham khảo rất bổ ích. Những điều về NTM được tác giả Lê Hương miêu tả trong
cuốn sách tuy còn ít ỏi, nhưng rất quan trọng khi chỉ ra nguồn gốc của những điệu
múa của người Khmer Nam Bộ là được truyền sang từ Campuchia.
Cũng nghiên cứu về NTBD của Campuchia còn có nhà nghiên cứu Nguyễn
Đình Phúc, tác giả của cuốn sách Vài nét về văn nghệ truyền thống Campuchia (Ca
Múa Nhạc) [60]. Tác phẩm cho thấy tác giả là người am hiểu về văn hóa truyền
thống Campuchia nói chung và nghệ thuật ca, múa, nhạc truyền thống của đất nước
này nói riêng. Trong cuốn sách này phần nghiên cứu về múa là nguồn tư liệu quý
giá để NCS có thêm nhiều thông tin và hiểu biết hơn về NTM truyền thống của dân
tộc Khmer.
10
2.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về nghệ thuật sân khấu Rô Băm
và Dù Kê của người Khmer Nam Bộ
Đây là nhóm các công trình nghiên cứu chuyên về NTSK Rô Băm và Dù Kê
của người Khmer Nam Bộ, trong đó không thể thiếu phần nội dung nghiên cứu về
NTM, vì múa có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hai loại hình sân khấu này.
2.2.1. Các tham luận hội thảo về nghệ thuật sân khấu Rô Băm và Dù Kê
Từ những năm 80 của thế kỷ XX đã có một số hội thảo khoa học được tổ
chức với trọng tâm nghiên cứu là sân khấu Khmer Nam Bộ. Từ các cuộc hội thảo
này ban tổ chức đã chọn lọc các bài tham luận có chất lượng khoa học để in thành
sách hoặc kỷ yếu. Một trong những công trình như thế là cuốn sách Về sân khấu
truyền thống Khmer Nam Bộ [50]. Trong số các bài được in có bài nghiên cứu về
múa của Thạch Thảo "Rô Băm nghệ thuật thể hiện thần thoại bằng múa và mặt nạ"
và bài của Hoàng Thảo "Nghệ thuật múa có vai trò quan trọng trong ca kịch Rô
Băm", Du Kê. Tuy nhiên, hai bài này cũng chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu khái
quát chứ không đi sâu nghiên cứu các động tác, các nguyên tắc nghệ thuật, luật động
một cách có hệ thống.
Đến năm 2013 vấn đề nghiên cứu sân khấu Khmer Nam Bộ lại trỗi dậy, thu
hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, dẫn đến cuộc hội thảo khoa học NTSK Dù
Kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc. Hội thảo do UBND tỉnh Trà Vinh phối
hợp với Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ và Trung tâm VTV tại thành phố Cần Thơ tổ
chức, diễn ra tại Trường Đại học Trà Vinh, trong hai ngày 11- 12 tháng 11 năm
2013. Khoảng 70 bản tham luận của các nhà nghiên cứu trong cả nước in thành kỷ
yếu [53]. Sau đó, gần 40 bài tham luận của hội thảo đã được lựa chọn đăng trong
Tạp chí Khoa học của Trường Đại học Trà Vinh, số chuyên đề NTSK Dù kê Khmer
Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc, số 13, tháng 3 năm 2014 [54].
Trong số các bài tham luận tiêu biểu, đáng chú ý có hai bài viết về NTM của
Thạch Ba Xuyên và Thạch Thị Omnara. Trong bài “Từ múa Rô Băm đến diễn
xướng Dù Kê của người Khmer Tây Nam Bộ” tác giả Thạch Ba Xuyên đã chỉ ra
mối quan hệ tiếp nối từ sân khấu Rô Băm đến sân khấu Dù Kê, ông khẳng định:
11
“Chúng tôi quan niệm rằng: Nghệ thuật Dù kê hay kịch hát Dù kê được hình thành và
phát triển dựa trên nền tảng của múa Rô băm và hát Aday” [54, tr. 182]. Đây là một ý
kiến có giá trị khoa học mà NCS tiếp thu để soi chiếu khi nghiên cứu về mối quan hệ
giữa sân khấu Rô Băm và Dù Kê.
Trong bài “Vũ đạo trong Nghệ thuật sân khấu Dù Kê”, tác giả Thạch Thị
Omnara [59] cho thấy NTM được sử dụng trong sân khấu Dù Kê rất đa dạng và
phong phú. Tuy nhiên, đây chỉ là một bài tham luận ngắn nên tác giả chưa có điều
kiện nghiên cứu sâu hệ thống các động tác múa qua các vở diễn Dù Kê.
2.2.2. Các đề tài nghiên cứu khoa học về nghệ thuật sân khấu Rô Băm và Dù Kê
Đáng chú ý có hai công trình NCKH được thực hiện tại tỉnh Sóc Trăng, đều
vào năm 2012: công trình Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Rô Băm của dân tộc Khmer
Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng [27] do Sở KH và CN tỉnh Sóc Trăng và
Trường THVHNT phối hợp thực hiện, do Ths. Sơn Ngọc Hoàng làm chủ nhiệm đề
tài, và công trình Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù Kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn
tỉnh Sóc Trăng (giai đoạn từ năm 1920 đến năm 2000) [40] do Hội Văn học Nghệ
thuật tỉnh Sóc Trăng chủ trì, NSƯT – Ths. Sơn Lương làm chủ nhiệm đề tài. Đây là
hai công trình khoa học đầu tiên tập trung nghiên cứu về sự hình thành, phát triển,
những đặc điểm nghệ thuật của sân khấu Rô Băm và Dù Kê ở tỉnh Sóc Trăng.
Cả hai công trình nghiên cứu đã đem lại cho người đọc một cái nhìn tổng thể
về các yếu tố nghệ thuật có liên quan đến hai hình thức sân khấu này. Tuy nhiên,
phần nghiên cứu NTM trong sân khấu Rô Băm và Dù Kê mới chỉ mang tính giới
thiệu những nét khái quát nhất, những động tác múa cũng đã được thống kê, liệt kê
nhưng chưa đi sâu vào phân tích. Hai công trình này cũng chỉ giới hạn phạm vi địa
bàn nghiên cứu là tỉnh Sóc Trăng nên không thể cung cấp một cái nhìn tổng thể về
NTSK nói chung của người Khmer Nam bộ.
Công trình NCKH mang tính tổng thể về NTM truyền thống Khmer Nam Bộ
được giới chuyên môn ngành múa Việt Nam đánh giá cao là công trình NCKH cấp
Bộ Nghệ thuật múa truyền thống Khmer Nam Bộ [10], do GS.TS.NSND Lê Ngọc
Canh chủ nhiệm đề tài.
12
Trong công trình NCKH cấp Bộ này, PGS.TS.NSND Lê Ngọc Canh, đã đưa
ra những luận điểm khoa học về vai trò, vị trí của múa trong sân khấu Khmer Nam
Bộ với nhận định: Múa trong sân khấu Khmer là một thành tố cấu thành NTSK Dì
kê, Dù kê, Rô băm, múa là một phương tiện, là ngôn ngữ góp phần khắc họa tính
cách nhân vật, nội dung và tích truyện. Sân khấu Khmer nhất thiết phải có vai trò
của NTM [10, tr.127]. Tuy nhiên, vì đây là công trình nghiên cứu tổng thể NTM
truyền thống Khmer Nam Bộ nên việc nghiên cứu về NTM trong sân khấu Rô Băm
và Dù Kê chỉ là một phần nhỏ nên cũng còn sơ lược.
Về công trình nghiên cứu cá nhân có công trình viết Tìm hiểu sự hình thành
và phát triển nghệ thuật sân khấu Dù Kê dân tộc Khmer Nam Bộ [72] do Sang Sết
(bút danh của tác giả người Khmer Thạch Sết) sưu tầm và biên soạn. Công trình này
có giá trị như một tư liệu lịch sử về hoạt động của sân khấu Dù Kê tại Trà Vinh và
một phần ở Campuchia vào những năm 1920.
2.2.3. Các khóa luận, luận văn thạc sĩ về sân khấu Rô Băm và Dù Kê
Trong xu hướng càng ngày NTSK của người Khmer Nam Bộ càng được giới
nghiên cứu quan tâm, dăm năm trở lại đây đề tài này cũng được một số sinh viên
đại học và cao học chọn làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học và luận văn thạc sĩ.
Hầu hết các tác giả học tập hay công tác tại các tỉnh ĐBSCL, bản thân một số người
là người Khmer, vì vậy các khóa luận, luận văn của họ là nguồn tài liệu có giá trị để
tác giả luận án tham khảo.
Trong số 5 tài liệu mà NCS thu thập được có 1 bản khóa luận và 4 luận văn
thạc sĩ: luận văn tốt nghiệp Cử nhân của Thạch Thị Xi Nươl (2013), sinh viên
Trường Đại học Cần Thơ, có đề tài Điệu múa truyền thống của dân tộc Khmer đồng
bằng sông Cửu Long [57]; luận văn thạc sĩ Văn hóa học của Trần Thanh Tâm (2014),
Đại học Trà Vinh, với đề tài Nghệ thuật sân khấu Dù Kê tỉnh Trà Vinh [74]; luận văn
thạc sĩ Văn hóa học Kịch bản sân khấu Dù Kê từ văn học dân gian Khmer [87] của
Thạch Chane Vitu, bảo vệ tại Trường Đại học Trà Vinh năm 2015.
Đáng chú ý là luận văn thạc sĩ của Lâm Vĩnh Phương với đề tài Nghệ thuật
múa cổ điển trên sân khấu Rô băm Khmer Nam Bộ ở Sóc Trăng, chuyên ngành Văn
13
hóa Khmer Nam Bộ, bảo vệ năm 2014 tại Trường Đại học Trà Vinh [65]. Đề tài của
luận văn này rất gần gũi với đề tài của luận án của NCS nên là tài liệu có giá trị để
NCS tham khảo. Tuy nhiên, luận văn của Lâm Vĩnh Phương chỉ nghiên cứu NTM
cổ điển trên sân khấu Rô Băm ở Sóc Trăng, vì vậy, so với luận văn của tác giả Lâm
Vĩnh Phương thì luận án có phạm vi nghiên cứu rộng hơn, cả về đối tượng và nội
dung nghiên cứu lẫn địa bàn khảo sát.
Luận văn thạc sĩ Văn hóa học của Thạch Qui Nạt với đề tài Trang phục biểu
diễn trên sân khấu Dù Kê ở tỉnh Trà Vinh [41], bảo vệ tại Trường Đại học Trà Vinh
năm 2015, là công trình duy nhất lấy đối tượng nghiên cứu là trang phục biểu diễn
của sân khấu Dù Kê, ở tỉnh Trà Vinh. Đây là vấn đề mới mẻ và có ý nghĩa. Luận
văn giúp cho NCS có cái nhìn toàn diện hơn và sâu sắc hơn về sân khấu Dù Kê.
Tóm lại, tất cả những tài liệu mà NCS thu thập được, ở các mức độ khác
nhau đều rất hữu ích trong việc cung cấp các thông tin, tri thức về một lĩnh vực hay
khía cạnh nào đó về đặc trưng văn hóa và nghệ thuật của tộc người Khmer Nam Bộ,
nhất là về NTSK Rô Băm và Dù Kê, trong đó nổi bật lên có NTM. Trên cơ sở tham
khảo các tài liệu này, cùng với những kết quả nghiên cứu điền dã (điều tra thực địa,
tham dự, phỏng vấn...), tác giả luận án có thể hoàn thành những mục tiêu của luận
án đề ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu NTM trong sân khấu Rô Băm và Dù Kê của người Khmer Nam
Bộ luận án hướng tới giải quyết một số vấn đề mang tính lý luận cũng như thực tiễn
của NTM và NTSK.
Về mặt lý luận, hệ thống hóa và làm rõ thêm một số khái niệm trong NTM và
NTSK; đánh giá vai trò, vị trí của NTM trong sân khấu Rô Băm và Dù Kê, từ đó
xác định tên gọi chính xác, khoa học về kịch chủng, thể loại cho sân khấu Rô Băm và Dù
Kê.
Về mặt thực tiễn, luận án đề xuất một số ý kiến mang tính định hướng nhằm
góp phần bảo tồn và phát huy hai loại hình sân khấu Rô Băm và Dù Kê trong đời
14
sống đương đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, NCS tiến hành các nhiệm vụ sau:
- Thu thập các tài liệu có liên quan đến đề tài của luận án, nghiên cứu, đánh
giá và chọn lọc những thông tin, kiến thức có thể phục vụ cho việc thực hiện luận án;
- Hệ thống hóa các vấn đề mang tính lý luận về NTSK, trong đó có NTM,
làm cơ sở lý luận cho việc tiến hành luận án;
- Thực hiện một số chuyến nghiên cứu điền dã, điều tra thực địa tại hai tỉnh
Sóc Trăng và Trà Vinh để gặp gỡ và phỏng vấn nghệ nhân, các nhà quản lý các
đoàn nghệ thuật, thu thập tư liệu...
- Thông qua việc nghiên cứu tài liệu thứ cấp và nghiên cứu điền dã, làm sáng
tỏ các vấn đề nghiên cứu của luận án: làm rõ một số khái niệm liên quan; xác định
nguồn gốc, sự hình thành và các bước phát triển của sân khấu Rô Băm và Dù Kê, xác
định thể loại của hai hình thức sân khấu này; phân tích, đánh giá vai trò, ý nghĩa của
NTM trong sân khấu Rô Băm và Dù Kê;
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động của sân khấu Rô Băm và Dù Kê,
đề xuất một số ý kiến mang tính định hướng cho công tác bảo tồn và phát huy các
giá trị nghệ thuật đặc sắc sân khấu Rô Băm và Dù Kê Khmer Nam Bộ trong đời
sống xã hội đương đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài luận án là NTM trong sân khấu Rô
Băm và Dù Kê của người Khmer ở Nam Bộ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi vấn đề nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vai trò, ý nghĩa và đặc điểm nghệ thuật của NTM trong
sân khấu Rô Băm và Dù Kê của người Khmer Nam Bộ; xác định và hệ thống hóa các
đặc trưng nghệ thuật của sân khấu Rô Băm và Dù Kê.
4.2.2. Phạm vi không gian khảo sát
15
NCS đã thực hiện nghiên cứu điền dã tại hai tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng để
thu thập tài liệu và hình ảnh phục vụ cho việc thực hiện luận án.
4.2.3. Phạm vi thời gian
Luận án nghiên cứu các vấn đề có liên quan tới nguồn gốc hình thành của sân
khấu Rô Băm và Dù Kê, vì vậy phạm vi thời gian khảo sát là mở, không có giới hạn
nhất định, tùy thuộc vào các sự kiện lịch sử liên quan tới tộc người Khmer nói chung,
cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ - Việt Nam nói riêng.
5. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp tiếp cận
Nghiên cứu đề tài Nghệ thuật múa trong sân khấu Rô Băm và Dù Kê của
người Khmer Nam Bộ, tác giả luận án thấy rằng cần nhìn nhận đối tượng từ nhiều góc
độ khác nhau của lịch sử, theo cả hai chiều lịch đại và đồng đại... Có như vậy mới
thấy được cội nguồn, sự hình thành và quá trình phát triển của đối tượng nghiên cứu
này; đồng thời, trong quá trình phát triển của nó luôn có sự giao thoa và tiếp biến giữa
nhiều yếu tố văn hóa khác nhau theo quy luật vận động của xã hội.
Với đối tượng nghiên cứu có liên quan đến nhiều lĩnh vực (lịch sử, văn hóa
tộc người, NTSK, v.v...), tác giả luận án chọn phương pháp tiếp cận liên ngành để
lần lượt giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận án, trong đó cơ bản là các phương
pháp nghiên cứu của văn hóa học, nhân học văn hóa, nghệ thuật học, sân khấu học;
ngoài ra còn có sự tham gia của các phương pháp thuộc văn học, sử học, xã hội học,
v.v...
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp lịch sử: Việc thực hiện đề tài luận án không thể thiếu phương
pháp lịch sử vì tất cả các yếu tố văn hóa và nghệ thuật của người Khmer Nam Bộ
cần được xem xét trong các điều kiện, môi trường lịch sử cụ thể, theo chiều dọc
(lịch đại) và chiều ngang (đồng đại) của tiến trình lịch sử.
Để nghiên cứu NTM trong sân khấu Rô Băm và Dù Kê của người Khmer
Nam bộ, NCS sẽ đặt đối tượng nghiên cứu trong môi trường, điều kiện lịch sử, với
các mối quan hệ văn hóa tổng thể, dưới sự tác động qua lại giữa các bộ phận và các
16
yếu tố văn hóa, nghệ thuật của tộc người Khmer và của các dân tộc khác có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Phương pháp điền dã dân tộc học (field work): Đây là một phương pháp rất
quan trọng của luận án. NCS đã thực hiện bảy đợt đi nghiên cứu điền dã tại một số
tỉnh ở Nam Bộ có người Khmer sinh sống, nhưng chủ yếu là về hai tỉnh Trà Vinh và
Sóc Trăng, để thực hiện phỏng vấn các nghệ nhân, các nhà lãnh đạo ngành văn hóa,
lãnh đạo các đoàn nghệ thuật Rô Băm và Dù Kê. NCS đã ghi chép tỉ mỉ, ghi âm,
chụp ảnh các yếu tố liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án.
- Phương pháp quan sát tham dự (participant observation): Đây là một
phương pháp nghiên cứu rất quan trọng và phổ biến của các nhà nghiên cứu dân tộc
học - nhân học văn hóa, văn hóa học và của nhiều ngành khoa học khác. Khi đi điền
dã về địa phương NCS đã có điều kiện tham dự một số chương trình biểu diễn múa
và biểu diễn sân khấu Rô Băm và Dù Kê, có khi tham gia múa cùng với các nghệ
nhân, được các nghệ nhân hướng dẫn cho một số động tác múa Khmer cơ bản. Cùng
với phương pháp phỏng vấn nghệ nhân và phỏng vấn nhóm, phương pháp quan sát
tham dự đã giúp cho NCS nắm bắt và hiểu sâu sắc hơn các phong tục, tập quán, cách
nghĩ, cách cảm của người dân Khmer về văn hóa của dân tộc mình dưới góc nhìn của
người trong cuộc.
- Phương pháp nghiên cứu của nghệ thuật học và sân khấu học: Luận án
nghiên cứu về NTM, nhưng không phải nghiên cứu tác phẩm múa, vở diễn múa độc
lập, mà là NTM trong sân khấu Rô Băm và Dù Kê, tức là trong các vở diễn sân
khấu. Luận án sẽ chứng minh Rô Băm và Dù Kê là hai thể loại sân khấu kịch hát
Việt Nam; sẽ đánh giá vị trí, vai trò của NTM trong hai thể loại sân khấu này... Để
thực hiện được các nhiệm vụ này, tác giả luận án cần vận dụng các vấn đề lý thuyết,
lý luận của chuyên ngành nghệ thuật học, trong đó có sân khấu học, để lập luận,
phân tích, chứng minh và luận giải các hiện tượng cũng như bản chất của các đối
tượng nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng khá nhiều trong luận án khi
NCS so sánh NTM của sân khấu Rô Băm với NTM trong sân khấu Dù Kê; so sánh
17
sân khấu Rô Băm của người Khmer Nam Bộ với sân khấu của người Khmer ở
Campuchia; so sánh NTM và sân khấu của người Khmer Nam Bộ với NTM và sân
khấu của một số dân tộc khác...
- Phương pháp khảo tả được NCS vận dụng để miêu tả tỉ mỉ các động tác
múa, các tư thế múa, các hình thức múa, các điệu múa trong sân khấu Rô Băm và Dù
Kê.
- Các thao tác nghiên cứu cụ thể: thu thập tư liệu, nghiên cứu tư liệu thông
qua các thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát, đánh giá...
Nói tóm lại, để đạt tới mục tiêu nghiên cứu của đề tài, luận án cần phải vận
dụng cách tiếp cận phương pháp nghiên cứu liên ngành thì mới có thể đạt được
những kết quả mang tính khoa học và có đóng góp mới.
6. Các câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài luận án đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu cần phải được giải quyết
trong luận án này, đó là:
- Sân khấu Rô Băm và sân khấu Dù Kê của người Khmer Nam Bộ có nguồn
gốc xuất xứ từ đâu?
- NTM trong sân khấu Rô Băm và Dù Kê có đặc điểm gì?
- Múa trong sân khấu Rô Băm và múa trong sân khấu Dù Kê giống và khác
nhau như thế nào?
- Vai trò, ý nghĩa của NTM trong sân khấu Rô Băm và Dù Kê như thế nào?
Mối quan hệ giữa múa với các thành tố nghệ thuật khác trong vở diễn Rô Băm và
Dù Kê ra sao?
- Có phải NTM trong sân khấu Rô Băm có vị trí quan trọng nhất? Vậy sân
khấu Rô Băm thuộc thể loại gì?
- Sân khấu Rô Băm và Dù Kê của người Khmer Nam Bộ có mối quan hệ gì
với sân khấu của một số dân tộc khác trong khu vực?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
18
Trong khi nghiên cứu các tài liệu về sân khấu Rô Băm và Dù Kê, NCS nhận
thấy các nhà nghiên cứu có nhiều điểm không thống nhất trong cách gọi tên thể loại,
kịch chủng của sân khấu Rô Băm, hay cũng chưa xác định rõ ràng, dứt khoát về
nguồn gốc của hai hình thức sân khấu này. Những vấn đề này rất quan trọng trong
việc xác định vai trò của NTM trong sân khấu Rô Băm và Dù Kê.
Trên cơ sở các câu hỏi nghiên cứu nêu trên, NCS lập định một vài giả thuyết
như sau:
- NTSK Rô Băm bắt nguồn từ NTSK dân gian và sân khấu cung đình
Campuchia, sinh sôi trên vùng đất ĐBSCL; Còn NTSK Dù Kê hình thành và phát
triển trên vùng đất ĐBSCL.
- NTM có vai trò rất quan trọng trong sân khấu Rô Băm (và cả Dù Kê),
nhưng điều này không đủ để làm nên kịch chủng của Rô Băm là kịch múa; Sân
khấu Rô Băm thuộc chủng loại sân khấu kịch hát, đậm nét văn hóa truyền thống
Khmer, tiếp thu nhiều yếu tố nghệ thuật của sân khấu kịch hát Việt Nam trong quá
trình tiếp biến văn hóa.
Quá trình thực hiện luận án chính là quá trình đi tìm câu trả lời cho các câu
hỏi nghiên cứu, đồng thời là sự kiểm chứng, luận giải cho các giả thuyết khoa học
đã đặt ra.
7. Đóng góp của luận án
7.1. Đóng góp về mặt lý luận
Trước hết, luận án sẽ hệ thống hóa và làm rõ thêm một số khái niệm trong
NTM như: khái niệm về NTM nói chung, về các thể loại, hình thức múa cụ thể nói
riêng, phân biệt các thể loại múa (múa dân gian, múa tín ngưỡng/tôn giáo, múa cổ
điển/cung đình, kịch múa, v.v...); Luận án cũng làm rõ vai trò, vị trí của NTM trong
sân khấu Rô Băm và sân khấu Dù Kê, tìm ra sự tương đồng và khác biệt của NTM
trong hai thể loại sân khấu này; đồng thời xác định mối quan hệ giữa NTM với các
thành tố nghệ thuật khác trong các vở diễn Rô Băm và Dù Kê (ca, nhạc, kịch, cốt
truyện, hóa trang, hình tượng nhân vật,v.v...) từ đó xác định thể loại, kịch chủng
của hai loại sân khấu này.
- Xem thêm -