Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật múa sư tử trong văn hóa trung hoa...

Tài liệu Nghệ thuật múa sư tử trong văn hóa trung hoa

.PDF
29
439
101

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC W X BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỀ TÀI: NGHỆ THUẬT MÚA SƯ TỬ TRONG VĂN HOÁ TRUNG HOA 中国文化中舞狮艺术 NGƯỜI THỰC HIỆN : TRƯƠNG CẨM TÚ GIẢNG VIÊN KHOA ĐÔNG PHƯƠNG BIÊN HÒA, THÁNG 05 NĂM 2010 MỤC LỤC MỤC LỤC ............................................................................................................................2 DẪN NHẬP..........................................................................................................................4 1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................................4 2. Giới hạn đề tài ..............................................................................................................4 3. Lịch sử nghiên cứu .......................................................................................................4 4. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................................5 I. ĐỊNH VỊ MÚA SƯ TỬ THEO HỆ TỌA ĐỘ CHỦ THỂ - KHÔNG GIAN – THỜI GIAN ....................................................................................................................................6 1.1. Về mặt chủ thể...........................................................................................................6 1.1.1. Đôi nét về nghệ thuật múa sư tử .......................................................................6 1.1.2. Phân loại múa sư tử ..........................................................................................7 1.2. Về mặt không gian...................................................................................................12 1.3. Về mặt thời gian ......................................................................................................13 II. NGHỆ THUẬT MÚA SƯ TỬ XÉT TỪ CÁC BÌNH DIỆN VĂN HÓA ....................15 2.1. Văn hóa nhận thức...................................................................................................15 2.1.1. Múa sư tử thể hiện tinh thần thượng võ của người Trung Quốc....................15 2.1.2. Múa sư tử mang đến sự may mắn, cát tường ..................................................16 2.1.3. Múa sư tử thể hiện lối tư duy tổng hợp kết hợp phân tích của người Trung Quốc .........................................................................................................................17 2.2. Văn hóa tổ chức.......................................................................................................20 2.2.1. Biên chế tổ chức một đội múa sư tử ...............................................................20 2.2.2. Chương trình biểu diễn ...................................................................................21 2.2.3. Tính tôn ty trong giới múa Sư tử.....................................................................23 2.3. Văn hóa ứng xử .......................................................................................................24 2.3.1. Múa sư tử thúc đẩy sự giao lưu giữa các cộng đồng trong xã hội ..................24 2.3.2. Múa sư tử trong các lễ hội nông nghiệp, lễ hội tín ngưỡng dân gian .............25 2 2.3.3. Múa sư tử góp phần truyền bá tinh hoa văn hóa Trung Hoa ..........................26 KẾT LUẬN ........................................................................................................................27 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................28 ƒ Tài liệu sách ...............................................................................................................28 ƒ Tài liệu internet ..........................................................................................................28 3 DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Múa sư tử là một loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian vô cùng độc đáo của người Trung Quốc, là một trong những điệu múa có sức sống lâu đời nhất, mãnh liệt nhất và vẫn còn phổ biến trong hầu hết mọi hoạt động giải trí của người Trung Quốc. Trung Quốc vốn không phải là quê hương của sư tử. Vì sao người dân Trung Quốc yêu mến và sùng bái sư tử đến thế ? Múa sư tử có vai trò như thế nào trong đời sống văn hóa người Trung Quốc ? Múa sư tử thể hiện được những đặc điểm gì trong văn hóa Trung Hoa ? Để tìm đáp án cho những câu hỏi trên, tôi chọn múa sư tử là đề tài cho bài nghiên cứu khoa học của mình với mong muốn qua việc tìm hiểu nghệ thuật múa sư tử sẽ hiểu sâu hơn về con người và văn hóa Trung Hoa. 2. Giới hạn đề tài Nghệ thuật múa sư tử đã xuất hiện gần 2000 năm với cả một quá trình hình thành, phân hóa, phát triển từ nghệ thuật dân gian đến nghệ thuật cung đình, từ truyền thống đến cách tân… Ngày nay, nghệ thuật múa sư tử phát triển rộng rãi ở Trung Quốc và nhiều quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là những nơi có cộng đồng người Hoa sinh sống. Do thời gian và tài liệu nghiên cứu có hạn, tôi chỉ tập trung nghiên cứu về nghệ thuật múa sư tử hiện đại ở Trung Quốc đại lục. 3. Lịch sử nghiên cứu Mặc dù đây là môn nghệ thuật truyền thống rất phổ biến ở Trung Quốc và ở Việt Nam, nhưng tài liệu bằng tiếng Việt hầu như chỉ dừng lại ở một số bài viết có tính khảo cứu không cao được đăng trên một số báo và website ở Việt Nam, nội dung chủ yếu là giới thiệu sơ lược về nghệ thuật múa Lân (nam sư) ở Việt Nam. Những tài liệu bằng tiếng nước ngoài tuy phong phú hơn, nhưng tôi vẫn chưa tìm được tài liệu nào có tính khảo cứu cao phân tích từ góc độ văn hóa học. 4 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được tiếp cận theo phương pháp hệ thống – cấu trúc, so sánh – đối chiếu, trình bày theo hình thức lý luận văn hóa học, có kết hợp với các thao tác nghiên cứu khoa học khác như phân loại, phân tích, liệt kê … 5 I. ĐỊNH VỊ MÚA SƯ TỬ THEO HỆ TỌA ĐỘ CHỦ THỂ - KHÔNG GIAN – THỜI GIAN 1.1. Về mặt chủ thể 1.1.1. Đôi nét về nghệ thuật múa sư tử Múa sư tử là một nghệ thuật biểu diễn dân gian, mô phỏng động tác của sư tử, kết hợp vũ đạo với võ thuật và âm nhạc, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Về mặt khái niệm, trong “Từ điển văn hóa truyền thống” do Chu Kim Nguyên và Hùng Nguyệt Chi chủ biên có ghi nhận khái niệm “sư tử vũ”(狮子舞)1, nhưng đa số người Trung Quốc gọi tắt là vũ sư (舞狮) , người phương Tây gọi là lion dance, còn người Việt Nam gọi là múa lân và múa sư tử. Sư tử được du nhập vào Trung Quốc thông qua giao lưu văn hóa và buôn bán với Tây vực, được người Trung Quốc gọi là “bách thú chi vương” nghĩa là chúa tể trong thế giới động vật. Ban đầu, từ việc chuộng sức mạnh của nó, người dân đã làm rất nhiều đồ vật có hình dáng sư tử, trong kiến trúc, điêu khắc và hội họa đã xuất hiện nhiều chủ đề liên quan đến sư tử. Theo thời gian, cùng với sự yêu mến sư tử ngày càng nhiều, người dân muốn thổi hồn vào sư tử, muốn sư tử phải sống, phải hoạt động được, thế là họ làm mô hình sư tử, mặc quần áo sư tử và bắt chước các động tác, tư thế của sư tử … đó là những tác nhân ban đầu xuất hiện điệu múa sư tử.2 Tục múa sư tử vốn đã có từ rất lâu và nó vẫn còn phổ biến đến ngày nay. Nó không chỉ phổ biến ở Trung Hoa mà cùng với sự di dân của người Trung Quốc, môn nghệ thuật này đã phát triển ra khắp thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia ảnh hưởng văn hóa Hán và cộng đồng người Trung Quốc ở hải ngoại. Và bất cứ ở đâu hễ nghe tiếng trống lân (còn gọi là thất tinh cổ) vang lên lại làm rộn rã lòng người. Không ai có thể không ngừng lại hoặc ít nhất là không ngoái đầu nhìn về hướng phát ra âm thanh đó. Bao nhiêu đó cũng có thể thấy sự hấp dẫn của của tiếng trống trong nghệ thuật múa sư tử. 1 Chu Kim Nguyên, Hùng Nguyệt Chi 1996 : Văn hóa truyền thống ABC, NXB Hữu Nghị Sơn Đông Trung Quốc, 682 trang. 2 Theo Toàn Tiêu văn thể cục 2008 : Nguồn gốc của múa sư tử, đăng trên web site của Cục văn hóa thể thao thành phố Trừ Châu http://www.qjwtj.gov.cn/news.asp?ArticleID=173 6 Múa sư tử thường được biểu diễn trong các dịp ngày tết, lễ hội, góp vui cho những sự kiện quan trọng như khai trương, khai mạc, lễ mừng thọ … hoặc được người dân rước về nhà với mong muốn được may mắn, cát tường, xua đuổi tà mà… 1.1.2. Phân loại múa sư tử Nghệ thuật múa sư tử đã tồn tại ở Trung Quốc được hơn 2000 năm, trong suốt thời gian hình thành phát triển, về cơ bản có thể chia nghệ thuật múa sư tử thành hai trường phái chính : Đó là Nam Sư và Bắc Sư (hay Nam phái và Bắc phái)3. Theo quan điểm chính thống của người Trung Quốc, họ không phân biệt rõ là múa lân hay múa sư tử, tất cả được gọi chung là “vũ sư” (múa sư tử). 1.1.2.1. Nam sư 南狮 Gọi là Nam sư do chúng có nguồn gốc từ phía nam Trung Quốc, lấy sông Trường Giang là ranh giới. Tương truyền, Nam sư khởi nguyên từ núi Phật Sơn (Quảng Đông) cho nên giới học giả lấy Quảng Đông làm đại diện cho Nam sư, có nơi gọi nam sư là Quảng Đông Sư (广东狮). Ngày nay, nam sư rất phổ biến ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan…4 Nam sư chính là hình thức mà người Việt Nam gọi là múa Lân do sự khác biệt về hình thức đầu sư so với Bắc sư, tức là hình dáng đầu sư của phái Bắc sư trông giống như con sư tử, còn hình dáng đầu sư của phái Nam sư thì trông Hình 1.2.2.1. Nam sư giống một con Lân trong tứ linh. Một đặc điểm nữa của Nam sư là luôn có ông địa (tiếng Trung Quốc là Đại Đầu Phật 大头佛). Có nhiều cách giải thích về sự xuất hiện của nhân vật này, thậm chí cùng một cách giải thích có nhiều dị bản. Ví dụ, sư tử là “Phật môn linh thú”, nhưng do chưa 3 Trích dịch từ Trung Quốc Võng : http://www.china.com.cn/zhuanti2005/txt/2006-02/10/content_6115825.htm Theo Wushu Wenhua 2007 : Nam sư hòa bắc sư đích khu biệt, đăng trên web site “văn hóa võ thuật” (http://wushuwenhua.blog.hexun.com/12927606_d.html ) 4 7 giác ngộ Phật pháp nên Phật tổ sai Đại đầu Phật chăm sóc sư tử, ban cho Đại Đầu Phật cây gậy thần thông để ông ta giúp sư tử tu hành đắc đạo dành được chánh quả 5. Một thuyết khác cho rằng, xưa kia có một năm trời làm thiên tai, mất mùa, dân chúng chết như rạ. Phật Di Lặc là người tốt bụng đã tìm hiểu và biết được trên ngọn núi cao chót vót có loại cỏ Linh chi (thất diệp thất chi hoa) có thể chữa lành nhiều thứ bệnh. Nhưng loại cỏ này rất khó lấy vì nó được một con Sư tử canh giữ. Phật Di Lặc tìm cách mon men đến gần làm quen với con sư tử, dần dà ông trở nên thân thiết và cảm hóa được nó. Ông hái trộm được cỏ linh chi và rủ được con sư tử xuống núi giúp đời. Từ truyền thuyết này, trong các đám múa nam sư đều có chi tiết ông địa phe phẩy cái quạt để che cỏ linh chi đã trộm được.6 Hình 1.2.1.2. Ông địa Hình 1.2.1.3. Lân và ông địa 1.1.2.2. Bắc sư 北狮 Gọi là Bắc sư vì chúng thịnh hành ở phía bắc sông Trường Giang, có người gọi là Bắc phương Sư(北方狮), hoặc Bắc kinh Sư(北京狮)7 5 Su Hui Qing 1989 : The Lion Dance , Trung Hoa dân quốc kiều vụ xuất bản xã, TaiWan trang 26 Theo Lư Anh Cúc Mai 1992 : Múa Lân ngày tết, NXB Thông tin, trang số 4 7 Su Hui Qing 1989 : The Lion Dance , Trung Hoa dân quốc kiều vụ xuất bản xã, TaiWan, trang 10 6 8 Bắc sư được người Việt Nam gọi là múa Sư tử do hình dáng hoàn toàn giống một con sư tử. Ngày nay Bắc sư thịnh hành nhất trong Trung Nguyên, Hoa Bắc, Hoa Đông…, ở Việt Nam thì thịnh hành nhất trong cộng đồng người Triều Châu. Múa bắc sư không có ông địa, chỉ có người phối hợp cầm quả cầu hoặc những người mang các đạo cụ như bàn vuông, trụ tròn … để thể hiện các động tác của sư tử như lăn, trườn, chồm vồ mồi, ngủ, leo trèo … nên thường mềm mại, uyển chuyển, vì thế các võ sinh ở phái này thường cao gầy, nhanh nhẹn, giỏi khinh công. pHình 1.2.2.1. Bắc sư Hình 1.2.2.2. Sư vờn tú cầu ™ Sự khác biệt giữa Nam sư và Bắc sư Tiêu chí Nam sư Bắc sư Nam sư chỉ chú trọng làm đầu Khác với Nam sư chỉ chú trọng lân một cách công phu, trong phần đầu Lân, Bắc sư chú trọng khi phần thân đơn giản chỉ là tỉ mỉ hình thức toàn thân con sư Ngoại quan chung một tấm vải viền, vải thêu phủ tử, từ đầu đến chân đều được lên người diễn phía sau đầu may rất cẩn thận, thậm chí đôi Lân giày của võ sinh cũng phải có lông 9 - Trang trí cầu kỳ, sặc sỡ, màu - Đơn giản, trông giống đầu sư đỏ vàng là chủ yếu, không tử (chân sư) giống sư tử. Đầu sư - Miệng rộng, mắt lồi, lông - Phần mắt và miệng thường cố mày rậm, râu ngắn, phần mắt định và miệng có thể cử động được - Đôi khi có thêm sừng - Không có sừng - Nghệ nhân chỉ cần “đội” đầu - Nghệ nhân khi biểu diễn phải lân lên là có thể biểu diễn “mặc” vào, tương đối gò bó, Trang phục trong được rồi, rất linh hoạt. đòi hỏi sự ăn ý cao hơn giữa hai người trong biểu diễn. biểu diễn - Nghệ nhân có thể thay đổi - Không thay đổi trang phục các trang phục khác nhau được, chỉ có thể thay “áo sư tử” Có ông địa (Đại đầu Phật, Phật Không có ông địa, thay vào đó Ông địa Di Lặc) là một người cầm quả cầu để vờn sư, nhử sư Phong cách nhạc dân Phong cách nhạc cung đình, gian,cung đình. Trống cái với nhịp trống Bắc Kinh kết hợp Phối nhạc nhịp trống khác với Bắc sư, với thanh la, chũm chọe, tiếng phối với thanh la, chũm chọe pháo tiếng pháo Tả ý. Các động tác có ý nghĩa Tả thực. Cố thể hiện các động Tính chất vũ đạo tượng trưng, trừu tượng tác giống con sư tử thật, có tính cụ thể Bước chân Mã bộ Sư bộ (di chuyển theo bước ngựa) (di chuyển theo bước sư tử) 10 Tiết mục “ăn rau”( 采青) Tiết mục “Điểm tinh khai quang” Có Không Có Không Thường do người chủ trì tiến hành với ý nghĩa truyền sinh khí, có nguồn gốc từ tích “họa long điểm tinh” Nguồn gốc Nghệ thuật dân gian Nghệ thuật cung đình Chủ đề biểu diễn Phong phú Giới hạn Mặc dù về tên gọi thì người Trung Quốc không gọi là múa Lân, chỉ có tên gọi chung cho hai trường phái chính là múa sư tử, nhưng rõ ràng hình dáng “con sư tử” của phái Nam sư đích thị là một “con Lân”. Kỳ Lân(麒麟) theo từ điển Hán ngữ hiện đại có nghĩa “là một loài động vật trong truyền thuyết xưa, hình dáng giống hươu, trên đầu có sừng, toàn thân phủ kín vảy, có đuôi, được người xưa coi là điềm lành, gọi tắt là Lân”8. Những anh hùng kiệt xuất cũng được ví giống con Kỳ Lân. Đối với người Trung Quốc, Lân là một linh thú, một nhân thú (仁兽, chữ nhân này là “nhân ái”), hình ảnh con lân đã được người Trung Quốc thờ trong Thái Miếu ngay từ thời Khổng Tử và xếp vào bộ tứ linh là Long - Lân - Quy - Phụng. Người Trung Quốc cho rằng, kỳ lân là con vật huyền thoại có thể đi được cả trên cạn và dưới nước, được quy về một nhóm chung với Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ thành Thiên cung ngũ thú, chiếm lĩnh ngũ phương: phía đông có Thanh Long, phía Tây có Bạch Hổ, phía nam có Chu Tước, phía bắc có Huyền Vũ, trung tâm có Kỳ Lân9. 8 Theo Hiện đại Hán ngữ từ điển 2004, NXB Thương vụ ấn thư quán, Trung Quốc,trang 997 Theo Hồ Thùy Trang 2009 : Tìm hiểu con Kỳ Lân huyền thoại qua điêu khắc Chăm, đăng trên web Báo Bình Định, http://www.baobinhdinh.com.vn/nguyetsan/2009/10/81732/ 9 11 Người Trung Quốc coi kỳ lân là “tinh của ngũ hành”. Con đực gọi là kỳ, con cái gọi là lân. Chữ Kỳ Lân (麒麟) được cấu thành bởi chữ Lộc(鹿:con hươu) làm thiên bàng, thành phần còn lại chỉ là thanh bàng, chứng tỏ người xưa quan niệm con Lân có nguồn gốc từ hươu. Kỳ Lân thân hươu, đuôi trâu, móng ngựa, đầu một sừng, sắc vàng, tính nhân nghĩa không hại côn trùng và cỏ cây, tiếng tựa chuông vàng. Nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng “ lân đại diện cho uy quyền và công lý”. Có những phát hiện khác về ý nghĩa biểu tượng liên quan đến con lân như “dấu vết những con kỳ lân” để chỉ dòng vương giả, và thành ngữ “sừng kỳ lân” để chỉ các hoàng tử con trai một vị hoàng đế.10 Ngoài việc tượng trưng cho điềm lành, cát tường, Lân còn là biểu tuợng của sức mạnh, có năng lực hàng ma trừ yêu, xua đuổi tà khí. Người Trung Quốc khi tiến hành việc gì cũng sợ hư chuyện do bị ma quỷ phá phách, một trong những cách để chế ngự là mượn sức mạnh con Lân. Ví dụ, khi dọn đến nhà mới hay nơi ở mới, việc đầu tiên là tìm một mảnh giấy đỏ, ghi lên bốn chữ “Kỳ Lân tại thử” (麒麟在此 có nghĩa là : Kỳ Lân đang ở đây) để ma quỷ sợ mà tránh đi. Trên những cái nôi trẻ em nằm, người ta cũng viết bốn chữ Hán “kỳ lân tại thử”(麒麟在此)với hai tầng ý nghĩa, một là đứa trẻ này sẽ là anh hùng kiệt xuất và nó đang ở cái nôi này, ý thứ hai là ma quỷ thấy có kỳ lân ở đây mà tránh không hại đứa bé. Nhận thức về sức mạnh của Lân cũng được áp dụng nhiều trong kiến trúc và thuật phong thủy. Lân xuất hiện rất nhiều trong kiến trúc đền chùa, miếu, lăng tẩm … với ý nghĩa sẽ canh giữ, bảo vệ thần thánh, trấn áp tà ma … Nhiều người dân cũng đặt một cặp Lân đá hay sư tử đá ở cổng chính với ý nghĩa tương tự. 1.2. Về mặt không gian Nghệ thuật múa sư tử phổ biến khắp Trung Quốc và khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là những nơi có những cộng đồng người Trung Quốc sinh sống. Về mặt phân bố thì có hai trường phái như sau: 10 Theo Hồ Thùy Trang 2009 : Tìm hiểu con Kỳ Lân huyền thoại qua điêu khắc Chăm, đăng trên web Báo Bình Định, http://www.baobinhdinh.com.vn/nguyetsan/2009/10/81732/ 12 Các học giả theo trường phái chính thống của Trung Quốc căn cứ vào phong cách khác nhau của nghệ thuật múa sư tử mà chia thành hai vùng Bắc và Nam tương ứng với hình thức Bắc sư và Nam sư, lấy sông Trường Giang làm ranh giới. Phái Nam sư bắt nguồn từ phía nam sông Trường Giang, thường gọi Nam Giang, còn phái Bắc sư chủ yếu phân bố ở Hoa Bắc, Hoa Đông … nằm ở phía bắc sông Trường Giang nên gọi là Bắc Giang. Các học giả Đài Loan thì chia thành ba vùng là Đài Loan, Bắc Giang và Nam Giang ở Trung Quốc tương ứng với Đài Loan sư, Bắc sư và Nam sư. Ở Đài Loan lại chia thành hai vùng là Bắc Đài và Nam Đài lấy vùng Tân Trúc làm ranh giới tương ứng với Bắc bộ sư và Nam bộ sư theo cách gọi của Đài Loan. Thực tế thì Đài Loan Sư cũng là một hình thức của Nam Sư ở Trung Quốc, tức là hình thức giống con lân. Cơ sở của Đài Loan trong việc phân chia này là Bắc bộ sư có miệng mở, còn Nam bộ sư thì ngậm miệng. Vì thế người Đài Loan còn gọi Bắc bộ sư là “Khai khẩu sư”(开口狮, Open-mouth Lions, tức “sư há miệng”), còn Nam Bộ Sư còn gọi là “bế khẩu sư(闭口狮, closed-mouth Lions, tức “sư ngậm miệng).11 1.3. Về mặt thời gian Múa sư tử có một lịch sử lâu đời, mặc dù Trung Quốc vốn không phải là quê hương của sư tử. Đến nay, qua các phát hiện của khảo cổ học cũng như các sử liệu vẫn chưa hề phát hiện được bằng chứng nào cho thấy sư tử xuất hiện ở Trung Quốc thời cổ đại. Sư tử là kết quả của sự giao lưu giữa Trung Quốc và Tây Vực. Cách đây hơn 2000 năm Trung Quốc đã có sự giao lưu văn hóa và kinh tế với Ba Tư thông qua con đường tơ lụa. Các sứ giả và thương nhân Ba Tư đã mang đến Trung Quốc nhiều loài động vật lạ, trong đó có sư tử. Về sau, cùng với sự phát triển mối quan hệ giao lưu tốt đẹp giữa Trung Quốc và Tây Á, Ấn Độ …, ngày càng có nhiều sư tử được đưa vào Trung Quốc.12 11 Theo Su Hui Qing 1989 : The Lion Dance , Trung Hoa dân quốc kiều vụ xuất bản xã, TaiWan, trang 10 Theo Toàn Tiêu văn thể cục 2008 : Nguồn gốc của múa sư tử, đăng trên web site của Cục văn hóa thể thao thành phố Trừ Châu http://www.qjwtj.gov.cn/news.asp?ArticleID=173 12 13 Theo các sử liệu của Trung Quốc ghi chép lại thì múa sư tử có lẽ xuất hiện sớm nhất là vào thời Tam Quốc. Ghi chép sớm nhất về tập tục múa sư tử ở Trung Quốc được thấy trong cuốn “Hán thư” mục “Lễ nhạc chí" với hai chữ “tượng nhân”. Theo giải thích của danh sĩ Mãnh Khang người nước Ngụy (thời Tam Quốc) thì “tượng nhân” là từ dùng để chỉ các nghệ nhân dân gian hoá trang thành sư tử, cá, tôm …13 Đến thời Nam Bắc triều, trong dân gian đã phổ biến rộng các hình thức múa sư tử, đến thời Đường thì múa sư tử đã phát triển mạnh, quy mô lớn đến nỗi có lúc hàng trăm người cùng tham gia múa, thậm chí múa sư tử còn gọi là “Yên nhạc” được biểu diễn trong hoàng cung, nó còn có các tên gọi khác là “Thái bình nhạc” hoặc “Ngũ phương sư tử vũ”. Sau thời Đường, múa sư tử càng được lưu truyền rộng rãi hơn trong dân gian; cuốn “Đông Kinh mộng lục” ghi lại rằng, một số chùa chiền tổ chức ngày hội múa sư tử, sư sãi ngồi trên lưng sư tử tụng kinh. Trong cuốn “Đào Am mộng ức” của Trương Đại thời nhà Minh có giới thiệu không khí rước đèn, đánh trống khua chiêng trên đường phố, đâu đâu cũng thấy cảnh múa sư tử, người đi xem rất đông. Đến thời nhà Thanh thì trong bất cứ ngày lễ ngày hội nào cũng không thể thiếu được cảnh múa sư tử.14 “Múa sư tử” mà những sử liệu trên đề cập đến chủ yếu là chỉ Bắc sư. Từ hình tượng con sư tử của phái Bắc sư biến đổi thành con Lân rồi hình thành phái Nam sư diễn ra trong thời nhà Minh và phát triển đến ngày nay15. Có thể nói trải qua hàng nghìn năm, nghệ thuật làm sư tử, phong cách biểu diễn được truyền từ đời này sang đời khác ở những vùng miền khác nhau nên tạo sự khác biệt đa dạng nhưng vẫn giữ được những kỹ thuật biểu diễn rất điêu luyện, thể hiện trí tuệ, lòng dũng cảm và tinh thần lạc quan của dân và niềm lạc quan với cuộc sống. 13 Theo Lê Thái Dũng 2009 : Nguồn gốc tục múa sư tử ở Trung Quốc, đăng trên web site Vietinfo : http://vietinfo.eu/305/9062/nguon-goc-tu%CC%A3c-mu%CC%81a-su-tu%CC%89-o-trung-quoc.htm 14 Theo Lê Thái Dũng 2009 : Nguồn gốc tục múa sư tử ở Trung Quốc, đăng trên web site Vietinfo : http://vietinfo.eu/305/9062/nguon-goc-tu%CC%A3c-mu%CC%81a-su-tu%CC%89-o-trung-quoc.htm 15 Theo Liu Xiang 2009 : Giới thiệu về múa sư rồng Trung Hoa, đăng trên mạng Đông Phương, http://sports.eastday.com/s/20090401/u1a4282815.html 14 II. NGHỆ THUẬT MÚA SƯ TỬ XÉT TỪ CÁC BÌNH DIỆN VĂN HÓA 2.1. Văn hóa nhận thức 2.1.1. Múa sư tử thể hiện tinh thần thượng võ của người Trung Quốc Múa sư tử là một loại hình nghệ thuật, đồng thời là loại hình sinh hoạt võ thuật, thể hiện tinh thần “nhất thể” giữa võ thuật và nghệ thuật, vì vậy những nghệ sĩ múa sư tử đồng thời cũng là võ sinh, võ sĩ, võ sư; và những người yêu nghệ thuật múa sư tử ít nhiều cũng sẽ có tinh thần thượng võ. Tinh thần thượng võ là gì ? Thượng ở đây có nghĩa là “cao thuợng”, nhưng cũng nghĩa là “yêu chuộng” hay “tôn trọng”. Đã là con nhà võ, ngoài việc yêu thích võ thuật ra, còn phải có tinh thần cao thượng, biết lễ nghĩa. Sự tôn trọng và thán phục của mọi người dành cho những người theo võ học chính bởi tinh thần võ học ấy. Múa sư tử ngoài việc phải là người có trình độ võ thuật tương đối khá, người múa còn phải có sức khỏe vì múa sư tử đòi hỏi rất nhiều sức lực. Về nghệ thuật, múa sư tử (nhất là Nam sư) thường có 3 phần: biểu diễn nghệ thuật múa sư tử - biểu diễn võ thuật phô diễn nội công. Do vậy những người tham gia múa sư tử phải là những võ sư hoặc võ sinh có nghề, phải thể hiện được cái đẹp trong võ thuật, trang phục biểu diễn thường là võ phục… Thường thì các đội Lân sẽ theo một môn phái võ nào đó như Thiếu Lâm, Bạch Mi... Sắc thái võ thuật bao trùm suốt quá trình biểu diễn, vì vậy người xem muốn cảm được cái hay, cái tinh túy thì phải biết hoặc hiểu về võ học. Người Trung Quốc có một nền võ học đặc sắc và lâu đời. Có thể nói hầu hết người Trung Quốc đều yêu thích võ thuật. Nhận thức của người Trung Quốc với võ thuật có phần khác với các dân tộc khác, ngoài việc xem võ thuật là phương tiện để chiến đấu và tự vệ ra, nó còn được xem là phương pháp dưỡng sinh, phương pháp để tu thân. Vì vậy, Trung Quốc là mảnh đất màu mỡ cho võ thuật hình thành và phát triển. Trước kia, trong giới võ lâm thường tôn vinh "bát đại môn phái" (Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Côn Luân, Không Động, Thanh Thành, Hoa Sơn, Toàn Chân) hoặc "thất đại môn phái" (Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Côn Luân, Không Động, Thanh Thành, Hoa Sơn) võ thuật Trung Hoa, trong đó Võ Thiếu 15 Lâm được đề cao là ngôi sao Bắc đẩu. Gần đây nhất, trong cuốn Võ thuật thần kỳ của Trịnh Cần và Điền Vân Thanh, Trung Quốc, bản dịch được Nhà xuất bản Hà Nội, H. 1996 xuất bản, các tác giả khẳng định Trung Hoa bao gồm không dưới 500 võ phái khác nhau. Tinh thần thượng võ, lòng yêu mến võ học của người Trung Quốc còn thể hiện ở việc đông đảo các tầng lớp dân chúng tham gia tập luyện, ở việc thường xuyên tổ chức các cuộc thi đấu võ thuật, giống như thi đấu trong thể thao. Người giành được chiến thắng trong các cuộc thi đấu võ thuật sẽ rất có uy tín, được dân chúng tôn trọng và ca tụng. Là một môn nghệ thuật liên quan đến võ thuật, ngoài hoạt động chính là hoạt động biểu diễn, các đội Sư, đoàn Sư cũng tổ chức các cuộc thi đấu. Thời nhà Minh là thời kỳ hoạt động “đấu sư” phát triển mạnh nhất. Ngày đó trên đầu Nam sư có một cái sừng bằng sắt dùng để chiến đấu với đầu sư đối phương. Đầu sư thi đấu thường có mặt đen, người ta gọi là “Trương Phi sư”( 张飞狮)hoặc “Vũ sư”( 武狮 Vũ/wǔ/ đây có nghĩa là Võ thuật, đồng âm với Vũ 舞/wǔ/ có nghĩa là múa). Sau này, hoạt động “đấu sư” giảm dần theo những thăng trầm của lịch sử, cái sừng bằng sắt ngày nào được thay thế bằng chất liệu không có tính sát thương và chỉ còn là vật trang trí cho đầu sư16. 2.1.2. Múa sư tử mang đến sự may mắn, cát tường Người Trung Quốc tin rằng múa sư tử có thể xua đuổi tà khí, mang lại may mắn, cát tường. Tương truyền vào thời nhà Minh có một con quái thú trên đầu có sừng xuất hiện ở Phật Sơn gây hại cho dân lành. Người dân đã nghĩ ra một cách là “dĩ thú trị thú”, dùng tre, giấy bồi, hồ dán … làm thành một con sư tử có một sừng, sau đó người dân dùng con sư tử giả này kết hợp với khua chiêng gõ trống, đốt pháo … làm cho con quái thú kia sợ mà chạy mất. Từ đó, múa sư tử có ý nghĩa xua đuổi tà khí, mang lại may mắn, yên bình. Vì thế, múa sư tử tham gia hầu hết các lễ hội nông nghiệp, các lễ hội tín ngưỡng dân gian, các dịp khai trương, khánh thành, lễ mừng thọ …với mong muốn bình an, mưa thuận gió hòa, vạn sự như ý. 16 Theo Toàn Tiêu văn thể cục 2008 : Nguồn gốc của múa sư tử, đăng trên web site của Cục văn hóa thể thao thành phố Trừ Châu http://www.qjwtj.gov.cn/news.asp?ArticleID=173 16 Rất nhiều thứ liên quan đến múa sư tử đều tượng trưng cho sự may mắt (cát tường vật). Phần lớn các đội Nam sư đều có cờ thêu hoặc vẽ chùm sao Thiên Vương (thất tinh) với ý nghĩa cầu phúc cho gia chủ kiết tường như ý. Người Trung Quốc tin rằng, những ai may mắn nhìn thấy chòm sao Thiên Vương (có bảy ngôi sao) vây quanh mặt trăng thì sẽ giàu có muôn đời, có tâm sự gì cứ ước nguyện sẽ được mãn nguyện. Vì thế, trong chương trình múa Nam sư có một tiết mục đặc biệt là “thất tinh bản nguyệt”. Người ta xếp bảy cái siêu bằng đất theo mô hình chòm sao Thiên Vương, ở giữa có quả dưa hấu hoặc thau nước tượng trưng cho mặt trăng. Nhịp múa phải nhanh, vui, nhưng không được để cho siêu đất bị vỡ, đòi hỏi kỹ thuật cao, chỉ biểu diễn cho những gia chủ đặc biệt.17 Trống đánh trong các cuộc múa sư tử gọi là Thất Tinh Cổ (trống bảy sao). Người đánh trống phải là người trưởng phái, hoặc phụ tá thứ nhất của trưởng phái. Trống đánh phải có bài bản, phù hợp với các bộ pháp như chào, lạy, nằm, leo lên, tuột xuống, lúc khoan lúc nhặt, lúc dồn dập liên hồi như trống trận, mới diễn tả hết hùng khí của lân, oai phong của sư. Người Trung Quốc tin rằng, chỉ cần nghe thấy giai điệu rộng ràng, vui tai của Thất Tinh Cổ là có thể xua đi ám khí, nghinh đón tài lộc, may mắn. 2.1.3. Múa sư tử thể hiện lối tư duy tổng hợp kết hợp phân tích của người Trung Quốc Xét về loại hình văn hóa trong không gian văn hóa, Trung Quốc có nền văn hóa gốc nông nghiệp trọng động. Trung Quốc có loại hình văn hóa chuyển tiếp trọng thế tục, tương ứng với nó là lối tư duy tư duy tổng hợp kết hợp với phân tích rất rõ nét.18 Cùng là nghệ thuật múa sư tử, nhưng lại có hai phong các tương đối khác biệt nhau. Bắc sư thể hiện lối tư duy của người phía Bắc Trung Quốc thiên về phân tích, còn Nam sư thể hiện cho lối tư duy của khối cư dân phía Nam sông Trường Giang (thuộc khối Bách Việt ) thiên về tổng hợp. 17 18 Theo Lư Anh Cúc Mai 1992 : Múa Lân ngày tết, NXB Thông tin, trang số 7 Theo Trần Ngọc Thêm 2007 : Lý luận Văn hóa học (tập bài giảng), trang 61 17 Bằng lối tư duy thiên về phân tích, người phía Bắc Trung Quốc tạo ra con Sư trong phái Bắc sư trông giống con sư tử thật, từ đầu sư, thân sư, đuôi sư, ngay cả giày của võ sinh cũng phải có lông để giống với sư tử thật. Múa sư tử ban đầu thịnh hành nhiều trong quân đội, sau đó trở thành thú tiêu khiển trong cung đình nên cũng bị chi phối bởi văn hóa du mục phương Bắc. Đó là rất nguyên tắc, bài bản, giữ niêm luật, ít phá cách. Trong khi con Lân bên phái Nam sư bản thân đã là sự phá cách từ hình tượng con sư tử, sinh sau đẻ muộn mớixuất hiện vào thời kỳ đầu nhà Minh, từ đó đến nay liên tục điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với thị hiếu của các loại lễ hội dân gian khác nhau, các nhu cầu đa dạng của gia chủ … Ví dụ : Cách đánh trống và nhịp trống của Bắc sư hầu như giữ nguyên qua năm tháng, cơ cấu dàn nhạc khí cũng thế, nhưng phái Nam sư thì từ 4 cách đánh trống Lân ban đầu, bây giờ có tới 12 cách đánh với nhịp trống rất đa dạng. Đặc biệt là gần đây, tuy chưa phổ biến nhưng đã có đội Bắc sư đã múa Lân theo cách đánh trống trong dàn nhạc Tây.19 Trong nghệ thuật múa thì Bắc sư thiên về tả chân, tả thực, cụ thể, trọng yếu tố, nghĩa là làm sao biểu diễn càng giống sư tử càng tốt, trong khi Nam sư thiên về tả ý, biểu trưng nhiều hơn. Bằng lối tư duy thiên về tổng hợp, người phía NamTrung Quốc đã sáng tạo ra hình tượng con Lân – một loài vật được tổng hợp các đặc điểm của những loài động vật có thật khác : thân hươu, đuôi trâu, móng ngựa, da vẩy cá, độc sừng, sắc vàng, có nhân tính … Đây là một ví dụ rất điển hình của cách mà người Trung Quốc gọi là “tập mỹ”( 集美 : tập hợp cái đẹp vào một hình tượng), một cách gọi khác của lối tư duy tổng hợp20. Lối tư duy tổng hợp của người Trung Hoa thể hiện rất rõ nét qua việc sáng tạo ra các chi tiết trang trí trên đầu Lân trong nghệ thuật múa Nam sư. Vì Lân là một linh thú, nên trong nghệ thuật trang trí trên đầu Lân phải quy tụ đầy đủ bộ Tứ linh (Long – Lân – Qui – Phụng). Sừng Lân, hai lỗ tai và đuôi kết thành hình tượng con rùa (Qui), Rồng (long) thể 19 Theo Lư Anh Cúc Mai 1992 : Múa Lân ngày tết, NXB Thông tin, trang số 9 Theo Vĩ Minh 2008 : Kỳ Lân Tại Thử, đăng trên web site Hoa Thanh Luận Đàn của Trung Quốc, http://bbs.voc.com.cn/topic-1591002-1-1.html 20 18 hiện ở qua đường kéo dài từ khóe miệng Lân ra tận quai hàm, cuộn thành song long, mỗi súc tu của Lân tượng trưng cho đầu một con rồng. Kết tinh độc đáo như thế, nên hình tượng của Lân càng trở nên oai phong, kỳ diệu trước con mắt thẩm mỹ dân gian của người Trung Quốc. Bất luận là Lân lớn hay nhỏ, thậm chí là Lân đồ chơi của trẻ con cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc tượng hình Tứ linh. Mọi sáng tạo đi lệch khỏi nguyên tắc này đều bị coi là còn ngờ nghệch với nghệ thuật múa Lân, thậm chí còn bị cho là vô dụng, bất kính.21 Hệ quả của lối tư duy tổng hợp là tính biểu trưng, tả ý, tả thần trong nghệ thuật nói chung, và môn nghệ thuật múa sư tử cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, nếu so sánh hai môn phái lớn trong múa sư tử thì Bắc sư thiên về tả thực hơn, còn Nam sư thiên về tính biểu trưng tả ý hơn. Muốn hiểu được nghệ thuật múa sư tử, nhất là múa Lân của phái Nam sư, người xem không những phải am hiểu lối biểu đạt của nghệ thuật biểu diễn mang nặng tính biểu trưng, mà còn phải nắm được những điển tích liên quan đến từng cử chỉ, từng chủ đề hay từng tiết mục. Ví dụ : - Một con Lân biểu diễn gọi là “Độc chiếm ngao đầu": thể hiện tài tả xung hữu đột, tiến thoái nhịp nhàng, bộ pháp hùng dũng, nhảy cao, trèo giỏi, tượng trưng cho cái uy, cái dũng của một mãnh tướng, một hảo hán, một vị anh hùng. - Hai con Lân biểu diễn gọi là "Song hỉ" : thể hiện niềm hân hoan khoan khoái, tâm đầu ý hợp như loan với phụng, như vợ với chồng, như đất trời và âm dương tương hợp. - Ba con Lân biểu diễn gọi là "Tam Tinh" : Ba con lân cùng múa với ba màu vàng, đỏ, đen, tượng trưng cho Phúc tinh, Lộc tinh, Thọ tinh. Cũng là ba con Lân cùng múa, cũng là ba màu vàng đỏ đen nhưng khác màu râu thì lại mang ý nghĩa khác. Một tiết mục khác gọi là “Tam Anh” tượng trưng cho "Ðào viên kết nghĩa" , Lân mặt vàng, râu trắng (Lưu Bị), Lân mặt đỏ râu đen (Quan Vũ) và lân mặt đen, râu đen (Trương Phi), ba con lân 21 Theo Lư Anh Cúc Mai 1992 : Múa Lân ngày tết, NXB Thông tin, trang số 5 19 cùng múa, diễn tả Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi vừa hùng dũng, vừa có chí lớn, vừa thương yêu, gắn bó với nhau hơn cả anh em ruột thịt cho đến chết. - Bốn con Lân biểu diễn gọi "Tứ Quý hưng long", gồm bốn đầu lân trắng, vàng, đỏ, đen (hoặc xanh), tượng trưng cho bốn mùa, bốn phương, diễn tả sự sung mãn, trường thọ, mạnh khỏe và hạnh phúc. 2.2. Văn hóa tổ chức 2.2.1. Biên chế tổ chức một đội múa sư tử 2.2.1.1. Biên chế đội Nam sư Đối với Nam sư, mỗi khi cho một đầu Lân đi biểu diễn, biên chế một đội Lân tương ứng ít nhất là 15 người, bao gồm : - 2 người múa Lân (một người múa đầu, một người múa thân), cùng với 2 cặp khác (4 người) dự bị để thay thế múa Lân khi 2 người kia bị mệt. Vậy riêng khâu này cần tất cả 6 người. - 1 người đóng vai ông Địa (Đại Đầu Phật) - Nhóm đánh cồng gồm 3 người, gồm 2 người dùng đòn gánh để gánh cồng, 1 người đánh cồng - 2 người thay phiên nhau đánh trống (1 người đánh, 1 dự bị) - 1 người đánh chiêng - 2 người đánh chập chõe Khi đi biểu diễn, toàn đội mặc đồng phục là võ phục giống nhau, đeo đai ở thắt lưng cùng màu, duy chỉ khác nhau vị trí thắt đai lưng thể hiện vị trí khác nhau trong đội Lân. Nếu thắt đai ở bên trái thì là võ sinh, là người biểu diễn múa Lân hoặc biểu diễn võ thuật, nội công, thắt bên phải là bên nhóm phối nhạc chuyên đánh trống, đánh chiêng, và cồng, chập chõe, thắt ở chính giữa bụng chính là đội trưởng hoặc chủ đoàn Lân.22 22 Theo Su Hui Qing 1989 : The Lion Dance , Trung Hoa dân quốc kiều vụ xuất bản xã, TaiWan, trang 22 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan