Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngành da - giầy việt nam trong tiến trình đổi mới...

Tài liệu Ngành da - giầy việt nam trong tiến trình đổi mới

.DOC
152
194
51

Mô tả:

MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: THỊ TRƯỜNG DA - GIẦY THẾ GIỚI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM 1.1 Tình hình thị trường, đặc điểm và xu hướng phát triển của ngành Da - Giầy thế giới 1.1.1 Khái lược về thị trường Da giầy thế giới. 1.1.2 Đặc điểm ngành Da giầy thế giới 1.1.3 Xu hướng phát triển của ngành Da giầy thế giới. 1.2 Tiềm năng phát triển của ngành Da - Giầy việt nam 1.2.1 Vị trí của ngành Da – Giầy trong nền kinh tế Việt nam. 1.2.2 Những lợi thế và bất lợi của ngành Da - Giầy Việt nam. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 2.1 Động thái phát triển ngành Da - Giầy trong những năm qua 2.1.1 Các nguồn lực ngành Da - Giầy Việt nam. 2.1.2 Cơ cấu ngành Da - Giầy Việt nam. 2.1.3 Tổ chức quản lý ngành Da - Giầy Việt nam. 2.1.4 Thị trường và khả năng cạnh tranh của ngành Da - Giầy 3 7 7 7 20 22 25 25 27 30 31 33 49 53 57 Việt nam. 2.2 Đánh giá chung về thực trạng ngành Da - Giầy Việt 63 Nam CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ 73 CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGÀNH DA - GIẦY VIỆT 3.1 Bối cảnh mới - Những thách thức và cơ hội phát triển 73 đối với ngành 1 3.1.1 Tình hình trong nước. 3.1.2 Tình hình quốc tế. 3.2 Những định hướng chủ yếu phát triển ngành Da - Giầy 73 74 78 Việt Nam 3.2.1 Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi hình thức gia công sang 78 xuất khẩu trực tiếp. 3.2.2 Kết hợp sức mạnh của Doanh nghiệp với sự hỗ trợ của 79 Nhà nước. 3.3 Các giải pháp nhằm phát triển ngành Da - Giầy Việt 81 nam trong những năm tới. 3.3.1 Đào tạo nguồn nhân lực 82 3.3.2 Đầu tư phát triển sản xuất nguyên phụ liệu trong nước 83 3.3.3 Đầu tư phát triển khoa học công nghệ và đổi mới thiết bị 86 3.3.4 Đổi mới tổ chức quản lý 90 3.3.5 Củng cố và mở rộng thị trường 98 3.3.6 Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước 106 KẾT LUẬN 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112 PHẦN MỞ ĐẦU 1- Sự cần thiết của đề tài 2 Quá trình đổi mới trên đất nước ta đã tác động sâu sắc và mạnh mẽ tới các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, tới các ngành kinh tế, ngành Công nghiệp Da - Giầy là một trong những ngành xuất khẩu có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân về nhiều mặt như: thu hút nhiều lao động trong xã hội và có điều kiện thuận lợi trong hợp tác Quốc tế, đồng thời có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu và tiềm năng xuất khẩu lớn thu nhiều ngoại tệ về cho đất nước. Trong những năm qua, với những lợi thế của mình ngành Da Giầy Việt nam đã tiếp nhận một cách có hiệu quả sự chuyển dịch của ngành Da - Giầy thế giới và đã có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên ngành còn bộc lộ nhiều nhược điểm như: Phát triển một cách tự phát, thiếu qui hoạch, mất cân đối dẫn tới hiệu quả mang lại chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Đặc biệt, khi chuyển sang cơ chế thị trường, hoà nhập với thế giới và khu vực, ngành Da - Giầy nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức lớn là làm thế nào để tồn tại và ngày càng phát triển trong cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế, sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực sẽ tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội để xuất khẩu các mặt hàng của mình. Đó cũng là một thách thức lớn đối với Việt Nam, đặc biệt đối với ngành Da - Giầy, khi Trung Quốc một cường quốc về sản xuất da thuộc và giầy ra nhập WTO. Các nước trong khu vực hơn hẳn ta về trình độ công nghệ cũng như kỹ thuật, nên đòi hỏi sản phẩm của ngành sản xuất ra phải có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, hợp với thị hiếu của người 3 tiêu dùng và một điểm quan trọng hơn cả là phải hạ giá thành để tăng khả năng cạnh tranh trên trường Quốc tế. Nếu không khi hội nhập kinh tế khu vực và Quốc tế thì sản phẩm của ngành sẽ không có chỗ đứng ở ngay cả thị trường nội địa. Vì vậy, giá nhân công rẻ mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để cạnh tranh trên thị trường giầy và đồ da thế giới. Trong bối cảnh đó, để tồn tại và phát triển vững chắc, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng và phát triển ngành Da - Giầy trong điều kiện nền kinh tế hội nhập và phát triển là rất cần thiết, nhằm giúp ngành định hướng phát triển và khai thác có hiệu quả những nguồn lợi mà ngành công nghiệp mang lại. Do đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài : "Ngành Da - Giầy Việt Nam trong tiến trình đổi mới " nhằm góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra cho ngành, để ngành Da giầy Việt nam ngày càng phát triển tương xứng với vị trí và tiềm năng của nó. 2- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Cho đến nay, ngoài Qui hoạch tổng thể phát triển ngành Da Giầy đến năm 2010 của Bộ Công nghiệp - Tổng Công ty Da - Giầy mang tính chất quản lý. Ngoài ra trong thời gian qua cũng có nhiều bài báo, bài viết đăng trên các tạp chí bàn về vấn đề này. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một đề tài nghiên cứu tổng thể về phát triển ngành Da - 4 Giầy, những mặt còn tồn tại, những định hướng dài hạn và những giải pháp chiến lược. Chính vì vậy, sau những đánh giá về thực trạng phát triển ngành Da - Giầy và phân tích những thách thức đối với ngành và cơ hội phát triển, luận văn sẽ cố gắng đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phát triển không ngừng và nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. 3- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN Mục đích nghiên cứu là: Từ việc làm rõ thực trạng phát triển ngành Da - Giầy hiện nay, những thách thức đối với ngành và cơ hội phát triển - luận văn đưa ra định hướng chiến lược và các giải pháp cơ bản để phát triển ngành Da - Giầy trong những năm tới. 4- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1-Đối tượng Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu tình hình phát triển ngành Da - Giầy trong nền kinh tế thị trường Việt nam đang từng bước hội nhập với khu vực và thế giới. 4.2 - Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình phát triển ngành Da Giầy trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là từ nửa cuối thập niên 90 trở lại đây. 5 Luận văn không đi sâu nghiên cứu mặt kỹ thuật, mà tập trung làm rõ các quan hệ kinh tế xã hội chi phối sự phát triển của ngành Da - Giầy. 5- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Vận dụng tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trong đó có các phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp lôgic, phương pháp thống kê toán học, phương pháp so sánh tổng hợp... 6- NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò và vị trí của ngành Da - Giầy trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Làm rõ thực trạng của ngành Da - Giầy Việt Nam, những thành công, những tồn tại trong phát triển ngành Da - Giầy trong những năm qua. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam trong những năm tới. 7- BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm ba chương. CHƯƠNG 1: THỊ TRƯỜNG DA - GIẦY THẾ GIỚI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM 6 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM 7 CHƯƠNG 1: THỊ TRƯỜNG DA - GIẦY THẾ GIỚI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DA - GIẦY VIỆT NAM 1.1 Tình hình thị trường, đặc điểm và xu hướng phát triển của ngành Da - Giầy thế giới Hiện nay, ngành Da - Giầy thế giới có thể chia ra làm một số khu vực chính như sau: Khu vực Châu Âu gồm các nước thuộc Tây Âu và các nước thuộc Đông Âu; khu vực Châu Mỹ gồm các nước thuộc Nam Mỹ và các nước thuộc Trung và Bắc Mỹ; khu vực Châu Á; khu vực Châu Phi và Châu Đại Dương. 1.1.1 Khái lược về thị trường Da giầy thế giới Mỗi khu vực trên thị trường thế giới có một đặc điểm riêng và quá trình phát triển khác nhau. Thông qua thực trạng ngành công nghiệp giầy tại một số khu vực dưới đây phần nào sẽ cho ta thấy một cách nhìn tổng quan về thị trường Da - Giầy thế giới. * Mỹ Mỹ là thị trường tiêu thụ giầy dép lớn nhất thế giới, nhưng ngành công nghiệp sản xuất giầy dép của nước này lại không phát triển một cách tương xứng. Một trong những nguyên nhân đó là do giá nhân công trong nước ngày càng cao. Do vậy, để tăng khả năng cạnh tranh, ngày càng nhiều nhà sản xuất giầy dép Mỹ dịch chuyển quá trình sản xuất ra nước ngoài, nơi có lực lượng nhân công dồi dào và chi phí lao động rẻ. Bắt đầu từ những năm cuối của thập kỷ 70 và những năm đầu thập kỷ 80, để tận dụng lợi thế cạnh tranh, các Công ty nổi tiếng về giầy thể thao của Mỹ như Nikee và 8 Reebok đã sớm dịch chuyển sản xuất sang các nước Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... những quốc gia đang phát triển thời kỳ đó. Cùng với tốc độ công nghiệp hóa nhanh chóng ở Hàn Quốc, Nhật và Đài Loan vào cuối những năm của thập kỷ 80, giá nhân công tại các nước này không còn hấp dẫn, không còn là yếu tố để cạnh tranh nữa. Một lần nữa, các công ty này lại dịch chuyển quá trình sản xuất sang các nước Châu Á khác, nơi có nguồn nhân công với chi phí rẻ hơn để duy trì quá trình sản xuất và khả năng cạnh tranh, đó là Trung Quốc, Thái Lan, Inđônesia... Trong vài năm gần đây Mỹ vươn lên là thị trường nhập khẩu giầy dép lớn nhất thế giới về số lượng cũng như giá trị: Năm Nhập khẩu (triệu đôi) Tăng trưởng hàng năm 1998 1.476 1999 1.615 9,42 2000 1.745 8,05 (%) Năm 1998, Mỹ đã nhập khẩu 1476 triệu đôi, năm 1999 là 1615 triệu đôi và đến năm 2000 đạt 1745 triệu đôi, chiếm tới 15% thị trường nhập khẩu thế giới. Sau năm 2000 lượng giầy dép nhập khẩu sẽ chiếm trên 90% tổng số giầy tiêu thụ trên thị trường này. Các nước Châu á chiếm ưu thế trong việc cung cấp cho thị trường này. Trung Quốc dẫn đầu, chiếm khỏng gần 75% số lượng nhập khẩu của Mỹ, chủ yếu là sản phẩm giá rẻ. Braxin cung cấp sản phẩm giá trung bình, còn sản phẩm cao cấp phần lớn từ Italya và Tây Ban Nha. Đối với thị trường Mỹ, tính đến trước tháng 12/2001 tuy Mỹ chưa dành cho Việt nam qui chế thương mại bình thường nhưng 9 kim ngạch xuất khẩu giầy dép Việt nam vào thị trường này trong vài năm gần đây vẫn tăng lên nhanh chóng. Bảng1.1: Dự báo kim ngạch xuất khẩu giầy dép Việt nam sang Mỹ Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu 2000 Kim ngạch XK sang 87,8 2001 2002 2005 114,31 196,55 430 * 2010 850 * Mỹ Tỉ lệ tăng năm sau/năm 29,9 72,4 30 16 trước(%) Tỉ lệ so với toàn ngành 7,26 10,65 14 13,7 (%) 5,98 Nguồn: Hiệp hội Da giầy Việt nam - 2003 (*) Dự báo với tốc độ tăng trưởng bình quân 2002-2005 là 30%/năm. (*) Dự báo với tốc độ tăng trưởng bình quân 2005-2010 là 16%/năm. Theo số liệu của hải quan Mỹ, các giá trị kim ngạch giầy dép Việt nam xuất khẩu sang Mỹ tăng một lượng đáng kể, năm 1997 đạt 85 triệu USD, năm 1998 đạt 114,9 triệu USD, năm 1999 là 10 145,8 triệu USD và năm 2000 đạt 124,5 triệu USD với khoảng 6 triệu đôi giầy dép, đứng thứ 14 các nước xuất khẩu giầy dép vào Mỹ. * Châu Âu Liên minh Châu Âu (EU) là thị trường lớn thứ hai trong danh sách các nước và khu vực nhập khẩu với số lượng được ước tính là 29% lượng nhập khẩu của thế giới năm 1998-1999 và cũng là nơi có ngành công nghiệp Da - Giầy phát triển từ lâu đời. Mặc dù trong những thập kỷ trước 90, EU đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ về sản xuất và tiêu thụ, nhưng từ đầu thập kỷ 90 thì việc cạnh tranh mạnh tại các nước có giá nhân công thấp đã kéo theo sự phá vỡ vị thế của các cơ sở sản xuất trong nước, mức tăng trưởng sản xuất bị suy giảm thay thế vào đó là sự tăng trưởng nhanh chóng của nhập khẩu từ các nước ngoài vào. Trong số các nước thuộc EU thì Italia là nước đứng đầu về sản xuất giầy dép, hàng năm Italia chiếm khoảng 50% tổng sản lượng sản xuất của EU và trên 50% xuất khẩu ra ngoài EU. Tây Ban Nha là nhà sản xuất đứng thứ chiếm 17%; tiếp đó là Pháp 14%, Bồ Đào Nha và Anh 10%, Đức 4%. Tổng thể 6 nước này chiếm khoảng 97% tổng khối lượng sản xuất của EU (20). Đặc điểm nổi bật của ngành công nghiệp giầy dép của EU là sản xuất giầy dép bằng da, hàng năm ngành công nghiệp giầy khu vực này sản xuất khoảng 680 triệu đôi giầy dép da, chiếm hơn 60% tổng số lượng giầy dép của EU. Đối với mỗi chủng loại giầy dép lại có sự chú trọng khác nhau từ phía các nước thành viên: 90% giầy dép da 11 được sản xuất tại Bồ Đào Nha,Đức, Italia. Trong đó, dép đi trong nhà được sản xuất tại Bỉ, Anh và Pháp với việc sản xuất phần lớn giầy dép bằng chất liệu tổng hợp. Hiện nay, EU đang rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân thương mại trong ngành công nghiệp giầy. Tốc độ phát triển ngành giầy của EU chậm nếu không muốn nói là gần như không phát triển so với các khu vực khác. Nguyên nhân chính là bởi ngành giầy đòi hỏi một lực lượng công nhân tương đối lớn trong khi đó tiền công lại chiếm một tỉ trọng khoảng 20% trong giá trị sản phẩm, mà tiền lương trong khu vực lại rất cao. Vì vậy số lượng công nhân liên tục giảm trong vòng hơn 10 năm trở lại đây và kể từ năm 1995 cho tới 1999 số lượng công nhân giảm khoảng 28,44%. Bảng 1.2: Công nghiệp giầy dép của EU giai đoạn 2000 - 2002 Đơn vị tính: 1.000 đôi 2000 2001 2002 Chênh Chênh lệch lệch tỉ lệ% tỉ lệ% ( 4/3) 6 - 4,95 + 3,5 - 6,0 - 0,5 1 Sản xuất Nhập khẩu Xuất khẩu 2 907.986 958.209 243.397 3 889.000 964.000 233.400 4 845.000 992.800 219.350 ( 3/2) 5 - 2,10 + 0,6 - 3,7 * Số hữu 1.623.79 1.619.60 1.611.40 - 0,4 hiệu 8 0 0 12 Nguồn: World Footwear 2002 * Xuất khẩu tới nước thứ 3 Để giữ vững sự cạnh tranh, một số nhà sản xuất của các nước thành viên như Eram (Pháp), Clarks (Anh), Ecolet(Đan Mạch) đã chuyển việc thiết lập cơ sở sản xuất sang các nước thành viên khác trong EU - nơi có lực lượng nhân công rẻ hơn như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Ngoài ra, nhiều nhà sản xuất trong cộng đồng đã chuyển hoạt động sang các nước đang phát triển có lực lượng nhân công rẻ. Đông nam á, Trung Quốc là những nơi được các nhà sản xuất lựa chọn đầu tiên, kế đó là Đông Âu và Bắc Phi. Một số nhà sản xuất lớn muốn duy trì hoạt động tại Châu Âu như Adidas và Puma nhưng trước những khó khăn về chi phí sản xuất, sự hấp dẫn về giá cả tại các nước có nhiều lợi thế hơn, họ đã buộc phải chuyển sản xuất sang vùng Viễn Đông nhằm duy trì sức cạnh tranh với các đối thủ lớn khác như Nikee và Reebok ( Những nhà sản xuất đã chuyển được việc sản xuất giầy thể thao của mình sang các nước vùng Viễn Đông). Việc phân phối các sản phẩm giữa các nước thành viên EU được thực hiện theo truyền thống từ nhà sản xuất tới các hệ thống bán lẻ độc lập. Điều này cho thấy các hệ thống bán lẻ này có mối quan hệ rất mật thiết với các nhà sản xuất. Khu vực giầy dép trong liên minh Châu Âu phụ thuộc nhiều vào ngoại thương quốc tế, 30 % sản phẩm của EU đã đuợc xuất khẩu sang nước thứ ba như: Mỹ, Nga, Nhật Bản, Hồng Kông...Tuy 13 nhiên trị giá xuất khẩu của EU bị giảm nhiều mặc dù có sự tăng nhẹ trong những năm gần đây. Ngược lại, nhập khẩu từ bên ngoài vào EU bất ngờ tăng lên trong thời kỳ những năm 1990 và liên tục tăng kể từ đó đến nay, tăng trưởng thực tế hàng năm của nhập khẩu vào EU khoảng 10%. Một phần của sự tăng nhanh này phụ thuộc vào việc tăng nhập khẩu giầy bán thành phẩm để hoàn chỉnh trong EU. Tính trung bình hàng năm, EU nhập khẩu trên 800 triệu đôi giầy các loại từ các nước mà chủ yếu là từ Châu Á. Việc tăng trưởng nhập khẩu đột biến, ồ ạt từ các nước Châu Á trong những năm gần đây nhất là từ Trung Quốc, Inđônesia, Thái Lan và gần đây là Việt Nam đã buộc EU phải áp dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch như: Hàng rào thuế quan chống bán phá giá nhằm phần nào bảo vệ những nhà sản xuất trong khối. Biện pháp này được áp dụng đối với mặt hàng giầy vải từ Trung Quốc, Inđônesia và cả những sản phẩm giầy da, giả da có giá dưới 5,7 Euro/đôi nhập khẩu từ Thái Lan. Liên minh Châu Âu là thị trường xuất khẩu chủ yếu của giầy dép Việt nam, thường chiếm tới 65 -70% tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép hàng năm. Trước năm 1999, giá trị xuất khẩu của giầy dép Việt nam vào EU chỉ đứng thứ 3 sau Trung Quốc và Indonesia. Nhưng từ năm 1999 Việt nam đã vươn lên sau Trung Quốc và là đối thủ cạnh tranh sát nhau về tỉ lệ giầy dép nhập khẩu vào Tây Âu: Trung Quốc đạt 17,6%, Việt nam là 16,4%. Các nhà cung cấp quan trọng khác cho thị trường này là Rumani và Indonesia chiếm khoảng 8% và 7%. 14 Bảng1.3: Dự báo xuất khẩu giầy dép Việt nam vào EU 1995 1997 2000 2005 2010 Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ (%) 1 2 74 3 120 4 143 lượng(Tr.đôi) Giá trị (Tr. 380 851 1.02 1.85 3.26 Số Euro) 5 Tỉ lệ so với 80,5 73,3 74,2 5 240 0 65 6 370 (%) (%) (4/2) (5/4) (6/5) 7 8 9 14,0 11 9 1,1 12,8 12 0 49 KNXK toàn ngành (%) Điều này xảy ra do nhiều năm qua Việt nam được EU dành cho ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), làm tăng lợi thế cạnh tranh của sản phẩm Da giầy Việt nam khi xuất sang thị trường Tây Âu so với các nước Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan. Tuy nhiên, nếu xuất khẩu giầy dép Việt nam sang EU tiếp tục tăng đến mức nào đó thì sẽ bị EU áp dụng hạn ngạch. Vì vậy, trong giai đoạn tới 2005 2010, cần điều chỉnh mức tăng với một tỉ lệ thấp hơn về số lượng, nhưng cao hơn về giá trị bằng cách nâng cao đơn giá trung bình của sản phẩm. * Các nước châu Á 15 Những năm cuối của thập kỷ 80 và đầu những năm của thập kỷ 90, do mức độ công nghiệp hóa ngày càng cao tại các nước công nghiệp mới, công nghiệp giầy dép lại tiếp tục có sự chuyển dịch sang các nước đang phát triển như: Trung Quốc, Inđonesia, Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan, Việt Nam.. và đặc biệt từ đầu năm 1990 đến nay thì khu vực Châu á chiếm thị phần xuất khẩu quan trọng đối với thị trường giầy dép thế giới do những lợi thế về giá nhân công rẻ tại các nước này. Sản xuất ngày càng phát triển, khối lượng và giá trị xuất khẩu ngày càng tăng vào các thị trường lớn như : Mỹ, EU, Nhật.. * Trung Quốc Ngành da giầy của Trung Quốc phát triển nhanh và vững chắc từ những năm đầu của thập kỷ 90 cùng với nó là sự tăng trưởng mạnh về kim ngạch xuất khẩu của nước này. Tổng số sản xuất giầy dép ở Trung Quốc tính đến năm 2002 là 10.380 nhà máy, trong đó chỉ tính riêng tỉnh Quảng Đông đã có tới gần 4.000 nhà máy gồm đủ các thành phần kinh tế. Ngành công nghiệp giầy ở đây đã phát triển nhanh chóng và đã trở thành địa phương có ngành da giầy phát triển lớn nhất Trung Quốc. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu của Quảng Đông chiếm trên 50% sản lượng và kim ngạch xuất khẩu toàn Trung Quốc. Thị trường xuất khẩu chính của Trung Quốc là Mỹ và EU, riêng thị trường Mỹ chiếm hơn 69% số lượng và 50,7% về giá trị xuất khẩu. Trong năm 2002, số lượng giầy dép xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt hơn 900 triệu đôi, chủ yếu là các sản phẩm có chất 16 lượng trung bình, giá rẻ. Số lượng giầy dép có giá trị thấp của Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường này chiếm tới hơn 50% tổng lượng giầy dép xuất khẩu với mức giá trung bình khoảng 4,5 -5 USD/ đôi, còn đối với các sản phẩm giầy dép có giá trị cao hơn thị phần đang có xu hướng tăng lên, với mức giá trung bình khoảng 12 USD/đôi. Trong khi đó, số lượng giầy dép xuất khẩu vào thị trường EU của Trung Quốc ổn định ở mức 300 triệu đôi với mức giá trung bình vào khoảng 11,46 Euro/đôi. Lý do số lượng giầy dép Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường EU thấp hơn nhiều so với thị trường Mỹ là bởi vào năm 1996 EU đã quyết định áp dụng thuế chống phá giá với một số loại giầy dép của Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường này. Từ đó có thể thấy, các sản phẩm giầy dép của Trung Quốc có khả năng cạnh tranh tại thị trường Mỹ tốt hơn so với tại thị trường EU và số lượng giầy dép xuất khẩu sang thị trường Mỹ vì thế cũng cao hơn. * Indonesia Trong vòng một thập kỷ trở lại đây, ngành da giầy Indonesia có một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế của nước này. Đây là một ngành thu hút nhiều lao động, có giá trị thu nhập cao. Tổng mức thu nhập của ngành đã chiếm tới một phần ba trong tổng thu nhập quốc dân và chỉ sau ngành lâm nghiệp và dệt may. Ngành công nghiệp giầy Indonesia thực sự khởi sắc vào giữa thập kỷ 90 sản phẩm chủ yếu tập trung vào giầy thể thao và các loại giầy dép giá trị thấp. Trước năm 1997, tổng số nhà máy sản xuất giầy dép ở Indonesia lên tới hơn 200 nhưng từ cuối năm 1997 đến nay do tác 17 động của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ Châu á con số trên đã giảm tới gần một nửa. Những nhà máy còn tồn tại được sau cuộc khủng khoảng phần lớn là những nhà máy có qui mô vừa và nhỏ hoạt động cầm chừng. Một số khác tồn tại được qua cuộc khủng khoảng là do có sự tổ chức, vận hành tốt nên có thể cạnh tranh được trên thế giới. Phần lớn những nhà máy này tập trung chủ yếu ở đảo Java. Tuy qui mô ngành công nghiệp giầy có bị sút giảm song giầy dép xuất khẩu Indonesia vẫn chiếm một tỉ trọng đáng kể trên thị trường giầy dép thế giới ( khoảng 5%). Năm 2002, tình hình sản xuấtvà xuất khẩu giầy dép của Indonesia tăng lên, sản lượng xuất khẩu đạt 249,969 triệu đôi, với kim ngạch xuất khẩu đạt 1.601,766 triệu USD, trong đó giầy thể thao là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, chiếm 70%. Cũng như các nước trong khu vực thị trường xuất khẩu truyền thống của Indonesia là Mỹ và các nước thuộc EU. Trong đó thị trường Mỹ chiếm 43% tiếp đó là thị trường Anh 8,9 %, Bỉ 7,3%, Đức 5,8%, Pháp 3%... So với thị trường EU, thì thị trường Mỹ được các doanh nghiệp Indonesia hướng tới nhiều hơn và thực tế cũng cho thấy một lượng lớn sản phẩm của Indonesia được xuất sang thị trường này. Lý do chính là bởi thị trường Mỹ, các sản phẩm giầy dép của Indonesia có khả năng cạnh tranh tốt hơn, không bị áp dụng các hạn chế về thương mại, thuế quan như ở thị trường EU. Hơn thế, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy dép ở Indonesia có quan hệ khá mật thiết với thị trường Mỹ bởi Mỹ cũng chính là nước cung cấp nguyên liệu sản xuất chủ yếu cho các 18 doanh nghiệp Indonesia. Mặc dù chịu tác động mạnh của cuộc khủng khoảng tài chính Châu á song giá trị xuất khẩu của Indonesia sang thị trường Mỹ giảm không đáng kể do bù lại cho phần số lượng giầy dép xuất khẩu giảm sút do tác động của khủng khoảng là giá của giầy dép xuất khẩu sang Mỹ phần nào tăng lên. Hiện nay, mức giá giầy dép xuất khẩu trung bình của Indonesia tại thị trường Mỹ vào khoảng 9,5-10USD/đôi, còn tại thị trường EU là khoảng 11 Euro/ đôi. * Thái Lan Ra đời và phát triển khá sớm so với các nước trong khu vực, Ngành da giầy Thái Lan đã bắt đầu sản xuất giầy dép với số lượng lớn vào nửa cuối của thập kỷ 80. Thời kỳ phát triển đỉnh cao của da giầy Thái Lan là vào những năm 1990, 1991. Tuy là một những ngành công nghiệp nhẹ đóng góp tích cực vào ngân sách Nhà nước và được Nhà nước chú ý, quan tâm song ngược lại với nền phát triển kinh tế của Thái Lan trong thập kỷ qua thì ngành công nghiệp giầy dép ngày càng bị suy thoái và được thay thế dần bằng các ngành khác sử dụng ít lao động hơn. Giá lao động ở Thái Lan ngày càng tăng đã khiến cho nhiều nhà máy giầy phải đóng cửa, số công nhân giảm 10% trong khi đó tiền lương ngày càng tăng. Thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan cũng là thị trường Mỹ và các nước thuộc EU. Trong đó thị trường Mỹ chiếm 36,4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù hiện nay Thái Lan cũng đã bị Liên minh Châu Âu áp dụng thuế chống phá giá đối với sản phẩm giầy da và giầy giả da có giá trị thấp ( dưới 5,7 Euro/đôi) nhưng 19 thực tế cho thấy tổng số lượng giầy dép xuất khẩu sang thị trường này lại gấp 1,5-2 lần tổng số lượng giầy dép xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Trong cơ cấu sản phẩm giầy dép xuất khẩu, giầy thể thao chiếm 57%, giầy sao su, nhựa 11,6%, giầy da 13,7%, dép đi trong nhà và sandal 6,9%. Trong một vài năm trở lại đây, Thái Lan cũng nổi lên là một trong những nước xuất khẩu nguyên liệu và phụ kiện giầy với giá trị ngày càng tăng. Hiện nay, mức gía trung bình của sản phẩm giầy dép xuất khẩu Thái Lan tại thị trường Mỹ vào khoảng 13,5 USD/ đôi. Còn tại thị trường EU, mức giá trung bình đối với một đôi giầy dép xuất khẩu vào thị trường này khoảng 8,5-9 Euro. * Đài Loan Ngành da giầy ở Đài Loan được phát triển vào những năm đầu thập kỷ 70 cùng với chủ trương xây dựng nền kinh tế hướng vào xuất khẩu của Chính phủ. Nếu như trong những năm 80, Đài Loan là một trong những quốc gia có công nghiệp giầy dép phát triển thì bắt đầu những năm 90 do giá đất, giá nhân công tăng đã buộc Đài Loan phải chuyển dịch việc đầu tư sản xuất giầy sang các nước lân cận như Trung Quốc, Indonesia,Việt Nam nơi có nguồn lực dồi dào, gía nhân công rẻ. Chỉ trong vòng 10 năm, số nhà máy giầy ở Đài Loan giảm một cách nhanh chóng, năm 1998 từ 1.245 nhà máy giảm xuống còn 430 nhà máy. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 235 triệu USD ( giảm 16,99% so năm 1998)...Tuy nhiên, trong bối cảnh đó một số nhà máy quản lý tốt đã vươn lên 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan