Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn hai mươi năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những
bước chuyển đổi đáng kể , đang dần chuyển từ cơ chế bao cấp
quản lí tập trung sang nền kinh to thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa .Cùng với nhịp độ phát triển của nền kinh tế là sự
lớn mạnh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các cấu trúc
tài chính – ngân hang .Với sự gia tăng chóng mặt trong các hoạt
động thương mại và tiêu dùng ,nhu cầu thanh toán của các tác
nhân trong nền kinh tế cũng tăng lên .Tuy nhiên ,Việt Nam đang
thể hiện sự tụt hậu của mình trong lĩnh vực này so với các quốc
gia khác trên thế giới .Trong khi thanh toán điện tử đã trở nên phổ
biến ở các quốc gia phát triển thì ở Việt Nam các hoạt động thanh
toán vẫn chủ yếu bằng tiền mặt .Tiền mặt được sử dụng không chỉ
là nội tệ mà còn bằng cả ngoại tệ . Đây chính là hiện tượng mà
các chuyên gia kinh tế gọi là nền kinh tế tiền mặt.
Việc sử dụng quá nhiều tiền mặt trong các hoạt động giao dịch
và dịch vụ khác hiện nay đã gây ra những tác động tiêu cực không
chỉ lên sự phát triển của nền kinh tế mà còn có những ảnh hưởng
đến các mặt khác của đời sống xã hội .Trên cơ sở nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề trên nên nhóm chúng em đã chọn viết
đề tài “Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam”.
Trong bài tiểu luận này chúng em sẽ đi vào làm rõ các vấn đề
sau đây:
Chương I :thực trạng nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
Chương II :nguyên nhân dẫn đến nền kinh tế tiền mặt ở Việt
Nam
Chương III :ảnh hưởng của nền kinh tế tiền mặt đến các vấn đề
kinh tế
xã hội
Chương IV :giải pháp và triển vọng giải quyết các vấn đề này
Với kiến thức còn nhiều hạn chế của mình ,chúng em chắc
chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình viết
1
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
bài .Chính vì thế chúng em mong nhận được sự góp ý của thầy
giáo để chúng em có thể hiểu thêm ,có cách nhìn đúng đắn vấn đề
nêu trên .
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I :Thực trạng nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
1.Thực trạng nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
Từ trước đến nay Việt Nam được đánh giá là nền kinh tế tiền
mặt ,có tỉ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán từ 17% trở
lên .Theo số liệu thống kê trong năm 1997 tỉ lệ này ở Việt Nam là
32,2% ,trong giai đoạn 2000-2004 lượng tiền mặt trong thanh toán
giao dịch hang ngày chiếm tỉ lệ từ 20-23% tổng phương tiện thanh
toán trên toàn quốc ,tỉ lệ này được giảm xuống còn 18,13% vào
năm 2005 ,và còn 17,21% vào năm 2006 . Tỉ lệ thanh toán bằng
tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán từ mức 18% cuối năm
2007 xuống 14% như hiện nay.
2
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
Số người sử dụng dịch vụ ngân hang chủ yếu là các doanh nghiệp
lớn ,lao động ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ,nhân viên công
sở có thu nhập cao và ổn định . Đại đa số dân cư ,công chức ,viên
chức thuộc khu vực chính phủ ,lao động thuộc các doanh nghiệp
vừa và nhỏ chưa tiếp cận với các phương tiện dịch vụ thanh toán .
Tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong
khu vực doanh nghiệp và chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh
toán của khu vực dân cư . Đánh giá này thể hiện qua khảo sát thực
trạng thanh toán năm 2003 ,kết quả cho thấy :tại 750 doanh nghiệp
Việt Nam ở cả ba miền Bắc ,Trung ,Nam thì các doanh nghiệp tư
nhân có trên 500 công nhân có khoảng 63% số giao dịch của họ
được tiến hành qua hệ thống ngân hang ;những doanh nghiệp có ít
hơn 25 công nhân thì tỉ lệ này là 47% ;với các doanh nghiệp nhà
nước mới chỉ hơn 80% giao dịch được thực hiện qua ngân hàng
;hầu hết các doanh nghiệp cả nhà nước lẫn tư nhân đều trả lương
bằng tiền mặt .Tại các hộ kinh doanh thì 86,2% số hộ kinh doanh
vẫn chi trả hang hóa bằng tiền mặt ;75% số hộ kinh doanh chi trả
dịch vụ bằng tiền mặt ;72% số hộ kinh doanh tư nhân nộp thuế
bằng tiền mặt.
Mặc dù hoạt động thanh toán đã có nhiều chuyển biến tích cực
nhưng vẫn chưa đáp ứng được kịp yêu cầu phát triển kinh tế trong
tình hình mới ,tỉ lệ thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn khá cao so với
3
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
các nước trong khu vực và trên thế giới :tỉ lệ này ở các nước có
nền kinh tế phát triển cao đều dưới một con số.
2.Một số mục tiêu đề ra trong việc giảm tỉ lệ thanh toán bằng
tiền mặt trong nền kinh tế
Tiền mặt , đô la lưu thông trong nền kinh tế với khối lượng lớn
đang trở thành một nguồn nhiên liệu duy trì và thúc đẩy các hoạt
động sản xuất ,lưu thông ,phân phối .Tuy nhiên trước yêu cầu của
nền kinh tế việc thanh toán trong giao dịch bằng tiền mặt đã bộc lộ
nhiều nhược điểm và trở nên không phù hợp với xu thế hội nhập
hiện nay .Nền kinh tế tiền mặt bị đô la hóa và vàng hóa có những
tác động tiêu cực lâu dài .Nó luôn triệt tiêu tác dụng tích cực của
chính sách tiền tệ và tài chính quốc gia ,làm giảm nguồn vốn khả
dụng lãi suất thấp của toàn nền kinh tế ,và vì vậy,làm giảm năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia .
Thấy được sự quan trọng của vấn đề trên Ngân hang nhà nước đã
giới thiệu “Đề án tổng thể phát triển thanh toán không dùng tiền
mặt giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn đến 2020 “.Mục tiêu mà đề
án nói trên đề ra là lượng tiền trên tổng phương tiện thanh toán ở
Việt Nam sẽ giảm xuống còn 17% vào năm 2010 . Đến năm 2020
tỉ lệ này dự kiến giảm còn 10%.
Đi cùng với mục tiêu nói trên trong các hộ gia đình các mục tiêu
hỗ trợ khác được xác định trong Đề án là phấn đấu 70% các trung
4
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
tâm thương mại ,siêu thị ,nhà hang ,khách sạn …có lắp đặt các
thiết bị chấp nhận thẻ thanh toán vào cuối năm 2010 ,năm 2020 là
95% .
Một mục tiêu khác là tăng cường việc lập và sử dụng tài khoản cá
nhân trong dân cư .Dự kiến đến năm 2010 Việt Nam sẽ có 20 triệu
tài khoản loại này để thực hiện việc trả lương cho cán bộ hưởng
lương ngân sách qua tài khoản (70%) và 50% công nhân lao động
trong doanh nghiệp tư nhân.
Cũng theo Ngân hàng nhà nước dự kiến đến năm 2020 ,90% chi
tiêu từ ngân sách và 90% thanh toán dịch vụ công cộng là được
thực hiện qua tài khoản .
Dựa vào các số liệu ở trên cho thấy nền kinh tế tiền mặt có ảnh
hưởng to lớn đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như các mặt
khác của đời sống con người .Chúng ta có thể dùng nó như một chỉ
tiêu đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế của một quốc gia
cũng như trình độ phát triển khoa học công nghệ và đời sống người
dân .Cũng chính vì vậy cho nên nhóm chúng em đã quyết định
chọn đề tài này ,mong muốn góp phần giúp mọi người có thể hiểu
được vai trò cũng như một số trở ngại do nền kinh tế tiền mặt gây
ra một cách có hệ thống.
5
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
CHƯƠNG III: Nguyên nhân dẫn đến “nền kinh tế tiền” mặt ở
Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia đứng đầu thế giới về thị
phần thanh toán bằng tiền mặt.Lý giải về tình hình trên các chuyên
gia kinh tế đã đưa ra những nguyên nhân chính sau:
1) Sự yếu kém của các ngân hàng trong việc triển khai các hình
thức thanh toán điện tử:
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, hiện nay người dân Việt
Nam có khoảng 15 triệu tài khoản ngân hàng trong đó chủ yếu là
tài khoản tiết kiệm. Điều đó chứng tỏ đại bộ phận người tiêu dùng
Việt Nam chưa được tiếp cận với các hình thức thanh toán qua tài
khoản ngân hàng. Ước tính, hiện nay 90% các khoản chi tiêu cá
nhân tại Việt Nam được thanh toán bằng tiền mặt.Điều này thể
hiện tiền mặt có một vai trò to lớn như thế nào đối với các tác nhân
của nền kinh tế.Chúng ta cũng có thể dễ dàng thấy được sự khan
hiếm của các hình thức thanh toán điện tử trong nền kinh tế bằng
cách đánh giá tiềm lực thực tế của các ngân hàng trong việc thực
hiện các giao dịch này.Với khoảng 85 triệu dân và với tốc độ tăng
chi tiêu thực tế hàng tháng của mỗi người dân là khoảng 62%(số
6
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
liệu của tổng cục thống kê),nhưng cho đến nay chúng ta cũng mới
phát hành khoảng 2 triệu thẻ ATM và gần 100 nghìn thẻ quốc tế;
trên toàn quốc mới có 1.900 máy ATM được lắp đặt...Điều này
chính là một minh chứng rõ nét cho sự yếu kém trong hoạt động
của các ngân hàng,đồng thời cũng thể hiện sự chậm trễ trong việc
đổi mới các phương thức thanh toán của các ngân hàng ở Việt
Nam.Tuy nhiên chúng ta cũng phải hiểu được rằng ngân hàng cũng
đang gặp rất nhiều khó khăn để gia tăng các loại hình thanh toán
bằng điện tử:
Thứ nhất,tuy giao dich điện tử của ngân hàng có nhiều tiện
ích nhưng nó cũng bị hạn chế rất nhiều bởi Việt Nam chưa hoàn
chỉnh luật thương mại điện tử,dẫn đến các hoạt động của ngân
hàng chưa được bảo vệ bởi các hệ thống pháp lý.Chính điều này
làm nảy sinh tâm lý e dè của khách hàng khi sử dụng các hoạt
đông thanh toán điện tử.Bên cạnh đó việc thiếu một hệ thống pháp
ly hoàn chỉnh làm cho các ngân hàng không thể đàu tư thỏa đáng
vào thương mại điện tử.
Ngoài ra các ngân hàng cũng gặp khó khăn không nhỏ trong
việc triển khai các hoạt động thanh toán điện tử.Lý do là còn thiếu
sự liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ như điện tử,viễn thông..
đối với ngân hàng.Các hệ thống thanh toán còn rất thiếu đồng bộ
và thể hiện nhiều sự yếu kém trong việc đáp ứng nhu cầu thanh
7
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
toán của nền kinh tế.Một minh chứng rõ nét là việc hệ thống thanh
toán cốt lõi là hệ thống thanh toán liên ngân hàng của Ngân hàng
Nhà nước, mặc dù được cải thiện rất nhiều sau khi hoàn tất giai
đoạn I của Dự án hiện đại hệ thống thanh toán, nhưng vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu gia tăng về hoạt động thanh toán giữa các
ngân hàng. Theo thiết kế ban đầu, hệ thống thanh toán liên ngân
hàng có khả năng xử lý 4.500 giao dịch/ngày. Nhưng từ khi đi vào
hoạt động đến này, hệ thống thường xuyên lâm vào tình trạng quá
tải với số lượng giao dịch bình quân lên tới 10.000 giao
dịch/ngày.Bên cạnh đó các ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn
trong việc phát triển hệ thống khách hàng.Lý do là nhiều cơ sở
chấp nhận thanh toán thẻ như các siêu thị,khách sạn,nhà hàng lớn
cũng chưa sẵn sàng hợp tác với ngân hàng về thanh toán thẻ.
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, chúng ta phải thừa nhận
một thực tế: việc phát triển các phương thức thanh toán không
dùng tiền mặt rất chậm. Mặc dù các ngân hàng mở nhiều dịch vụ,
nhưng những dịch vụ này chưa tác động tích cực đến thanh toán
không dùng tiền mặt.Cơ sở vật chất kĩ thuật của các ngân hàng
thương mại ở Việt Nam thiếu đồng bộ và vẫn chưa có hệ thống kĩ
thuật thống nhất từ hội sở chính đến các chi nhánh. Phần mềm và
chương trình ứng dụng của các ngân hàng không tương thích nhau.
Sự thiếu đồng bộ về hệ thống kỹ thuật là khó khăn khi các ngân
hàng liên kết với nhau để cùng phát triển dịch vụ mới. Ví dụ hiện
8
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
nay có 3 liên minh thẻ nhưng chưa thực hiện kết nối với nhau: liên
minh giữa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và 17 ngân hàng
thương mại cổ phần, Công ty Chuyển mạch tài chính quốc gia
Banknet, hệ thống VNBC (có 4 ngân hàng tham gia) làm gây nên
sự lãng phí đối với nền kinh tế và khó khăn lớn trong sử dụng thẻ
của khách hàng. Chất lượng, tiện ích và tính đa dạng về dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt chưa phong phú. Khả năng đáp
ứng nhu cầu của nhiều loại đối tượng sử dụng còn hạn chế. Các
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt chưa đạt được tính
tiện ích và phạm vi thanh toán để có thể thay thế cho tiền mặt.
Phương thức giao dịch chủ yếu tiếp xúc trực tiếp và mặt đối mặt.
Để được nhận một sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, các chủ thể
tham gia thường phải đến các điểm giao dịch của ngân hàng.
Phương thức giao dịch từ xa, dựa trên nền tảng công nghệ thông
tin hiện đại như giao dịch qua internet, qua mobile, homebanking...
chưa phát triển hoặc mới chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ hẹp.Ngoài
ra,chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên của các ngân hàng
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về trình độ.Thái độ phục vụ và
đạo đức nghề nghiệp còn gây nhiều bức xúc cho khách hàng.
Bên cạnh đó, nhận thức của người dân về thẻ cũng như công tác
bảo mật thẻ còn thấp nên dễ bị kẻ gian lợi dụng lấy tiền từ tài
khoản và từ thẻ. Thời gian qua có nhiều vụ kiện giữa người sử
dụng thẻ với các ngân hàng trong việc mất tiền từ tài khoản của
9
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
các chủ thẻ gây tâm lý lo ngại hoang mang trong dân chúng, dẫn
tới nhiều khó khăn trong công tác phát triển thẻ của các ngân hàng.
2)Tâm lý sử dụng tiền mặt của người dân Việt Nam:
Hiện nay thói quen sử dụng tiền mặt vẫn còn rât lớn đối với người
tiêu dùng Việt Nam.Theo số liệu của tổng cục thống kê thì tỷ trọng
của tiền mặt trong lưu thông vẫn chiếm từ 20%-22% tổng khối
lượng tiền tệ lưu chuyển.Một nguyên nhân của việc này là do
người dân có thói quen dùng tiền mặt trong chi tiêu hàng ngày.Họ
cảm thấy việc dùng tiền mặt vẫn tiện dụng hơn so với thanh toán
điện tử.Môt thực tế rõ ràng là thanh toán thẻ khó có thể thay thế
một cách hiệu quả trong việc mua bán trao đổi hàng ngày như đi
chợ, mua xăng, trả tiền điện, nước… Thực tế cũng đã chứng minh
phải cần một thời gian rất dài nữa thì người Việt Nam mới có thể
từ bỏ thói quen tiêu tiền mặt.Điều đó xảy ra khi hình thành nên
mạng lưới siêu thị và trung tâm mua bán rộng lớn,có mặt tại mọi
vùng miền.Bạn thử tưởng tượng khi trên đường đi làm về tiện thể
mua một chút đồ ăn và đồ tiêu dùng chỉ trị giá một vài chục nghìn
thì liệu có thể thanh toán bằng credit hay debit card được hay
không .Hơn nữa tại Việt Nam hiện nay chỉ có rất ít các siêu thị và
trung tâm mua bán có lắp đặt hệ thống thanh toán thẻ,chính vì thế
dù người tiêu dùng có không muốn dùng tiền mặt thì cũng gặp rất
nhiều khó khăn.
10
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
Một lý do khác là Việt Nam là một nước đang phát triển,thu nhập
bình quân đầu người là 1024 USD,khoảng 17,4 triệu đồng(số liệu
của tổng cục thống kê năm 2008) chỉ thuộc hàng trung bình kém
trên thế giới.Trong khi đó chi tiêu bình quân của tại Việt Nam
khoảng 735,68 nghìn đồng/người một tháng.Chính vì thu nhập và
chi tiêu của người dân Việt Nam còn thấp nên nhu cầu sử dụng thẻ
ATM và các hình thức thẻ khác là không cao.
Ngoài ra đa số dân cư Việt Nam sống ở vùng nông thôn nên việc
tiếp cận đối với các hình thức thương mại điện tử còn gặp nhiều
khó khăn.Nguyên nhân là các ngân hàng không thể mở rộng các
chi nhánh ở các vùng nông thôn và miền núi,trên thực tế chỉ có 4
ngân hàng quốc doanh là có số lượng chi nhánh nhiều nhất,tuy
nhiên các ngân hàng này lại chậm trễ trong việc triển khai các hoạt
động phát triển các hoạt động phát hành thẻ.
11
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
3)Thông tin về các hình thức thanh toán điện tử chưa đến được
với đông đảo người tiêu dùng:
Để trả lời câu hỏi tai sao các tác nhân trong nền kinh tế Việt Nam
lại sử dụng tiền mặt quá nhiều trong chi tiêu và đầu tư chúng ta đi
tìm lời giải cho câu hỏi ngược lại:tại sao có quá ít người sử dụng
các hình thức thanh toán điện tử như debit card, credit card..,mặc
dù sử dụng chúng mang lại cho người tiêu dụng những thuận tiện
to lớn.Qua tìm hiểu của các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng
và thanh toán,nguyên nhân chủ yếu là do người dân,các doanh
nghiệp và các tổ chức kinh tế chưa hiểu việc thanh toán bằng tiền
mặt là gì và nó mang lại những lợi ích nào.Trong tâm lý của họ
việc thanh toán sau mỗi thương vụ mau bán theo kiểu “tiền trao
cháo múc” mang lại cho họ sự an tâm cao nhất.
Không nói đâu xa, ngay ở khu vực Hà Nội, nơi tập trung nhiều
người dân có thu nhập khá và cao ở trong nước mà còn chưa hiểu
rõ thế nào là phương thức thanh toán không dùng tiền mặt và cũng
chưa thấy được lợi ích mà nó mang lại. Không chỉ người dân, mà
nhiều công nhân làm trong các nhà máy cũng không mấy quan tâm
đến vấn đề này. Điều đáng nói, ngay cả những người có tri thức
cũng ít biết đến phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Đa
số người dân mở tài khoản chi nhằm mục đích gửi và rút tiền còn
12
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
những tính năng khác của thẻ như thanh toán khi đi mua sắm, du
lịch... thì ít người biết đến và sử dụng. Người dân vẫn chưa tin vào
những tiện ích của việc thanh toán bằng thẻ, và họ cho rằng thanh
toán bằng tiền mặt theo kiểu "ăn chắc mặc bền" sẽ nhanh và tiện
hơn.
Ngay cả doanh nghiệp, đối tượng rất nhạy cảm đối với những thay
đổi của xã hội cũng ít biết đến và sử dụng phương thức thanh toán
này. Ông Lương Văn Sơn, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Công ty Cơ
khí xây dựng nói, việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán đem lại
những tác hại nhất định như không an toàn, mất thời gian đi lại để
thanh toán… những không mấy doanh nghiệp nhận thức được vấn
đề này. Họ thường e ngại về tính an toàn khi sử dụng hình thức
thanh toán khác. Khi giao dịch, các doanh nghiệp thường yêu cầu
thanh toán bằng tiền mặt theo kiểu “tiền giao, cháo múc” và còn
cho biết sẽ giảm giá nếu như đối tác thanh toán bằng tiền mặt.
Ngoài ra,chính vì các ngân hàng không đâỷ mạnh các hoạt động
marketing,quảng cáo và phát triển thương hiệu dẫn đến khách hàng
dễ nhầm lẫn các sản phẩm của các ngân hàng với sản phẩm của các
đối thủ cạnh tranh. Vì vậy mà họ dễ dàng từ bỏ một sản phẩm dịch
vụ mang thương hiệu này để đến với một sản phẩm có thương hiệu
khác,làm thiệt hại đến lợi nhuận của các ngân hàng.
13
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
Bên cạnh đó,chính vì thiếu thông tin về thanh toán điện tử mà
người tiêu dùng và các doanh nghiệp còn giữ thái độ e dè trong sủ
dụng thẻ vì họ cho rằng sử dụng tiền mặt còn rẻ hơn sử dụng các
hình thức thanh toán của ngân hàng.Trên thực tế chúng ta cũng
phải thừa nhận rằng các ngân hàng thương mại hiện nay vẫn duy
trì chi phí thanh toán ở mức cao đối với các loại hình thanh
toán,đặc biệt là thanh toán trong hệ thống liên ngân hàng.Điều này
thể hiện ngay cả trong các chi phí thấy được như:phí phát hành
thẻ,phí rút tiền..hay những chi phí ẩn như chi phí hao mòn giầy…
Các thủ tục hành chính cũng phần nào gây những bất tiện nhất
định cho khách hàng,như thủ tục lập tài khoản,tốn rất nhiều thời
gian và nhiều thủ tục cho người tiêu dùng.
4)Do hệ thống luật pháp còn nhiều thiếu sót và đặc trưng riêng
của nền kinh tế đang phát triển:
Thứ nhất,nền kinh tế nước ta chưa thực sự phát triển: đây là nền
kinh tế xuất phát từ đặc điểm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo
quy mô nhỏ, lẻ, với loại hình này thì khả năng tiếp nhận phương
tiện thanh toán không dùng tiền mặt là rất khó khăn. Ngoài ra, một
bộ phận rất lớn của nền kinh tế không chính thức là kinh tế ngầm
liên quan tới hoạt động buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại,
tham nhũng..., luồng luân chuyển tiền tệ phục vụ các hoạt động
này có thể rất lớn. Đối với những người tham gia các giao dịch
14
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
này, cho dù phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt có thuận
tiện thì đó vẫn không phải là phương tiện thanh toán được lựa
chọn, xuất phát từ nhu cầu che dấu nguồn gốc giao dịch và danh
tính của đối tượng tham gia.
Thứ hai,hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán chưa hoàn
thiện, mặc dù trong thời gian vừa qua hành lang pháp lý trong lĩnh
vực thanh toán đã cải thiện nhiều, song vẫn được đánh giá là chưa
đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến thanh
toán điện tử và thương mại điện tử. Ví dụ như đối với giao dịch
điện tử, chưa đủ cơ sở để các ngân hàng tổ chức triển khai các
kênh giao dịch điện tử vì chưa tạo được một cơ chế tổng hợp điều
chỉnh hoạt động thương mại điện tử trong ngành ngân hàng, chưa
có sự chấp nhận đồng bộ giao dịch điện tử, chứng từ điện tử giữa
các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan (như Tổng cục Thuế,
Tổng cục Hải quan,…). Ngày 19 tháng 11 năm 2005 vừa qua Luật
Giao dịch điện tử đã được Quốc hội thông qua, đây là một bước
tiến mới mang tính đột phá của Việt Nam trong ứng dụng công
nghệ thông tin để phát triển kinh tế xã hội. Nó tạo nên một nền
tảng hành lang pháp lý cho các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng hiện
đại, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia sâu rộng vào các hoạt
động thương mại điện tử, cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các
chủ thể tham gia kinh doanh trực tuyến trên mạng trong phạm vi
toàn xã hội. Tuy nhiên, để luật này đi vào cuộc sống là cả một quá
15
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
trình phấn đấu không chỉ của riêng ngành ngân hàng mà của toàn
xã hội. Hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực thanh toán
vẫn còn những điểm cần phải tiếp tục được chỉnh sửa, thay thế để
có thể phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu của người sử dụng.
Một số văn bản còn thể hiện nhiều bất cập và chưa phù hợp với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, với tốc độ phát triển
mạnh mẽ về công nghệ thông tin và sự ra đời của hàng loạt các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng, nền tảng pháp lý cần được hoàn chỉnh
gấp để bao hàm cả các loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán không phải là ngân hàng, các tổ chức công nghệ thông tin
cung ứng những sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các ngân hàng, các
tổ chức làm dịch vụ thanh toán, chẳng hạn như những công ty cung
cấp giải pháp công nghệ qua mạng Internet, các công ty kinh
doanh dịch vụ thẻ, các tổ chức chuyên làm dịch vụ thanh toán bù
trừ...Ngoài ra còn thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành
hữu quan, chính quyền địa phương các cấp trong việc tạo ra môi
trường kinh tế, xã hội thuận lợi cho việc phát triển thanh toán
không dùng tiền mặt.
Vẫn còn nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến nền
kinh tế tiền mặt ở Việt Nam,đánh giá chính xác nguyên nhân sẽ
giúp ta tìm ra được giải pháp cho vấn đề này.
16
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
CHƯƠNG II:Thiệt hại của nền kinh tế tiền mặt
1)Thiệt hại kép của”nền kinh tế tiền mặt” đối với đời sống kinh
tế-xã hội:
Trong suy nghĩ của nhiều người dânViệt Nam, việc tiêu dùng tiền
mặt không hề có tác động tiêu cực đến cuộc sống của họ mà trái lại
đem đến cho họ sự thuận tiện trong các hoạt động thanh
toán.Nhưng trên thực tế, nền kinh tế tiền mặt có rất nhiều tác động
tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như tới các khía
cạnh của đời sống xã hội.
- Thiệt hại thứ nhất là chi phí cho việc thanh toán bằng tiền mặt từ
khâu in ấn, vận chuyển, tính đếm, bảo quản, thất thoát khá tốn
kém. Đối với các đồng tiền mệnh giá nhỏ, thì việc in, vận chuyển,
17
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
tính đếm còn hơn nhiều.Trên thực tế,năm 2006 khi chính phủ phát
hành tiền polyme và tiền xu đã tốn rất nhiều chi phí trong khi mang
lại hiệu quả mang lại không cao. Tiền polyme đòi hỏi chi phí sản
xuất lớn hơn và quy trình in ấn phức tạp hơn so với loại tiền cotton
thông thường.Do chi phí giấy, mực, chế bản tiền polymer của Việt
Nam mua từ nhà cung cấp độc quyền của công nghệ in tiền
polymer của Nhà máy in tiền quốc gia của Australia (NPA),Hơn
hai mươi nước trong đó có Việt Nam phải mua giấy từ hãng độc
quyền là Securency, cộng thêm việc tăng chi phí lao động giờ làm
(so cùng một lượng tiền giấy cotton, việc in tiền polymer tốn nhiều
công lao động hơn), giá thành làm tiền polymer đắt hơn tiền
cotton.Tuy nhiên tiền polyme vẫn chưa đạt tiêu chuẩn, còn nhiều
nhược điểm, thiếu sót gây nên tâm lí e ngại cho người dân khi
dùng tiền. Người dân cảm thấy sử dụng loại tiền mới này chưa
quen và gặp nhiều bất tiện. Phải một thời gian sau đó tiền polyme
và tiền xu mới dần dần phổ biến hơn trong đời sống hằng
ngày.Việc phát hành tiền polyme và tiền xu không cải thiện được
nhiều tốc độ lưu thông tiền tệ trong khi đó nền kinh tế Việt Nam
vẫn là một nền kinh tế tiền mặt.
-Thiệt hại thứ hai có lẽ còn tốn kém hơn nhiều và không thể đo
đếm được, đó là rất dễ dung dưỡng cho kinh tế ngầm, cho buôn
gian bán lận, trốn thuế, cho tham nhũng tiêu cực phát sinh, phát
triển và rất khó kiểm soát. Đây cũng là một trong những cản trở
18
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
cho các cuộc điều tra, phát hiện các hiện tượng trên.Thông qua
cuộc khảo sát vào năm 2003, kết quả cho thấy:tại 750 doanh
nghiệp Việt Nam ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam thì các doanh
nghiệp tư nhân có trên 500 công nhân có khoảng 63% số giao dịch
của họ được tiến hành qua hệ thống ngân hàng; những doanh
nghiệp có ít hơn 25 công nhân thì tỷ lệ này là 47%; với doanh
nghiệp nhà nước mới chỉ hơn 80% giao dịch được thực hiện qua
ngân hàng; hầu hết các doanh nghiệp cả nhà nước lẫn tư nhân đều
trả lương bằng tiền mặt. Tại các hộ kinh doanh thì 86,2% số hộ
kinh doanh vẫn chi trả hàng hoá bằng tiền mặt; 75% số hộ kinh
doanh chi trả dịch vụ bằng tiền mặt; 72% số hộ kinh doanh tư nhân
nộp thuế bằng tiền mặt; Nền kinh tế tiền mặt là một môi trường tốt
cho các hoạt động kinh tế ngầm diễn ra và phát triển. Bởi lẽ trong
nền kinh tế mà hoạt động thanh toán chủ yếu thông qua tiền mặt thì
việc quản lý các luồng tiền hay các hoạt động kinh doanh, đầu tư
gặp rất nhiều khó khăn. Các nhà quản lý không thể nắm hết thông
tin về những luồng tiền đi vào đi ra hay những giao dịch diễn ra
hằng ngày.Tại Việt Nam tình trạng lừa đảo trong kinh doanh và
trốn thuế đang rất phổ biến đặc biệt nạn tham nhũng đã trở thành
quốc nạn.Có một số công chức nhà nước lợi dụng chức vụ quyền
hạn nhận hối lộ và tiếp tay cho những hoạt động phi pháp. Trên
thực tế cơ quan điều tra còn gặp nhiều trở ngại để đưa những hiện
tượng này ra ánh sáng. Lý do là vì thu nhập của các công chức nhà
19
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
nước chưa hoàn toàn được minh bạch hoá.Nhiều người trong số họ
chưa có tài khoản tiền gửi ở ngân hàng nên những thu nhập thêm
ngoài tiền lương không được công khai về con số cũng như nguồn
gốc. Trong lĩnh vực kinh tế ngầm còn có hoạt động rửa tiền gây
thất thoát lớn cho nền kinh tế. Vấn đề này sẽ được đề cập kĩ hơn ở
phần sau của bài tiểu luận.
- Thiệt hại thứ ba là khó kiểm soát chính xác thu nhập để thực
hiện Luật Thuế thu nhập đối với cá nhân có thu nhập cao. Đại đa
số dân cư, công chức, viên chức thuộc chính phủ, các lao động của
các doanh nghiệp chưa tiếp cận với các phương tiện và dịch vụ
thanh toán vì hệ thống thanh toán điện tử chưa thực sự đồng bộ và
hoàn thiện, chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán. Việc kiểm soát
chính xác thu nhập của từng người dân là bất khả thi. Vì thế khó có
thể định được mức thuế thu nhập cho những người có thu nhập
cao.
Ở Việt Nam, tình trạng những người có thu nhập cao
không công khai thu nhập thực tế của mình để trốn thuế đang diễn
ra rất phổ biến.
-Thiệt hại thứ tư mà "nền kinh tế tiền mặt" gây ra là chưa bảo
đảm cho sự an toàn của đồng tiền mỗi khi thanh toán, vận chuyển,
bảo quản..., kể cả đối với các cơ quan, doanh nghiệp, người sản
xuất kinh doanh và người tiêu dùng. Đã có không ít các vụ thụt
két, cướp tiền của người đi lĩnh tiền hay nộp tiền vào ngân hàng;
tạo thuận lợi cho tình trạng rửa tiền.... Tất cả các giao dịch từ mua
20
- Xem thêm -