Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức tỉnh ninh bình...

Tài liệu Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức tỉnh ninh bình

.PDF
96
2053
86

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MAI THỊ TUYẾT LÀNH NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỈNH NINH BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI, 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MAI THỊ TUYẾT LÀNH NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỈNH NINH BÌNH Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC Mã số: 60 31 02 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS,TS. Nguyễn Thu Nghĩa HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS,TS.Nguyễn Thu Nghĩa. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2017 Tác giả luận văn MAI THỊ TUYẾT LÀNH MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC .................. 9 1.1. Văn hóa chính trị .................................................................................... 9 1.2. Sự cần thiết phải nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức ... 21 Chương 2 NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỈNH NINH BÌNH: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ................ 28 2.1. Khái quát chung về tỉnh Ninh Bình và đội ngũ cán bộ, công chức của Tỉnh .............................................................................................................. 28 2.2. Thực trạng văn hóa chính trị của cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình ... 38 2.3. Một số giải pháp cơ bản nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình ..................................................................................... 65 KẾT LUẬN .................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 80 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Văn hóa chính trị (VHCT) là một bộ phận cấu thành của văn hóa trong xã hội có giai cấp, là kết quả của quá trình hoạt động của con người trong lĩnh vực chính trị. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, văn hóa chính trị giữ vai trò quan trọng đối với mỗi nền chính trị, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Điều này đã khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị. Thực tiễn cách mạng ở nước ta cũng đã chứng minh điều đó. Với tư cách là những người hoạt động chính trị chuyên nghiệp, năng lực, trình độ và cách ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức trong mọi quan hệ chính trị có vai trò quyết định đến sự tồn vong, hưng thịnh của một quốc gia, một chế độ. Họ là lực lượng chính trị cơ bản có khả năng thiết kế, tổ chức và quản lý xã hội để đạt được mục tiêu chính trị đã đề ra. Nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức trong công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ, coi đây là vấn đề chiến lược, có tính quyết định của sự nghiệp cách mạng, do đó đã xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, trình độ đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với sự phát triển của khoa học công nghệ và nền kinh tế thị trường đã tạo ra những thời cơ song cũng không ít thách thức đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Đó là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; năng lực, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ ở một số cán bộ, công chức đã tác động đến tư tưởng, ý chí và 1 niềm tin của đội ngũ cán bộ, công chức cả nước nói chung và cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình nói riêng. Sau hơn 30 năm đổi mới, tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của tỉnh Ninh Bình đã có nhiều khởi sắc, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong tỉnh từng bước được nâng cao, tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững. Có được kết quả đó là do Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình đã vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối lãnh đạo của Đảng vào thực tiễn của địa phương; sự đoàn kết, thống nhất của cả hệ thống chính trị trong đó đội ngũ cán bộ, công chức của Tỉnh giữ vai trò then chốt. Tuy nhiên, cũng có một số cán bộ, công chức của Tỉnh chưa tích cực tìm hiểu, học tập, nâng cao nhận thức chính trị, còn thiếu niềm tin vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt động chính trị còn thiếu tính sáng tạo, có không ít cán bộ, công chức tham gia các hoạt động chính trị một cách miễn cưỡng nên kết quả công tác không được như mong đợi. Do đó, việc xây dựng và củng cố đội ngũ này về phẩm chất chính trị và năng lực, trình độ chuyên môn để đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương là nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược. Với mong muốn đánh giá thực trạng văn hóa chính trị và việc nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình hiện nay, đưa ra những giải pháp để có thể nâng cao hơn nữa văn hóa chính trị cho đội ngũ này đáp ứng được các yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tác giả chọn đề tài “Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam trong những năm gần đây, văn hóa chính trị là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu và tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, tiêu biểu như: 2 “Văn hoá chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” do Phạm Ngọc Quang chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Trong cuốn sách này, các tác giả đã đưa ra những nội dung khoa học về phạm trù VHCT, vai trò của VHCT trong hoạt động chính trị, trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ cũng như đưa ra một số phương hướng bồi dưỡng VHCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta. Tác giả Nguyễn Hồng Phong trong“Văn hoá chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại”, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1998 đã đi sâu nghiên cứu những giá trị truyền thống của VHCT Việt Nam, từ đó đưa ra những phương hướng cho việc kế thừa các di sản VHCT truyền thống trong công cuộc đổi mới ở nước ta. Trong bài “Văn hóa và văn hóa chính trị từ cách nhìn tiếp cận của triết học chính trị mácxít”, Tạp chí Triết học, số 5, 2005, tác giả Nguyễn Văn Huyên cho rằng, xây dựng VHCT hiện nay là xây dựng một nền chính trị khoa học - cách mạng - nhân văn với tất cả nhận thức, mục tiêu, các yếu tố, toàn bộ cơ cấu, thiết chế, cơ chế vận hành của nó. VHCT của nền chính trị Việt Nam là mục tiêu, nội dung chính trị, khoa học tổ chức, lãnh đạo, quản lý và phương thức thực thi chính trị của Đảng, các cơ quan nhà nước; khoa học và nghệ thuật hoạt động chính trị của tất cả các chủ thể chính trị. Cuốn Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay của Lâm Quốc Tuấn, Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2006 góp phần hệ thống hóa và phân tích những quan điểm, luận điểm cơ bản về văn hóa chính trị, về tính tất yếu phải nâng cao văn hóa chính trị, cũng như phương hướng, nội dung và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay. Các tác giả Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn, Nguyễn Văn Vĩnh trong “Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt 3 Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009 tập trung nghiên cứu bản chất, nội dung của VHCT, tìm hiểu những nhân tố hình thành tư tưởng VHCT Việt Nam trong lịch sử và những nét đặc sắc của nó; phân tích một số giá trị VHCT truyền thống của Việt Nam như: Tư tưởng độc lập, tự chủ, tự cường, tinh thần dân tộc, tính cố kết cộng đồng… Cuốn Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010 của tác giả Nguyễn Văn Tài phân tích khái niệm, nội dung và những động lực cơ bản phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ; khẳng định vai trò của đội ngũ cán bộ thông qua khảo sát một số nét khái quát về những thành công và những mặt còn bất cập trong thực tiễn; đề xuất một số vấn đề cơ bản nhằm phát huy tính tích cực nhân tố con người của đội ngũ cán bộ trong tình hình hiện nay. Bên cạnh các công trình này, có một số bài nghiên cứu liên quan đến văn hoá chính trị và nâng cao văn hoá chính trị của cán bộ, công chức hiện nay. Có thể kể đến bài: “Bản chất văn hoá chính trị" của tác giả Phạm Đình Đạt, Tạp chí Khoa học chính trị số 1, 1998 bàn về các nhân tố bản chất của văn hoá chính trị. Lâm Quốc Tuấn “Văn hóa chính trị và sự phát triển con người - xã hội”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, 2001 cho rằng VHCT phải là một hệ thống giá trị xã hội phản ánh đầy đủ các dấu hiệu chân - thiện - mỹ, là tiêu chí quan trọng để xác định sự phát triển và trình độ phát triển chung của ý thức xã hội và ý thức công dân, qua đó thấy được chức năng của VHCT đối với việc hình thành các chủ thể chính trị tích cực, khẳng định VHCT là một nguồn lực to lớn trong sự phát triển xã hội. Nguyễn Văn Vĩnh trong "Vai trò của văn hoá chính trị trong việc hình thành phẩm chất và năng lực người lãnh đạo chính trị”, Thông tin chính trị 4 học, số 4- 2003, nghiên cứu các tiêu chí văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta. Tác giả Hoàng Chí Bảo “Văn hoá chính trị với công tác vận động quần chúng nhân dân trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Dân vận số 1, 2005 nghiên cứu VHCT trong mối quan hệ với chính trị học và vai trò của VHCT trong hoạt động vận động quần chúng ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Lê Như Hoa, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá chính trị", Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 9, 2005 nghiên cứu những chuẩn mực trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa chính trị. “Văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Phạm Huy Kỳ trên Tạp chí Tuyên giáo online Tuyengiao.vn, ngày 12/6/2010 nói về sự thẩm thấu của văn hóa vào chính trị, biểu hiện của văn hóa chính trị, sự tác động của VHCT đến đời sống xã hội và việc xây dựng VHCT trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam. Trần Đình Thảo, Ngô Minh Thuận trong“Văn hóa chính trị trong việc hình thành phẩm chất, năng lực của người cán bộ lãnh đạo chính trị”, tạp chí Triết học, số 6, 2011 đã làm rõ khái niệm VHCT và các vai trò của VHCT trong việc phát huy tính tự giác, chủ động, sáng tạo của các chủ thể chính trị trong hoạt động chính trị. Một là, VHCT góp phần điều chỉnh hành vi và các quan hệ chính trị - xã hội, nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ lãnh đạo chính trị. Hai là, VHCT góp phần hình thành nhân cách của người cán bộ lãnh đạo chính trị và hướng nhân cách đó vào những hoạt động tích cực nhằm thực hiện những giá trị lý tưởng đã chọn. Ba là, VHCT góp phần thúc đẩy quá trình xã hội hóa về chính trị, làm cho người cán bộ lãnh đạo chính trị tích cực hoạt động chính trị. Bốn là, VHCT nâng cao tính nhạy bén, chủ động, sáng tạo trong hoạt động chính trị của người cán bộ lãnh đạo chính trị và góp phần khắc phục bệnh quan liêu của người cán bộ lãnh đạo chính trị. 5 “Bàn về sức sống của VHCT Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh Tạp chí Tuyên giáo online Tuyengiao.vn ngày 02/4/2015, bàn về cơ sở hình thành và phát triển của VHCT Việt Nam; bản chất, bản sắc của VHCT Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Tác giả Lâm Quốc Tuấn trong bài“Một số giải pháp chủ yếu nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 8, 2016 đã luận giải một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo chính trị ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, có 6 vấn đề cần chú ý trong nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo chính trị nước ta. Đó là: 1. Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; 2. Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc nắm vững cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng; 3. Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc trang bị những kiến thức cơ bản về khoa học chính trị và khoa học lãnh đạo; 4. Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc rèn luyện đạo đức, lối sống và phát huy tính tích cực chính trị của chủ thể chính trị này; 5. Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc không ngừng nâng cao trình độ văn hóa chính trị của quần chúng nhân dân lao động; 6. Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo gắn liền với đổi mới công tác cán bộ của Đảng. Nguyễn Thị Thu Hà trong bài Văn hóa chính trị với đạo đức người cán bộ, công chức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ ngh a ở Việt Nam trên website Tạp chí Tổ chức Nhà nước ngày 15/4/2016 đã trình bày mối quan hệ giữa đạo đức với văn hóa chính trị; tác động tích cực và tiêu cực của cơ chế thị trường đến văn hóa chính trị và đưa ra các giải pháp góp phần hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường đến đạo đức và văn hóa chính trị của cán bộ, công chức. 6 Các công trình nghiên cứu trên ở các mức độ khác nhau đã đưa ra các vấn đề liên quan đến VHCT như: khái niệm VHCT, vai trò của VHCT, cơ sở hình thành và phát triển VHCT ở Việt Nam cũng như những phương hướng và giải pháp để nâng cao VHCT nói chung và VHCT của các cán bộ lãnh đạo nói riêng. Đây là những tài liệu hết sức cần thiết để các tác giả tham khảo và kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn của mình. Tuy nhiên, với mục đích và nhiệm vụ của mỗi công trình, có công trình khai thác VHCT ở khía cạnh lý luận, có công trình khai thác VHCT ở khía cạnh thực tiễn, có công trình đề cập đến việc nâng cao VHCT cho một đối tượng nhất định… nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề nâng cao VHCT của cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình. Do đó, đề tài mà chúng tôi lựa chọn không trùng lặp với các đề tài đi trước. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng văn hóa chính trị và việc nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa văn hóa chính trị của đội ngũ này. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Luận văn trình bày khái quát một số vấn đề lý luận về văn hoá chính trị, sự cần thiết phải nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức. - Phân tích thực trạng văn hóa chính trị và việc nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình hiện nay từ đó đưa ra những đánh giá về thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong văn hóa chính trị và việc nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao hơn nữa văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình. 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung khảo sát văn hóa chính trị và việc nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị xã hội ở tỉnh Ninh Bình. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ vấn đề nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Ninh Bình từ năm 2010 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa và văn hóa chính trị; về cán bộ, công chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp các phương pháp: thống kê, điều tra, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý ngh a lý luận: Luận văn góp phần làm rõ khái niệm, cấu trúc, đặc điểm, chức năng của văn hóa chính trị. Sự cần thiết phải nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức. Ý ngh a thực tiễn: Trên cơ sở phân tích thực trạng về văn hóa chính trị của cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức của Tỉnh. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm 02 chương, 5 tiết. 8 Chương 1 VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC 1.1. Văn hóa chính trị 1.1.1. Khái niệm văn hóa chính trị Văn hóa chính trị với tư cách là một bộ phận của văn hóa xuất hiện trong lịch sử cùng với sự xuất hiện của giai cấp. Ý niệm về văn hóa chính trị đã xuất hiện manh nha từ thời cổ đại và trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà tư tưởng lớn thời cổ đại như: Platôn, Arixtốt, Khổng Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi Tử… và tiếp tục được phát triển bởi các nhà tư tưởng chính trị tư sản cận đại nổi tiếng như Môngtexkiơ, Vonte, Rutxô. Trong các tác phẩm của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã đề cập đến một số nội dung cơ bản về VHCT nhưng chưa đưa ra một khái niệm đầy đủ. Tuy nhiên khái niệm văn hóa chính trị lại xuất hiện khá muộn trong khoa học chính trị. Người đầu tiên đưa ra khái niệm VHCT là nhà chính trị học người hoa kỳ G.Almond vào năm 1956 trong bài “Các hệ thống chính trị so sánh” (Comparative Poilitical Systems) đăng trên tạp chí Chính trị học- (Journal of Politics), số 8, 1956. Ông đã tập trung nghiên cứu, phân tích hành vi chính trị, động cơ hành động của các chủ thể từ đó đưa ra định nghĩa VHCT là tập hợp các lập trường và các xu hướng cá nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ sở hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có ý nghĩa. Khái niệm của G.Almond đã mở ra hướng đi mới cho việc nghiên cứu văn hóa chính trị, giúp thoát khỏi tình trạng bế tắc trong việc giải thích các xu hướng liên quan tới chính trị của con người. Sau đó, năm 1963 G.Almond và Sidney Verba trong cuốn “Văn hóa công dân”- (The Civic Culture) đã trình bày cách tiếp cận khoa học về VHCT bằng việc đưa ra một khuôn khổ lý thuyết chung. Theo G.Almond “VHCT là 9 những định hướng, thái độ chính trị đặc biệt với hệ thống chính trị cũng như đối với vai trò của bản thân mình trong hệ thống ấy”. S.Verba cho rằng: “VHCT là hệ thống những niềm tin về kiểu mẫu các thiết chế và sự tương tác chính trị”. Trong ý nghĩa đó, hai ông xem VHCT như một hệ thống chính trị được nội tâm hóa trong nhận thức, tình cảm và sự đánh giá của quần chúng. H. Paul nhà chính trị học người Mỹ đã đưa ra khái niệm VHCT đến nay vẫn được nhiều người đồng tình: “VHCT là tập hợp các lập trường và các xu hướng cá nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là l nh vực chủ quan làm cơ sở cho hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có ý ngh a. Những định hướng cá nhân gồm một số thành tố cụ thể: Định hướng nhận thức: Là hiểu biết đúng, sai về các khách thể và các tư tưởng chính trị. Những hiểu biết này có thể là hiểu biết trực quan về chính trị cũng có thể là tư duy chính trị đã được khoa học hóa. Định hướng tình cảm: Đó là cảm giác về mối liên hệ, sự lôi cuốn, về mâu thuẫn… với các khách thể chính trị nào đó. Định hướng đánh giá: Là ý kiến, nhận xét về các khách thể trên cơ sở căn cứ vào những hệ thống giá trị và tiêu chuẩn để đánh giá”[51] Nhà khoa học chính trị thuộc Đại học Tổng hợp Pausau - Patzelt quan niệm rằng: “VHCT là những giá trị và tri thức, những quan điểm và thái độ của nhân dân, là những dạng thức của hành vi và sự tham dự chính trị; là những quy tắc công khai hoặc được mặc nhiên thừa nhận của quá trình chính trị; là những cơ sở thường nhật của hệ thống chính trị và là tập hợp của tất cả những gì thuộc về văn hóa và tập tục của xã hội hiện tồn”[53, tr.21]. Theo Từ điển Xã hội học Oxford: “VHCT (Political Culture) chỉ những chuẩn mực, giá trị và biểu trưng giúp hợp pháp hóa hệ thống quyền lực chính trị của một xã hội (ví dụ trong xã hội Mỹ, đó là Hiến pháp, nền dân chủ, bình đẳng, quốc kỳ). Khi một nền VHCT sụp đổ hoặc bị hồ nghi, thì sẽ dẫn tới 10 cuộc khủng hoảng về tính hợp pháp, như trường hợp Trung Âu và Liên Xô cũ trong những năm 1989-1991. Văn hóa chính trị giống như văn hóa nói chung, cấu thành từ các mảng tri thức thu nhận được mà con người trong một xã hội cụ thể nào cho là đúng. Các vụ scandal, tiết lộ bí mật, thất bại và thảm họa chính trị có thể làm xói mòn niềm tin của công dân rất nhanh trong cả hệ thống nói chung. Vì lý do này mà việc duy trì VHCT là một mối bận tâm chính của các chính trị gia và quan chức nhà nước các cấp” [10, tr.647-648]. Ở Việt Nam, VHCT đang là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong các công trình nghiên cứu cũng có nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về VHCT, cũng như có rất nhiều khái niệm VHCT được đưa ra. Theo nhóm tác giả Đặng Xuân Kỳ, Vũ Khiêu, Hoàng Chí Bảo: “VHCT không phải là bản thân chính trị mà là chính trị có văn hóa, chính trị tác động vào con người và xã hội như một sức mạnh văn hóa, sức mạnh không phải chỉ dựa vào quyền lực mà phải dựa vào sự cảm hóa con người, thức tỉnh lương tri, lay động tâm tư, tình cảm của con người, thuyết phục, chinh phục, thu phục con người”[30, tr.248]. Các tác giả Bùi Đình Phong và Phạm Ngọc Anh định nghĩa: “VHCT là cái đẹp, cái giá trị của chính trị, tức là chính trị thấm sâu vào tâm lý quốc dân, vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng như một sức mạnh văn hóa, sức mạnh hợp nhất lý và tình, thuyết phục bằng cảm hóa” [31, tr.63]. Nhóm tác giả cuốn Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam cho rằng: “VHCT là một phương diện của văn hóa, ở đó kết tinh toàn bộ các giá trị, phẩm chất, trình độ, năng lực chính trị, được hình thành trên một nền chính trị nhất định, với phương thức hoạt động nhất định, thực hiện lợi ích giai cấp, dân tộc, cộng đồng phù hợp với xu hướng phát triển và tiến bộ của xã hội loài người” [28, tr.24] 11 Trong cuốn “Chính trị học những vấn đề cơ bản” của tập thể tác giả Võ Khánh Vinh, Đỗ Minh Hợp, Lê Kim Bình, Vũ Mạnh Toàn; các tác giả cho rằng “Văn hóa chính trị là hiện tượng chính trị phổ biến, xuyên suốt mọi giai đoạn của tiến trình chính trị. Phát triển theo các quy luật của riêng mình, văn hóa chính trị có khả năng ảnh hướng lớn đến các hình thức tổ chức quyền lực chính trị, đến việc xây dựng các thiết chế quyền lực, đến tính chất của quan hệ giữa các quốc gia” [58, tr.341]. Tác giả Lâm Quốc Tuấn trong bài “Văn hóa chính trị và sự phát triển con người - xã hội” định nghĩa: “VHCT là một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp nói lên tri thức năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực để thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp hay của xã hội phù hợp với sự phát triển lịch sử, được phản ánh trong các hình thức, các kiểu tổ chức hoạt động chính trị trong các thiết chế chính trị, trong các giá trị vật chất cũng như tinh thần do chính trị sáng tạo ra”[54, tr.9]. Từ những khái niệm của các nhà nghiên cứu đi trước về văn hóa chính trị, chúng tôi hiểu, “Văn hóa chính trị là phương diện văn hóa trong hoạt động chính trị bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do chủ thể chính trị sáng tạo ra trong quá trình hoạt động và vận hành của một nền chính trị được biểu hiện thông qua nhận thức, hành vi của chủ thể mang tính tích cực, tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử nhằm đạt được mục đích chính trị”. 1.1.2. Cấu trúc của văn hóa chính trị 1.1.2.1. Văn hóa chính trị tồn tại dưới nhiều góc độ. Nếu xem xét dưới mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì VHCT bao gồm ý thức chính trị và thực tiễn chính trị 12 * Ý thức chính trị là sự phản ánh thực tiễn văn hóa chính trị bao gồm: Tri thức chính trị, niềm tin chính trị, tình cảm chính trị, lý tưởng chính trị, chuẩn mực chính trị, hệ tư tưởng chính trị. - Tri thức chính trị là yếu tố quan trọng cấu thành VHCT, tri thức chính trị là toàn bộ những hiểu biết về chính trị một cách có hệ thống, là khả năng nhận thức, hiểu biết bản chất của sự vật, hiện tượng khách quan trong đời sống chính trị. Tri thức chính trị luôn gắn liền với nhận thức của chủ thể chính trị. Con người khi tham gia đời sống chính trị và hoạt động chính trị phải có sự hiểu biết nhất định. V.I.Lênin cho rằng: “Người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị”[33, tr.218]. Trên cơ sở những tri thức và sự hiểu biết về chính trị, chủ thể chính trị mới có thể giác ngộ về lập trường, quan điểm, giai cấp đúng đắn, qua đó xác định mục tiêu, thái độ và động cơ chính trị, phát huy tính tự giác, quyết tâm, sáng tạo cả trong hoạt động thực tiễn cũng như ở hành vi chính trị. Tri thức chính trị bao gồm tri thức lý luận và tri thức kinh nghiệm có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng yêu cầu trong hoạt động chính trị các chủ thể chính trị không được coi nhẹ hoặc tuyệt đối hóa mặt nào. Tuyệt đối hóa tri thưc lý luận, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn sẽ dẫn đến lý luận suông và chủ nghĩa giáo điều. Ngược lại tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi nhẹ lý luận sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm, cảm tính. - Niềm tin chính trị là sự biểu hiện trạng thái tâm lý, thừa nhận và tin tưởng vào tính đúng đắn của một lý tưởng chính trị, một thể chế chính trị, một hệ tư tưởng chính trị, hệ thống chính trị: Đảng phái, nhà nước, lực lượng lãnh đạo, cầm quyền. Niềm tin chính trị bao gồn niềm tin cảm tính và niềm tin lý tính. Niềm tin chính trị được củng cố vững chắc trong môi trường chính trị lành mạnh, tôi luyện trong hoàn cảnh khó khăn, trải qua thử thách, được kiểm 13 nghiệm thường xuyên trong thực tiễn và thể hiện thông qua hoạt động chính trị hàng ngày. - Lý tưởng chính trị. Một lý tưởng chính trị cao đẹp sẽ là động lực kích thích hoạt động chính trị, là xung lực nội tại để hoàn thiện tư chất của chủ thể chính trị vươn tới những giá trị chân - thiện - mỹ trong hoạt động chính trị đồng thời duy trì niềm tin, tình cảm chính trị. Một lý tưởng chính trị luôn gắn liền với một lý thuyết chính trị nào đó. Nếu lý thuyết chính trị ấy khoa học và chân lý thì tư tưởng chính trị đó sẽ định hướng niềm tin chính trị đúng đắn. Nếu mù quáng về lý tưởng chính trị sẽ làm cho niềm tin chính trị bị lệch hướng. Mặt khác cũng cần phải tránh sự tôn sùng lý tưởng chính trị một cách thái quá để tránh bị chi phối bởi những định kiến chính trị, tránh nhìn nhận vấn đề một cách phiến diện, không đa chiều. Để có một lý tưởng chính trị đúng đắn cần phải luôn hòa đồng với cộng đồng, không nên đồng hóa các cá nhân khác theo lý tưởng mà mình theo đuổi, phải xem xét và nhận thức các lý thuyết chính trị một cách toàn diện, kết hợp với trí tuệ và đạo đức của chủ thể để có được lý tưởng chính trị cao đẹp. - Chuẩn mực chính trị là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó ít nhiều xác định sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi chính trị của mỗi cá nhân nhằm củng cố, đảm bảo sự ổn định, giữ gìn trật tự, kỷ cương, an ninh chính trị. Đó là những yêu cầu được đặt ra từ phía xã hội đối với mỗi cá nhân khi tham gia vào đời sống chính trị. Nó không phải là một khái niệm tĩnh hay phổ quát mà thay đổi theo thời gian, biến chuyển theo sự thay đổi của các chế độ chính trị. Trong quá trình vận động, biến đổi có các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực chính trị đã được hình thành và phát huy vai trò của mình trong việc điều 14 chỉnh các quan hệ và hành vi của con người trong đời sống chính trị cùng với sự biến đổi của thời gian thì những chuẩn mực đó dần trở nên lỗi thời, lạc hậu, khi đó chúng sẽ tự mất đi, bị loại bỏ và được thay thế bằng những chuẩn mực chính trị khác phù hợp hơn, tiến bộ hơn. - Hệ tư tưởng chính trị là hệ thống quan điểm, học thuyết, lý luận xác định chế độ chính trị, cách thức tổ chức nhà nước, mục tiêu chính trị, quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp trong hệ thống chính trị, phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Trong xã hội bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau với lợi ích và động cơ hoạt động khác nhau do đó tồn tại nhiều hệ tư tưởng chính trị khác nhau. Tuy nhiên hệ tư tưởng của giai cấp thống trị sẽ trở thành hệ tư tưởng thống trị xã hội, tri phối trình độ, xu hướng phát triển văn hóa chính trị của xã hội. Hệ tư tưởng được giai cấp cầm quyền thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, đường lối, chủ trương, chính sách để điều chỉnh việc thực hiện hoạt động thực tiễn nhằm thực thi những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Với tư cách là nhân tố phản ánh khái quát lợi ích của giai cấp cũng như con đường để thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp, liên minh giai cấp hoặc của nhân dân lao động nói chung, “hệ tư tưởng là yếu tố cốt lõi nhất, là định hướng cơ bản cho đời sống tinh thần xã hội”[12]. * Thực tiễn chính trị Là toàn bộ hoạt động của con người được điều chỉnh bằng ý thức chính trị, là sự biểu hiện của ý thức chính trị thành hoạt động thực tiễn. Quá trình này bao gồm mục đích, phương tiện thực hiện và bản thân các hoạt động, các hành vi chính trị. Chúng ta cần lưu ý mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện. Mục đích thực hiện có văn hóa nhưng phương tiện thực hiện không văn hóa thì kết quả hành động cũng là không có văn hóa. Nếu mục đích là có văn 15 hóa thì phương tiện cũng phải có văn hóa và đồng thời phương tiện cũng phải có hiệu quả bởi nếu không thì không thể thực hiện được mục đích, hơn nữa không thể lấy mục đích để biện minh cho phương tiện bởi nếu như cái không văn hóa thường xuyên được sử dụng và biện minh như vậy thì từ chỗ là phương tiện cái vô văn hóa sẽ trở thành mục đích, mục đích ban đầu không còn là mục đích nữa mà nó là cái biện hộ cho cái vô văn hóa. Điều này thường xảy ra trong lĩnh vực chính trị. Một bộ phận thường nhân danh những giá trị tốt đẹp nhưng thực tế lại sử dụng phương tiện rất tàn bạo. Thực tiễn chính trị có thể được xem xét ở một số khía cạnh sau: Văn hóa vận hành các thiết chế chính trị, văn hóa của quá trình bầu cử, văn hóa thực hiện các quyết sách chính trị, văn hóa điều chỉnh các xung đột chính trị, hành vi tham gia chính trị của các chủ thể. 1.1.2.2. Xét dưới mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, văn hoá chính trị bao gồm VHCT xã hội, VHCT tổ chức, VHCT cá nhân. * Văn hóa chính trị xã hội: Phản ánh thực tiễn chính trị của một xã hội nhất định và là phương thức điều chỉnh hành vi chính trị của các cá nhân trong xã hội đó. Trong đó những nguyên tắc, chuẩn mực, những quan niệm, lý tưởng chính trị… được hình thành như một hệ thống giá trị chung mà mọi người cần noi theo. *Văn hóa chính trị tổ chức: Là văn hóa chính trị của những cá nhân có chung mục tiêu, lý tưởng, sứ mệnh tự nguyện hợp thành. Đó là sự thống nhất, đoàn kết giữa các cá nhân, hoạt động vì mục tiêu và lý tưởng chính trị chung của tổ chức. Để đảm bảo tính chính đáng của mình, VHCT của tổ chức phải được đảm bảo về mặt pháp lý biểu hiện cụ thể thông qua: hệ thống quy trình làm việc, nội quy, quy chế của tổ chức. * Văn hóa chính trị cá nhân: Là biểu hiện VHCT xã hội trong mỗi cá nhân cụ thể. Đó chính là sự lĩnh hội, nội tâm hóa VHCT xã hội, biến chúng 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan