Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện chương mỹ, thàn...

Tài liệu Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện chương mỹ, thành phố hà nội hiện nay

.PDF
81
145
88

Mô tả:

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ......................................................... 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 7 6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài ........................................................... 7 7. Kết cấu luận văn ............................................................................................ 7 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ ...................... 9 1.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở: Khái niệm, vai trò và tính tất yếu ......................................................................................... 9 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản ......................................................................... 9 1.1.2. Vai trò của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ..................................................................................................................... 15 1.1.3. Tính tất yếu của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở hiện nay ........................................................................................... 19 1.2. Những nội dung cơ bản của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở .............................................................................................. 22 1.2.1. Nâng cao năng lực tư duy khoa học ..................................................... 22 1.2.2. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ lãnh đạo, quản lý về vị trí, vai trò của chính quyền cơ sở trong nhiệm vụ chính trị ................................. 23 1.2.3. Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân ............... 24 1.2.4. Nâng cao trách nhiệm và trình độ đào tạo, bồi dưỡng, phát triển cán bộ lãnh đạo quản lý kế cận, bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ................................................................................................................. 24 1.2.5. Nâng cao năng lực, trình độ, giám sát việc thực hiện các thể chế, chế độ, chính sách, các chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội ........ 25 1.2.6. Nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các thể chế, chế độ, chính sách, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ... 26 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 27 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN CHƢƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY ................................ 29 2.1. Thực trạng việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ hiện nay ......................................................................... 29 2.1.1. Vài nét khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội địa bàn huyện Chương Mỹ - Hà Nội ....................................................................................... 29 2.1.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ hiện nay ....................................................................................... 35 2.1.3. Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ hiện nay ....................................................................................... 40 2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ hiện nay .................................. 53 2.2.1. Cần rà soát, đánh giá và kiện toàn đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.............. 53 2.2.2. Xây dựng tiêu chuẩn rõ ràng trong quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý ..................................................................................................... 54 2.2.3. Có chính sách bồi dưỡng đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, chế độ, tiền lương phù hợp với từng vùng, tạo động lực cho cán bộ quản lý .................... 56 2.2.4. Cần đổi mới lề lối, tác phong làm việc ................................................. 59 2.2.5. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp trên (tỉnh, huyện) đồng thời đổi mới công tác đánh giá, phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý ...................................................................................................................... 63 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 69 KẾT LUẬN .................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ thích ứng với yêu cầu và nhiệm vụ mới, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt; trong đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở các địa phương có tầm quan trọng đặc biệt, mang tính chiến lược để vươn tới những thắng lợi mới trong giai đoạn hiện nay. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. V.I.Lênin khẳng định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [60, tr.473]. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đánh giá rất cao vai trò của công tác cán bộ. Theo Người, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém” [27, tr.10]. Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc nước lấy Đoàn thể làm cốt cán. Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán. Cán bộ lấy đức làm cốt cán. Đó là đạo đức làm người, hoàn thiện con người, đạo đức vì thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại là giải phóng con người và xây dựng xã hội đem lại tự do, hạnh phúc cho con người” [23, tr.XXVII]. Thấm nhuần lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị các cấp, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trung thành với Tổ quốc, với lý tưởng, có phẩm chất, năng lực thực tiễn và bản lĩnh chính trị vững vàng, gắn bó máu thịt với nhân dân, đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử đặt ra góp phần to lớn vào những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. 1 Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta chủ trương tiếp tục xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, trong đó có đội ngũ lãnh đạo cấp cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề và quan trọng mà sự nghiệp cách mạng đặt ra. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá: “Trong thời gian qua, hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng… Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng, chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá” [5, tr.166]. Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi thực hiện trực tiếp và cụ thể các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, việc quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở xã, phường, thị trấn có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Xuất phát từ vị trí quan trọng của cơ sở xã, phường, thị trấn, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ra Nghị quyết số 17NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”. Sau khi Nghị quyết ra đời, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã. Trước yêu cầu ngày càng cao trong lãnh đạo, quản lý, điều hành quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội, quản lý đô thị, xây dựng nông thôn mới… Ở cấp xã hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại nhiều địa phương còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trở thành nhiệm vụ mang tính cấp bách và có tầm quan trọng đặc biệt. 2 Chương Mỹ là một huyện thuộc Thành phố Hà Nội. Trong những năm qua, huyện đã có sự phát triển vượt bậc về các mặt của đời sống kinh tế, xã hội; trong đó, có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở. Tuy nhiên. đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ hiện nay, bên cạnh những thành tích đã đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế yếu kém, chưa phát huy được vai trò trong tổ chức và khai thác được những tiềm năng, thế mạnh của vùng để phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, chưa đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy những giá trị tiên tiến của văn hóa dân tộc và đấu tranh chống những tư tưởng lạc hậu, xây dựng đời sống văn hóa mới… Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, chưa tập hợp được đại đa số những cá nhân ưu tú của cộng đồng người dân trong huyện tham gia, thiếu quy hoạch mang tính chiến lược. Hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Chương Mỹ hoạt động còn lúng túng, kém hiệu quả. Thực tiễn cho thấy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Chương Mỹ đáp ứng được nhiệm vụ trong giai đoạn mới nổi lên như một đòi hỏi khách quan và có tính cấp thiết. Với những lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Chính trị học. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Công tác cán bộ nói chung và vấn đề năng lực cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng đã được nhiều học giả quan tâm. Đã có nhiều công trình trong và ngoài nước về vấn đề này được công bố, có thể kể đến như: V.I.Lênin (1974),“Vấn đề cán bộ trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội”, NXB Sự thật, Hà Nội. Công trình này, đã giới thiệu một số ý kiến của Lê nin và Stalin về vấn đề cán bộ trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội: Những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn và đề bạt cán bộ, tiêu chuẩn của từng loại cán bộ. 3 Nguyễn Phú Trọng (2001),“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình này đã phân tích và khẳng định rằng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa là một yêu cầu cấp bách trong công cuộc đổi mới toàn diện và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tác giả cũng đưa ra những luận cứ tiêu biểu trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ. Trong cuốn“Tư tưởng Hồ Chính Minh về cán bộ và công tác cán bộ”, NXB Lao động, Hà Nội, năm 2002, tác giả Bùi Đình Phong đã phân tích quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công chức và giải pháp để nâng cao năng lực phục vụ nhân dân đối với mỗi người cán bộ công chức trong thời kỳ mới. Đỗ Nguyên Phương (2005),“Mẫu hình và con đường hình thành cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt cơ sở”, NXB Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trong công trình này, tác giả đã phân tích những lý luận và thực tiễn về mẫu hình của một người cán bộ chân chính, đồng thời chỉ ra con đường để trở thành một lãnh đạo chính trị chủ chốt. Luận văn Thạc sĩ của Phan Văn Hai (1997) về đề tài “Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở”; trong đó, tác giả đã phân tích những yêu cầu cấp bách của việc nâng cao năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, từ đó đề xuất những giải pháp để giúp đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có thể nâng cao năng lực chuyên môn cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn công tác tại cơ sở. Mai Đức Ngọc (2002),“Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã vùng Đồng bằng Bắc bộ ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Tác giả đã phân tích sự cần thiết phải nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp xã vùng Đồng bằng Bắc bộ nước ta hiện nay, đồng thời đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo của đội ngũ này, trên cơ sở đó đề xuất những biện pháp để nâng cao năng lực của đội ngũ lãnh đạo hiện nay. 4 Nguyễn Minh Châu (2003), “Xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp xã ở Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Tác giả đã phân tích cơ sở lý luận của việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, khái quát thực trạng năng lực đội ngũ cán bộ cấp xã vùng Đồng bằng sông Cửu Long, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ này. Trương Tiến Hưng (2004), “Luật tục Chăm và sự vận dụng trong quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã ở Ninh Thuận”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Trong đó, tác giả đã phân tích, làm rõ những tiền đề lý luận của việc quản lý nhà nước, khái quát tục Chăm ở đây, qua đó khái quát vấn đề quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã thuộc tỉnh Ninh Thuận; trên cơ sở đó xuất một số quan điểm áp dụng luật tục Chăm vào quản lý nhà nước ở cấp xã ở tỉnh Ninh Thuận. Bùi Khắc Hằng (2004),“Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hóa hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Công trình đã đưa ra cơ sở lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, đồng thời khát quát thực trạng công tác cán bộ ở cấp cơ sở của tỉnh Thanh Hóa, từ đó luận giải một số giải pháp nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới. Nguyễn Danh Tuyên (2017), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc xây dựng đội ngũ cán bộ ở thành phố Tuy Hòa hiện nay”. Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại học Kinh tế Đà Nẵng. Luận văn được chia thành 3 phần: Phần thứ nhất, tác giả đã phân tích lý luận về cán bộ và công tác cán bộ của Hồ Chí Minh; phần thứ 2, tác giả đưa ra thực trạng công tác cán bộ ở huyện Tuy Hòa hiện nay; phần thứ 3, tác giả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện Tuy Hòa. 5 Ngoài ra, còn có nhiều bài báo của các nhà nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí khoa học về vấn đề cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Qua phân tích kết quả nghiên cứu của các công trình trên cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội hiện nay” một cách toàn diện, sâu sắc, hệ thống dưới góc độ chính trị học. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu đã được công bố, cùng với những tìm tòi, điều tra, nghiên cứu, tác giả luận văn hy vọng có thể trình bày, phân tích và luận giải vấn đề này một cách có hệ thống, sáng rõ hơn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn này Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở, đồng thời phân tích thực trạng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở trên địa bàn huyện trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ của luận văn - Làm rõ một số vấn đề lý luận về nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở nước ta hiện nay. - Phân tích thực trạng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội trong thời gian qua. - Luận giải một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Về đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội dưới góc độ chính trị học. 6 4.2. Về phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở trên địa bàn huyện Chương Mỹ, gồm Bí thư Đảng ủy, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, Bí thư Đoàn thanh niên xã và trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở. Đồng thời, luận văn có kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình đi trước có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác, như phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp so sánh… để giải quyết những nhiệm vụ mà đề tài đã đặt ra. 6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài Qua kết quả nghiên cứu, dưới góc độ chính trị học, đề tài góp phần phác thảo bức tranh khái quát về thực trạng và những vấn đề đang đặt ra đối với yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn huyện Chương Mỹ. Trên cơ sở những căn cứ lý luận và thực tiễn khoa học, luận văn góp phần đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội trong giai đoạn mới. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung đề tài được kết cấu thành 2 chương và 4 tiết. 7 Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội hiện nay 8 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ 1.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở: Khái niệm, vai trò và tính tất yếu 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng, “cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho quần chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình người dân báo cáo cho Đảng và Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng ”; “vì vậy cán bộ là cái gốc của mọi việc” [27, tr.309]. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của mình, Người luôn quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Người nói: Việc đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ là rất quan trọng, rất cần thiết và “Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu, phải trọng nhân tài,trọng cán bộ, trọng những người có ích cho công việc chung của chúng ta” [27, tr.32]. Khái niệm cán bộ cấp cơ sở: Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008 quy định về cán bộ như sau: Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Cơ sở là đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động như sản xuất, công tác, v.v. của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với các bộ phận lãnh đạo cấp trên. 9 Theo Khoản 3 điều 4 Luật Cán bộ công chức quy định: Cán bộ cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội. Khái niệm năng lực: Nói tới năng lực là nói tới phẩm chất đạo đức, trí nhớ, tính nhạy cảm, trí tuệ, tính cách… của mỗi cá nhân con người (năng lực con người). Năng lực là một từ ngữ rất trừu tượng, khó định lượng và có rất nhiều quan điểm khác nhau: - Theo Từ điển tiếng Việt Nam của Viện Ngôn ngữ học (NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 2000) [50, tr.639], “Năng lực được hiểu là khả năng điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có; phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. - Trong cuốn thuật ngữ hành chính (Hà Nội, 2002, Viện Nghiên cứu hành chính) [57, tr.118] định nghĩa “Năng lực là khả năng về thể chất và trí tuệ của cá nhân con người, hoặc khả năng của một tập thể có tổ chức tự tạo lập và thực hiện được các hành vi xử sự của mình trong các quan hệ xã hội nhằm thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ do mình đề ra hoặc do nhà nước hay chủ thể khác với kết quả tốt nhất”. - Theo Từ điển Tâm lý học, Viện Tâm lý học, năm 2007 [49], “Năng lực là tập hợp các tính chất, hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò làm điều kiện bên trong, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt nội dung hoạt động nhất định. Người có năng lực là người đạt được hiệu suất hoạt động cao trong hoàn cảnh khách quan và chủ quan như nhau”. Xét dưới góc độ pháp lý: năng lực của một chủ thể có thể bao gồm nhiều yếu tố, nhưng trong đó có hai yếu tố chủ yếu đó là năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Khái niệm năng lực lãnh đạo, quản lý: Theo Từ điển tiếng Việt, “lãnh đạo” là ra chủ trương và tổ chức động 10 viên thực hiện, “quản lý” là tổ chức điều khiển các hoạt động theo các yêu cầu đã đề ra. Như vậy, khái niệm “năng lực lãnh đạo, quản lý” được hiểu là khả năng khái quát, đánh giá thực tiễn để đưa ra những chủ trương, đường lối và hiện thực hóa chủ trương, đường lối đó trong cuộc sống trên cơ sở có sự thống nhất, tập trung theo nguyên tắc thực tiễn. Năng lực lãnh đạo, quản lý cũng phản ánh phẩm chất của người cán bộ, đặc biệt là cán bộ giữ vị trí lãnh đạo. Người có phẩm chất này sẽ tạo ra động lực cho sự lãnh đạo, từ đó tạo ra bước tiến về kinh tế, văn hóa, xã hội ở cấp cơ sở. Ngược lại, nếu lãnh đạo không có phẩm chất này thì khó có thể tổ chức thực hiện, đưa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào trong thực tiễn cách mạng Việt Nam ở thời kỳ đổi mới. Về mặt bản chất, “lãnh đạo” và “quản lý” là những nội dung có quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau, đan xen nhau. Xét về mặt nội dung, tính chất thì giữa hai khái niệm này có điểm gần giống nhau nên người ta thường sử dụng cụm từ chung là “lãnh đạo, quản lý”. Vì thế, hoạt động lãnh đạo cũng đồng thời thực hiện chức năng quản lý và hoạt động quản lý cũng đồng thời thực hiện chức năng lãnh đạo. Tuy nhiên, khái niệm lãnh đạo và quản lý không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Trong quá trình lãnh đạo, hoạt động chủ yếu là định hướng cho khách thể thông qua hệ thống cơ chế, đường lối chủ trương chính sách làm thức tính hành vi của đối tượng, định hướng hoạt động của đối tượng và xã hội. Còn hoạt động quản lý mang tính điều khiển, vận hành thông qua những thiết chế có tính pháp lệnh được quy định từ trước. Phẩm chất và năng lực không thể tách rời trong một chủ thể lãnh đạo. Phẩm chất làm nền tảng cho năng lực phát triển; năng lực lại thể hiện phẩm chất khi nó căn cứ trên các phẩm chất và năng lực, đặc biệt là những phẩm chất và năng lực biểu hiện thành những kết quả có giá trị và cống hiến lớn của người lãnh đạo cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đẩy nhanh quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. 11 Để đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phải có các phẩm chất cần thiết sau: Thứ nhất, có tầm nhìn xa trông rộng, có trình độ và khả năng phù hợp với bản chất của xã hội công nghiệp – xã hội hiện đại. Thứ hai, có nhân cách lãnh đạo phù hợp với bản chất xã hội công nghiệp – xã hội hiện đại phát triển theo hướng nhân văn: Xu hướng và mục tiêu chính trị là phát triển và tiến bộ xã hội – con người. Thứ ba, có tư duy khoa học, phương pháp tư duy duy vật biện chứng, phù hợp với tính chất công nghiệp, lối sống hiện đại, biểu hiện trong năng lực tư duy sắc bén nhanh nhạy, uyển chuyển, sáng tạo. Thứ tư, có tư chất đặc thù của người lãnh đạo, như vững vàng về chính trị và tư tưởng, phát triển sâu sắc và phong phú thế giới nội tâm; yếu tố lý trí và yếu tố tình cảm hài hòa. Thứ năm, có tri thức và kinh nghiệm phát triển tương ứng với tính chất công việc được giao: tri thức tổng hợp và chuyên sâu. Thứ sáu, có trình độ cao, kể cả hiểu biết về nền khoa học – công nghệ hiện đại, cũng như thao tác về kỹ thuật vi tính, viễn thông... Thứ bảy, có khả năng tập hợp mọi người và quy tụ họ xung quanh mình, tổ chức, huy động, phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể để thực hiện tối ưu mục tiêu chung. Thứ tám, có khả năng tiên đoán, dự báo các khả năng có thể xảy ra trong hiện thực và tương lai, đồng thời dự phòng các khả năng giải quyết, thực hiện chúng trong những điều kiện ngặt nghèo nhất. Thứ chín, có khả năng sáng tạo, phá vỡ cái định hình, vượt qua cái cũ, tìm tòi, khám phá, phát hiện và đề xuất cái mới có ích cho nhân dân, có giá trị cho xã hội. Thứ mười, có khả năng quyết đoán, táo bạo, đồng thời lại chắc chắn trong việc đưa ra những quyết định cũng như trong chỉ đạo hành động. 12 Khái niệm cán bộ lãnh đạo: Khái niệm cán bộ lãnh đạo được hiểu theo hai thành phần sau: Thứ nhất, cán bộ lãnh đạo được hiểu là những ai giữ chức vụ và trách nhiệm cao trong một tổ chức có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức, của bộ máy, có vai trò tham gia định hướng, điều khiển hoạt động của cả bộ máy. Ví dụ: Các uỷ viên ban chấp hành, ban thường vụ, trưởng, phó các cơ quan, đơn vị . Cán bộ lãnh đạo chính là những người đứng đầu, có chức vụ cao nhất trong một tập thể, có quyền ra quyết định về chủ trương, có trách nhiệm và quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ của tập thể, tổ chức ấy; thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động của tổ chức và của cả hệ thống chính trị. Cán bộ quản lý là những người điều hành, có chức năng và nhiệm vụ điều khiển, tổ chức và phối hợp thực hiện hoạt động chuyên môn trong một khâu, một công đoạn, một chương trình dự án. Xét cho cùng, hoạt động quản lý là sự tiếp nối của hoạt động lãnh đạo, là khâu tất yếu để thực hiện sự lãnh đạo. Sự phân biệt này chỉ là tương đối nhưng rất cần thiết đối với công tác cán bộ, làm cơ sở cho việc xác định tiêu chuẩn, chức năng của cán bộ lãnh đạo, bộ máy lãnh đạo với tiêu chuẩn, chức năng của người cán bộ quản lý, bộ máy quản lý; tránh sự trùng lặp, chồng chéo giữa các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Thứ hai, cán bộ lãnh đạo là những người đứng đầu tổ chức, quốc gia. Họ là nhóm người lãnh đạo ở tầm vĩ mô. Trong xã hội hiện đại, những người như vậy được gọi là nhóm lãnh đạo chính trị quốc gia, hay còn gọi là cán bộ lãnh đạo cao cấp, chủ chốt. Nhìn lại lịch sử ở bất kỳ thời đại nào cũng thấy sự thể hiện vai trò của người lãnh đạo trong việc quyết định vận mệnh quốc gia, dân tộc theo hai hướng: Khi tích cực, vai trò ấy là sự định hướng đúng, thúc đẩy xã hội tiến bộ, dân tộc có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, huy động và quy 13 tụ được những người có tài đức trong xã hội để chấn hưng, đổi mới đất nước. Khi tiêu cực vai trò ấy là kìm hãm, đẩy lùi tiến bộ xã hội, gây nên tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Thực tiễn nước ta cho thấy bước vào thời kỳ, giai đoạn phát triển mới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trên cơ sở có sự phân loại, phân định chức danh của các nhóm cán bộ và công chức; phải xây dựng tiêu chuẩn, quy chế hoạt động cho từng loại, từ đó có sự đổi mới về chính sách tuyển chọn, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ và quản lý phù hợp. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở: Cán bộ lãnh đạo hiểu theo nghĩa rộng là người giữ chức vụ và trách nhiệm cao trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức, bộ máy; có vai trò tham gia định hướng, điều khiển hoạt động của bộ máy. Cán bộ lãnh đạo, quản lý là người có chức năng lãnh đạo, quản lý, được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo, quản lý để điều hành và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp trên về nhiệm vụ được giao trên cương vị ở một cấp và các lĩnh vực khác nhau mà họ đảm nhiệm; là người đứng đầu một cơ quan, tập thể giữ vị trí quan trọng trong việc hoạch định chiến lược, xác định mục tiêu, phương hướng, đề ra các quyết định, chủ trương chính sách và tổ chức động viên thực hiện tốt các nhiệm vụ đề ra ở cấp mình và những nhiệm vụ cấp trên giao phó. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là những người đứng đầu, có chức vụ quan trọng nhất thuộc ban lãnh đạo của các cơ quan Đảng, chính quyền và các cơ quan chuyên trách ở cấp cơ sở (còn gọi là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở). Theo đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở bao gồm: - Bí thư, phó bí thư Đảng uỷ cấp xã; Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân. 14 - Chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân. - Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc. - Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Theo Hiến pháp năm 2013, ở nước ta cơ cấu tổ chức của hệ thống chính trị chia làm 4 cấp: Cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong sự phân cấp hành chính, là nơi nhân dân cư trú, sinh sống, gắn bó chặt chẽ trong các quan hệ kinh tế, dòng tộc và văn hóa. Cấp cơ sở là nơi trực tiếp sản xuất vật chất, là nền tảng vật chất cơ bản của xã hội, là nơi có thể tổ chức, huy động, phát huy cao độ nội lực của quần chúng nhân dân. Khái niệm nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý: Năng lực lãnh đạo, quản lý là tổng hợp những phẩm chất, trình độ, kinh nghiệm thực tiễn và khả năng đáp ứng yêu cầu hoạt động lãnh đạo của cán bộ cấp cơ sở. Điều này được thể hiện tiêu biểu nhất ở năng lực lãnh đạo của cấp uỷ đảng. Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý chính là khả năng quán triệt sâu sắc và vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của địa phương mình quản lý để đề ra các chủ trương, phương hướng đúng, có biện pháp tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ ở cơ sở mình quản lý; tuyên truyền, vận động, giáo dục để lôi cuốn quần chúng thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời kiểm tra việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của quần chúng trong khu vực nhằm thúc đẩy sản xuất, tăng năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân; chấn chỉnh và cải tiến sinh hoạt Đảng, thực hiện có nền nếp việc quản lý đảng viên. 1.1.2. Vai trò của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ cấp cơ sở Thứ nhất, về vai trò, vị trí cán bộ. Xã là đơn vị cấp hành chính cuối cùng trong bốn cấp của hệ thống quản 15 lý hành chính, là cấp thấp nhất theo sự phân cấp quản lý nhưng thấp nhất không đồng nghĩa với ít quan trọng nhất. Do vậy, xây dựng cán bộ cấp xã là nhiệm vụ rất quan trọng. Có thể đánh giá vị trí, vai trò của cán bộ cấp xã trên một số khía cạnh sau: - Cán bộ xã là người giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực hoá sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội ở cơ sở. - Cán bộ xã là người giữ vai trò quyết định trong việc quán triệt, tổ chức thực hiện mọi quyết định của cấp uỷ cấp trên, cấp uỷ cùng cấp và mọi chủ trương, kế hoạch, sự chỉ đạo của chính quyền cấp trên, cũng như mọi chương trình, kế hoạch của chính quyền xã. - Cán bộ xã là cầu nối quan trọng nhất giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. - Cán bộ xã giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng và thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở. Thứ hai, về vai trò, vị trí công tác cán bộ xã. Công tác cán bộ là một bộ phận trong công tác xây dựng Đảng, là công tác Đảng liên quan chặt chẽ với việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách và nhiệm vụ chính trị, với việc sắp xếp tổ chức, bộ máy, cơ chế và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong cả hệ thống chính trị. Hiểu một cách tổng quát, xây dựng cán bộ cấp xã là toàn bộ hoạt động của chủ thể có đủ thẩm quyền và trách nhiệm pháp lý, nhằm bồi dưỡng, phát triển cán bộ xã đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có lập trường chính trị vững vàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở. Đồng thời còn bao hàm cả việc nâng cao chất lượng cán bộ xã hiện có để thích ứng với cơ chế mới, yêu cầu mới của nhiệm vụ chính trị đang đặt ra. Chủ thể xây dựng cán bộ cấp xã bao gồm các Huyện uỷ, Thị uỷ, trong đó trước hết là Ban Thường vụ Huyện uỷ, Thị uỷ và những người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp huyện; tổ chức cơ sở đảng xã, mà 16 trực tiếp là Ban Thường vụ Đảng uỷ xã, phường, thị trấn, và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cấp xã. Công tác xây dựng cán bộ xã nhằm phát hiện, tìm ra những con người thật sự có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức và năng lực đủ sức gánh vác những trọng trách của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Công tác đó bao gồm: Việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách về cán bộ và công tác cán bộ của Đảng; xác định tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ và đội ngũ cán bộ, những tiêu chí nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ, như quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, bảo vệ chính trị nội bộ và thực hiện chính sách cán bộ. Thứ ba, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cán bộ cơ sở là sự biểu hiện vai trò lãnh đạo của Đảng và khả năng, sức mạnh của tổ chức đảng ở cấp cơ sở. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được biểu hiện trước hết ở trình độ giác ngộ cao, bản lĩnh chính trị vững vàng của các tổ chức cơ sở đảng ở địa phương trước mọi biến động của tình hình chính trị - xã hội. Khả năng khắc phục những biểu hiện tiêu cực, sai trái, những hạn chế, khuyết điểm của bản thân tổ chức cơ sở đảng và chính quyền xã. Điều đó được thể hiện ở việc ủng hộ cái đúng, cái mới, cái tiến bộ, bảo vệ chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, sự nghiệp đổi mới đất nước; thể hiện ở sự đoàn kết, kỷ luật nghiêm và chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng; thể hiện ở tính tiên phong gương mẫu, ý chí quyết tâm của cán bộ, đảng viên – đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong thực hiện nhiệm vụ trước những biến động tình hình ở địa phương. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều được tổ chức thực hiện ở cơ sở. Mặt khác, mọi chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng cũng đều được hình thành và kiểm nghiệm từ cơ sở. Chính vì vậy, cán bộ lãnh đạo, 17 quản lý cấp cơ sở ảnh hưởng trực tiếp tới mọi quyết sách của Đảng ta, đây cũng là nơi đánh giá quyết sách của Đảng có hiệu quả hay không hiệu quả, hợp lý hay bất hợp lý; đồng thời, cấp cơ sở cũng là nơi nhân dân thể hiện quyền và trách nhiệm giám sát của mình đối với bộ máy lãnh đạo, quản lý cấp xã. Để thể hiện rõ hơn vai trò và vị thế của Đảng, của nhân dân trong hoạt động quản lý Nhà nước thì đòi hỏi cán bộ cấp cơ sở phải có đủ tầm để thực hiện sứ mệnh này. Thứ tư, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là người gắn bó trực tiếp với cơ sở, với nhân dân; hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở đều ảnh hưởng lớn đến uy tín của Đảng, Nhà nước, đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là những người trực tiếp tiếp xúc với quần chúng nhân dân và bà con nông dân. Đa số họ là những người sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ cơ sở, từ chính quê hương mình. Do vậy, họ là những người hiểu quần chúng nhân dân, hiểu tâm tư, nguyện vọng cũng như những thuận lợi, khó khăn của quần chúng nhân dân; hiểu phong tục, tập quán, đặc điểm văn hóa trên địa bàn mà họ phụ trách, họ gắn bó với cơ sở. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở không chỉ gần gũi, tiếp xúc với dân trong giờ hành chính, trong thời gian làm việc ở văn phòng mà còn trong các buổi sinh hoạt ở địa bàn, ngoài giờ hành chính. Họ làm nhiệm vụ của mình thông qua các biện pháp hành chính, đồng thời còn phải trực tiếp làm công tác vận động quần chúng, tạo nên tinh thần đoàn kết nhất trí trong nhân dân, bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống, những phong tục tập quán lâu đời của địa phương mình. Hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở bị chi phối bởi cả quan hệ gia đình, dòng tộc, phong tục, tập quán của địa phương đến việc chung của xã hội. Họ đóng nhiều vai trò khác nhau trong giao tiếp, ứng xử để điều hòa hoạt động. Chẳng hạn, họ đóng vai trò hòa giải trong mối quan hệ 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan