Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của việt nam...

Tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của việt nam

.PDF
111
15
107

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ NGUYỄN DUY ANH NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM ĐIỀU XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS PHAN HUY ĐƯỜNG LUẬN VĂN ThS KINH TẾ HÀ NỘI 2006 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam MỤC LỤC Trang Đặt vấn đề CHƢƠNG I NĂNG LỰC CẠNH TRANH – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC 1 3 TIỄN 1.1. Năng lực cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu 1.1.1. Cạnh tranh, phân loại cạnh tranh 1.1.2. Năng lực cạnh tranh 1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm 1.1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá NLCT 1.1.3.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến NLCT 1.1.3.2.1. Năng lực cạnh tranh dựa vào các lợi thế * Năng lực cạnh tranh dựa vào lợi thế tuyệt đối * Năng lực cạnh tranh dựa vào lợi thế tƣơng đối * Năng lực cạnh tranh dựa vào lợi thế cạnh tranh 1.1.3.2.2. Năng lực cạnh tranh dựa vào các nhân tố khác 1.2. Kinh nghiệm một số nước về nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu và bài học rút ra cho Việt Nam 1.2.1. Kinh nghiệm một số nƣớc về nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu ấn Độ Inđônê xia Bra xin CÁC NƢỚC CHÂU PHI 1.2.2. Bài học rút ra cho Việt Nam CHƢƠNG II THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM ĐIỀU XUẤT 3 3 6 11 11 15 15 15 18 21 22 26 26 26 27 28 28 29 33 KHẨU CỦA VIỆT NAM 2.1. Tổng quan về sản xuất và xuất khẩu sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam 107 33 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam 2.1.1. Sản xuất điều ở Việt Nam 2.1.1.1. Cây điều và vị trí của nó trong kinh tế nông nghiệp Việt Nam. 2.1.1.2. Điều kiện sinh thái vàđặc điểm kinh tế - kỹ thuật trong sản xuất điều 2.1.1.3. Tình hình sản xuất và xuất khẩu điều của Việt Nam * Tình hình sản xuất - Diện tích-năng suất-sản lƣợng điều - Hình thức và quy mô sản xuất điều - Tình hình thực hiện quy trình kỹ thuật trồng điều 2.1.2. Chế biến và xuất khẩu điều của Việt Nam 2.1.3. Những thành tựu và hạn chế về sản xuất và xuất khẩu sản phẩm điều của Việt Nam * Những thành tựu * Những tồn tại 2.2. Đánh giá Năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam 2.2.1. Về sản xuất điều 2.2.1.1. Suất đầu tƣ trồng mới và chi phí hàng năm cho 1 ha điều 2.2.1.2. Năng suất, chất lƣợng và giá thành sản phẩm-Tác nhân của NLCT 2.2.2. Về chế biến điều xuất khẩu 2.2.3. Về thị trƣờng xuất khẩu sản phẩm điều Việt Nam 2.2.4. Về giá và hệ số cạnh tranh về giá sản phẩm điều xuất khẩu CHƢƠNG III QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT 33 33 36 39 39 39 42 45 49 57 57 59 62 62 64 67 69 71 72 78 TRIỂN CÂY ĐIỀU Ở VIỆT NAM 3.1. Bối cảnh kinh tế tác động đến phát triển sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh ngành điều 3.1.1. Bối cảnh quốc tế 3.1.2. Bối cảnh trong nƣớc 3.2. Quan điểm nâng cao NLCT… 3.3. Phương hướng phát triển ngành điều của Việt Nam 108 78 78 79 81 83 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam 3.4. Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam 3.4.1. Công tác kế hoạch-quy hoạch 3.3.2. Đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, gieo trồng và chế biến điều 3.3.3. Về tiêu thụ và phát triển thị trƣờng 3.3.4. Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực 3.3.5. Công tác quản lý nhà nƣớc 3.3.6. Về cơ chế chính sách, môi trƣờng kinh doanh 3.3.7. Phân công nhiệm vụ thực hiện cụ thể cho các ban ngành Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo Biểu phụ lục 109 86 86 87 89 90 91 92 94 96 97 102 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG, SƠ ĐỒ Số TT Biểu số 1. Biểu số 2. TÊN BIỂU Trang 35 Khối lƣợng và kim ngạch 1 số mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam 38 So sánh suất đầu tƣ trồng mới, chi phí hàng năm và khấu hao vƣờn cây của điều và một số cây trồng khác tại Việt Nam. Biểu số 3. Biểu số 4. Biểu số 5. Biểu số 6. Biểu số 7. Biểu số 8. Biểu số 9. Biểu số 10. Biểu số 11. Biểu số 12. DIỆN TÍCH - NĂNG SUẤT VÀ SẢN LƢỢNG ĐIỀU Ở VN Diện tích điều phân bố theo các vùng ở Việt Nam Số lao động nông nghiệp trong sản xuất điều QUY MÔ DIỆN TÍCH VÀ TỔNG THU TỪ TRỒNG TRỌT CỦA CÁC HỘ ĐIỀU TRA Tổng hợp các hộ nông dân trồng điều năng suất cao Số lƣợng cơ sở và công suất chế biến điều tại VN TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU ĐIỀU CỦA V. NAM (Giai ®o¹n 1990-1994) Tình hình xuất khẩu điều nhân (1990-2005) Thị phần xuất khẩu nhân điều của Việt Nam TÌNH HÌNH GIÁ THU MUA ĐIỀU THÔ VÀ GIÁ XUẤT KHẨU ĐIỀU 40 41 43 44 45 52 53 54 55 57 NHÂN CỦA VIỆT NAM Biểu số 13. so sánh Năng suất điều thô của VN và Các nƣớc Biểu số 14. Suất đầu tƣ trồng mới và chăm sóc hàng năm cho 1 ha điều Biểu số 15. CHI PHÍ SẢN XUẤT HÀNG NĂM CHO 1 HA CÂY ĐIỀU Biểu số 16. Mối tƣơng quan giữa chi phí đầu tƣ, năng suất và hiệu quả sản xuất điều ở Việt 63 65 66 68 Nam Biểu số 17. Biểu số 18. Biểu số 19. Biểu số 20. Biểu số 21. Biểu số 22. Sơ đồ 1 So sánh chỉ số đo của hạt điều thô của các nƣớc CHI PHÍ TRONG CHẾ BIẾN HẠT ĐIỀU TẠI VIỆT NAM So sánh giá xuất khẩu nhân điều của Việt Nam với 1 số nƣớc Giá điều thô và giá nhân điều chế biến qua các công đoạn TỶ LỆ BẢO HỘ DANH NGHĨA SẢN PHẨM ĐIỀU VIỆT NAM Chỉ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC) của ngành điều việt nam Quy trình chế biến điều xuất khẩu tại việt nam 106 69 70 73 75 76 77 50 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trƣờng, mở cửa và hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, hầu hết các quốc gia đều thừa nhận: trong mọi hoạt động đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không chỉ là môi trƣờng, động lực của sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất – kinh doanh phát triển và tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng, mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các mối quan hệ xã hội khi Nhà nƣớc đảm bảo sự bình đẳng trƣớc pháp luật của các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế. Ở Việt nam, sau hơn 20 năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng, đặc biệt trong những năm gần đây, khi chính sách kinh tế nhiều thành phần đi vào cuộc sống, tƣ tƣởng cạnh tranh giữa các đơn vị, giữa các thành phần kinh tế đƣợc thừa nhận thì nhiều doanh nghiệp và nhiều mặt hàng của Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trƣờng trong nƣớc và vƣơn ra cạnh trạnh đƣợc trên thị trƣờng nƣớc ngoài. Đối với ngành sản xuất nông nghiệp, trong thời gian qua cả nƣớc đã chủ động khai thác và phát huy các lợi thế và tiềm năng về đất đai, lao động và các điều kiện sinh thái nhiệt đới khác…, đã hình thành nhiều vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá với quy mô lớn, đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền vững với nhiều nông sản hàng hoá xuất khẩu có giá trị kinh tế cao nhƣ: gạo, cao su, cà phê, hạt điều, hạt tiêu, chè v.v. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đang chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đời sống ngƣời dân đƣợc cải thiện và tăng lên đáng kể, vị thế nền nông nghiệp Việt Nam đã đƣợc khẳng định rõ trên trƣờng quốc tế. Tuy nhiên, sức cạnh trạnh của phần lớn các doanh nghiệp và hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam còn yếu kém cả về chất lƣợng, mẫu mã, chủng loại và giá cả, cả về kinh nghiệm và uy tín thƣơng mại trên thị trƣờng thế giới, nhất là các doanh 1 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam nghiệp trong ngành nông nghiệp và các nông sản xuất khẩu; Tốc độ hội nhập của Việt Nam còn khiêm tốn; Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam qua các năm còn thấp: năm 1997 xếp thứ 49/53 nƣớc so sánh, năm 2000 xếp thứ 65/80, năm 2004 xếp thứ 77/102 nƣớc so sánh. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc liệt trên thị trƣờng thế giới, việc tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế chính sách, thay đổi cách sản xuất – kinh doanh nhằm phát huy hết các lợi thế tiềm năng, đẩy mạnh phát triển sản xuất, nâng cao lực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế của cả nền kinh tế và của từng ngành, từng doanh nghiệp là nội dung cơ bản để Việt Nam nhanh chóng phát triển và hội nhập một cách tốt nhất vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế kinh tế vừa qua, ngành sản xuất điều của Việt Nam đã có sự phát triển vƣợt bậc cả về tăng diện tích, năng suất và sản lƣợng, cả về nâng cao chất lƣợng sản phẩm, tăng khối lƣợng và giá trị kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, những khó khăn và thách thức đối với ngành điều còn nhiều và chƣa thể khắc phục ngay đƣợc. Để ngành sản xuất điều ngày càng phát triển mạnh mẽ và vững chắc hơn, trở thành một ngành xuất khẩu mũi nhọn của nƣớc ta, chúng ta cần phải giải quyết nhiều vấn đề vƣớng mắc cả về kinh tế và kỹ thuật, cả về cơ chế quản lý ở tầm vĩ mô và vi mô, tạo dựng và phát triển hơn nữa những tiềm năng và lợi thế cạnh tranh hơn hẳn của ngành sản xuất điều. Trong cơn lốc toàn cầu hoá, tự do hoá thƣơng mại của nền kinh tế thế giới hiện nay, sản xuất và sản phẩm của ngành điều cũng nhƣ sản xuất các ngành nông sản khác đang phải đƣơng đầu với một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Tồn tại và phát triển hoặc thất bại, phá sản đều phụ thuộc vào chúng ta khi đƣa ra các quyết sách và những giải pháp đúng đắn nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh và vƣợt qua những rào cản hiện nay. 2 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam Đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam” mà nhóm tác giả nghiên cứu cũng nhằm mục đích giải quyết tốt những nội dung đặt ra trên đây. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến năng lực cạnh tranh sản phẩm điều Việt Nam đã có nhiều tác giả và công trình nghiên cứu nhƣ: - TS. Phi Văn Kỷ: Cây điều ở Việt Nam và khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng thế giới - Báo cáo chuyên đề nghiên cứu khoa học. Viện kinh tế nông nghiệp 12/2000. - Báo cáo công tác thu mua, chế biến và xuất khẩu sản phẩm Điều Tổng Công ty XNK nông sản thực phẩm 2001. - Công nghệ và thiết bị chế biến điều Trƣờng Đại học Bách Khoa TP Hồ Chí Minh 2000 - Chƣơng trình phát triển thị trƣờng và xúc tiến thƣơng mại hàng nông sản 2001 - 2005. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 1/2001. - Báo cáo tình hình và khả năng phát triển cây điều năm 2010 Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn 3/2000. Tuy nhiên, các công trình đó có những cách nhìn nhận khác nhau, các công trình đó thƣờng nghiêng về phát triển sản xuất cây điều. Theo nghiên cứu của tác giả Luận văn cho rằng phải nhìn nhận năng lực cạnh tranh từ sản phẩm chế biến, kinh doanh xuất khẩu, đặt năng lực cạnh tranh của các sản phẩm điều xuất khẩu trong môi trƣờng quốc tế với năng lực cạnh tranh của các mặt hàng khác trên cơ sở tiếp cận nguồn lực nông nghiệp có hạn để đƣa ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam một cách thích hợp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam - Mục đích làm rõ năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. - Nhiệm vụ: Hệ thống hoá một số lý luận về cạnh và sức cạnh tranh của hàng hoá các nhân tố ảnh hƣởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm điều xuất khẩu Việt Nam. - Phân tích đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng năng lực cạnh tranh của sản phẩm điều xuất khẩu Việt Nam. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm điều xuất khẩu Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh và các nhân tố ảnh hƣởng năng lực cạnh tranh trong sản phẩm điều xuất khẩu Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu ở cấp độ sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam thời gian từ 1999 đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu: - Phƣơng pháp duy vật biến chứng, duy vật lịch sử - Phƣơng pháp phân tích so sánh, thống kê, tổng hợp. 6. Những đóng góp của đề tài - Hệ thống hoá và hoàn thiện các luận cứ khoa học về năng lực cạnh tranh của sản phẩm điều xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập. - Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh, chỉ ra các nguyên nhân làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm điều xuất khẩu Việt Nam. - Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu Việt Nam thời gian tới. 7. Kết cấu đề tài 4 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam Ngoài mở đầu kết luận tài liệu tham khảo đề tài kết cấu ba chương: Chương 1: Năng lực cạnh tranh - một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam Chương 3: Quan điểm, phương hướng và những giải pháp phát triển cây điều ở Việt Nam CHƢƠNG I NĂNG LỰC CẠNH TRANH – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM ĐIỀU XUẤT KHẨU. 1.1.1. Cạnh tranh, phân loại cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trƣờng, cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là một nội dung trong cơ chế vận động của thị trƣờng. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lƣợng ngƣời cung cấp càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Các học thuyết kinh tế thị trƣờng đều thừa nhận rằng: cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trƣờng, nơi mà cung – cầu và giá cả hàng hoá là những nhân tố cơ bản của thị trƣờng. Cạnh tranh là đặc trƣng cơ bản của cơ chế thị trƣờng, là linh hồn sống của thị trƣờng. Nhờ sự cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trƣờng vận động theo hƣớng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội – yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đƣờng phát triển. Cạnh tranh là một hiện tƣợng kinh tế – xã hội phức tạp, tuỳ cách tiếp cận khác nhau mà có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Theo C. Mác: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tƣ bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu đƣợc lợi nhuận siêu ngạch”. [12]. 5 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam Theo cuốn Kinh tế học của P. Samuelson thì: “Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị trƣờng”.[39]. Cuốn Từ điển rút gọn về kinh doanh của Adam J.H. đã định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trƣờng nhằm giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.[1]. Theo Từ điển Bách khoa của Việt nam thì: “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động ganh đua giữa những ngƣời sản xuất hàng hoá, giữa các thƣơng nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trƣờng, chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trƣờng có lợi nhất”.[48]. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: “Cạnh tranh là khái niệm của doanh nghiệp, quốc gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.[9]. Theo các tác giả cuốn sách Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: “Cạnh tranh có thể đƣợc hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trƣờng, để đạt đƣợc mục tiêu kinh doanh cụ thể”.[58]. Còn có thể đƣa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm cạnh tranh của các nhà nghiên cứu, song qua các định nghĩa nêu trên có thể tiếp cận về khái niệm cạnh tranh nhƣ sau: Một là, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm giành lấy phần thắng về mình của các chủ thể cùng tham dự. Hai là, mục đích trực tiếp của cạnh tranh là giành giật cho đƣợc một đối tƣợng cụ thể nào đó mà các bên đều muốn giành (một cơ hội, một sản phẩm, một dự án…) hay một điều kiện có lợi (một thị trƣờng, một khách hàng…). Mục đích cuối cùng là kiếm đƣợc lợi nhuận cao nhất. Ba là, cạnh tranh diễn ra trong một môi trƣờng cụ thể, có các ràng buộc chung mà các bên tham gia phải luôn tuân thủ nhƣ: đặc điểm sản phẩm, thị trƣờng, các điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh… 6 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam Bốn là, trong quá trình cạnh tranh, các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lƣợng sản phẩm, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm, cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm, cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt, cạnh tranh thông qua hình thức thanh toán… Với cách tiếp cận nhƣ vậy, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu nhƣ sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp (cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn) để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thƣờng là chiếm lĩnh thị trƣờng, giành lấy khách hàng cũng nhƣ các điều kiện sản xuất, thị trƣờng có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với ngƣời sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với ngƣời tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.[13], [33], [45]. Tuỳ thuộc vào các tiêu thức đánh giá và mức độ xem xét, cạnh tranh đƣợc phân ra nhiều loại khác nhau: - Xét theo quy mô cạnh tranh, ta có: cạnh tranh của quốc gia, cạnh tranh của doanh nghiệp và cạnh tranh của sản phẩm. - Dƣới góc độ các chủ thể kinh tế tham gia thị trƣờng, có: cạnh tranh giữa những ngƣời sản xuất với nhau, giữa những ngƣời mua và ngƣời bán, ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng và giữa những ngƣời mua với nhau. Ở đây cạnh tranh xoay quanh vấn đề: chất lƣợng hàng hoá, giá cả và điều kiện dịch vụ. - Xét theo tính chất của phƣơng thức cạnh tranh có: cạnh tranh hợp pháp (cạnh tranh lành mạnh), cạnh tranh bất hợp pháp (cạnh tranh không lành mạnh). - Xét theo hình thái của cạnh trạnh, có: cạnh tranh hoàn hảo (thuần tuý) và cạnh tranh không hoàn hảo (cạnh tranh chi phối bằng giá cả). - Dƣới góc độ các công đoạn của quá trình sản xuất – kinh doanh, có: cạnh tranh trƣớc khi bán hàng, cạnh tranh trong quá trình bán hàng và cạnh tranh sau khi bán hàng. Cạnh tranh này đƣợc thực hiện bằng phƣơng thức thanh toán và dịch vụ. - Xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể trong cạnh tranh, có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một 7 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến việc hình thành giá cả thị trƣờng đồng nhất đối với hàng hoá, dịch vụ cùng loại trên cơ sở giá trị xã hội của hàng hoá dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau. Doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trƣờng, những doanh nghiệp thua thiệt sẽ thu hẹp kinh doanh, thậm chí phá sản. Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc đấu tranh giữa các nhà doanh nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm thu lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với số vốn bỏ ra và đầu tƣ vốn vào ngành có lợi nhất cho sự phát triển. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn tìm kiếm những ngành đầu tƣ có lợi nhất, nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành có nhiều lợi nhuận hơn. Sau một thời gian nhất định, sự điều chuyển tự nhiên đó sẽ hình thành sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành sản xuất, dẫn đến kết quả cuối cùng là các chủ doanh nghiệp đầu tƣ ở các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau chỉ thu đƣợc lợi nhuận nhƣ nhau. - Xét theo phạm vi lãnh thổ, có cạnh tranh trong nƣớc và cạnh tranh quốc tế. Cần lƣu ý, cạnh tranh quốc tế có thể diễn ra ngay ở thị trƣờng nội địa, đó là cạnh tranh giữa hàng hoá sản xuất trong nƣớc với hàng ngoại nhập. Cạnh tranh kinh tế quốc tế là cạnh tranh đã vƣợt khỏi phạm vi quốc gia-tức là cạnh tranh giữa chủ thể kinh tế trên thị trƣờng thế giới. Chủ thể trực tiếp tham gia vào cạnh tranh kinh tế quốc tế, trƣớc hết là các doanh nghiệp, bởi lẽ doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp thực hiện việc sản xuất hàng hoá và dịch vụ. 1.1.2. Năng lực cạnh tranh. Khi nghiên cứu về cạnh tranh, các nhà nghiên cứu hay sử dụng khái niệm sức cạnh tranh hay năng lực cạnh tranh…Tuy nhiên, các khái niệm này là một khái niệm phức hợp đƣợc xem xét ở các cấp độ khác nhau nhƣ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. (1). Năng lực cạnh tranh của quốc gia. 8 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam Theo định nghĩa của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF-World Economic Forum) thì năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt đƣợc và duy trì mức tăng trưởng nền kinh tế cao trên cơ sở các chính sách, thể chế tƣơng đối bền vững và các đặc trƣng kinh tế khác.[59]. Nó đƣợc xác định bởi các nhóm nhân tố sau: Mức độ mở của nền kinh tế (bao gồm mở cửa thƣơng mại và đầu tƣ); Vai trò và năng lực của Chính phủ; Tài chính tín dụng; Khoa học và công nghệ; Cơ sở hạ tầng; Quản lý kinh doanh; Lao động; Thể chế…[8]. Khái niệm này cho thấy năng lực cạnh tranh của quốc gia đƣợc xác định trƣớc hết bằng mức độ tăng trƣởng của nền kinh tế quốc dân và sự có mặt hay thiếu vắng của các yếu tố quy định khả năng tăng trƣởng kinh tế dài hạn trong các chính sách kinh tế đã thực hiện. Tuy nhiên, khái niệm này không bao hàm đƣợc tất cả các khía cạnh về giá trị gia tăng, không phản ánh đƣợc nguyên nhân tạo ra sức cạnh tranh và kết quả của cạnh tranh. Một số nhà kinh tế khác lại đƣa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của quốc gia dựa trên năng suất lao động (M. Porter), ông cho rằng "Khái niệm có ý nghĩa nhất về năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia là năng suất lao động" [38], hay là dựa trên tỷ lệ tăng trưởng thu nhập thực tế (Uỷ ban về Cạnh tranh công nghiệp Mỹ). Uỷ ban này cho rằng: Một nƣớc đƣợc coi là cạnh tranh nếu nhƣ nƣớc đó duy trì đƣợc một tỷ lệ tăng trƣởng thu nhập thực ngang bằng với tỷ lệ đó của các nƣớc bạn hàng trong một môi trƣờng thƣơng mại tự do"[9]. Đối với Fagerberg vấn đề lại đƣợc xem xét ở một góc độ khác, Fagerberg định nghĩa năng lực cạnh tranh của một quốc gia nhƣ là “khả năng của một đất nƣớc trong việc nhận thức rõ mục đích của chính sách kinh tế tập trung, nhất là đối với tăng trưởng thu nhập và việc làm, mà không gặp phải khó khăn trong cán cân thanh toán”.[19]. Khái niệm này vừa mang tính kinh tế vĩ mô, vừa mang tính nhẫu nhiên, bởi vì khi tính cạnh tranh đƣợc xác định nhƣ là năng lực để duy trì thị phần có khả năng tạo ra lợi nhuận thì năng lực này lại có triển vọng chƣa rõ ràng và mang tính ngẫu nhiên. Nhƣ vậy, đa số các khái niệm đều chấp nhận năng lực cạnh tranh ở tầm quốc gia phụ thuộc vào khả năng khai thác cơ hội trên thị trƣờng. Do đó có thể hiểu, năng lực cạnh tranh của quốc gia là năng lực của một nền kinh tế có thể tạo ra tăng trƣởng bền vững trong môi trƣờng kinh tế đầy biến động của thị trƣờng thế giới. 9 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam (2). Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Về khái niệm này, phần lớn các tác giả đều gắn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với ƣu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đƣa ra thị trƣờng hoặc với thị phần mà hàng hoá của nó chiếm giữ thông qua khả năng tổ chức, quản trị kinh doanh hƣớng vào đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm duy trì hay gia tăng lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển bền vững của doanh nghiệp. Trong lý thuyết tổ chức công nghiệp, khái niệm năng lực cạnh tranh đƣợc áp dụng ở phạm vi xí nghiệp. Một xí nghiệp đƣợc xem là có năng lực cạnh tranh khi xí nghiệp đó duy trì đƣợc vị thế của mình trên thị trƣờng cùng với các nhà sản xuất khác với các sản phẩm thay thế, hoặc đƣa ra thị trƣờng các sản phẩm tƣơng tự với mức giá thấp hơn, hoặc cung cấp các sản phẩm tƣơng tự với các đặc tính về chất lƣợng hay dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn.[9]. Theo Fafchamps, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trƣờng – có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lƣợng tƣơng tự nhƣ sản phẩm của doanh nghiệp khác, nhƣng với chi phí thấp hơn thì đƣợc coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn. [40]. Randall lại cho rằng, sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng giành đƣợc và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định. Còn Dunning lập luận rằng, sức cạnh tranh là khả năng cung ứng sản phẩm của chính doanh nghiệp đó trên các thị trƣờng khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí của doanh nghiệp.[40]. Theo Philip Lasser, sức cạnh tranh của một công ty trong một lĩnh vực nào đó đƣợc xác định bằng những thế mạnh mà công ty có hoặc huy động đƣợc để có thể cạnh tranh thắng lợi.[19]. Markusen đã đƣa ra một khái niệm “một nhà sản xuất đƣợc gọi là cạnh tranh nếu nhƣ nó có một mức chi phí đơn vị trung bình bằng hoặc thấp hơn chi phí đơn vị của các nhà cạnh tranh quốc tế”.[19]. Một quan niệm khác của Nguyễn Bách Khoa cho rằng, “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đƣợc hiểu là tích hợp các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị phần, lợi nhuận và định vị những ƣu thế cạnh tranh của 10 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam doanh nghiệp đó trong mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trƣờng mục tiêu xác định”.[29]. Nhƣ vậy, trên thực tế đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhƣng tựu chung lại, khi tiếp cận năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần chú ý tới 4 vấn đề cơ bản sau: Một là, trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, phải lấy yêu cầu của khách hàng là chuẩn mực đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Hai là, yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh trong việc lôi kéo khách hàng phải là thực lực của doanh nghiệp. Ba là, khi nói tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn hàm ý so sánh với các doanh nghiệp hữu quan (các đối thủ cạnh tranh) cùng hoạt động trên thị trƣờng. Muốn tạo nên sức cạnh tranh thực thụ, chính những thực lực của doanh nghiệp phải tạo nên lợi thế so sánh với các đối thủ cạnh tranh. Bốn là, các biểu hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có mối quan hệ ràng buộc nhau. Do đó có thể hiểu: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ khác trong việc thoả mãn tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp trong môi trƣờng cạnh tranh trong nƣớc và thế giới. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến lƣợc sản xuất kinh doanh, quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào quy mô của doanh nghiệp. Tính kinh tế nhờ quy mô thực chất là giảm chi phí trên 1 đơn vị sản phẩm, do tận dụng lợi thế về quy mô sản xuất lớn. Những doanh nghiệp tham gia vào guồng sản xuất-kinh doanh với quy mô nhỏ thì phải chấp nhận bất lợi về chi phí, do đó rất khó có thể cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn hơn. Mặt khác, tính năng động, nhạy bén trong quản lý doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng, vì trong cùng một môi trƣờng kinh doanh có doanh nghiệp hạot động rất thành công trong khi đó các doanh nghiệp khác lại thất bại. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh mạnh khi nó có khả năng thỏa mãn đầy đủ nhất tất cả những yêu cầu của khách hàng. Song khó có doanh nghiệp 11 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam nào có đƣợc yêu cầu này, thƣờng thì có lợi thế về mặt này, lại có bất lợi về mặt khác. Bởi vậy, việc đánh giá đúng đắn những mặt mạnh và mặt yếu của từng doanh nghiệp có ý nghĩa trọng yếu với việc tìm ra các giải pháp tăng năng lực cạnh tranh. (3). Năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Đối với khái niệm này, cho đến nay các nhà nghiên cứu kinh tế cũng vẫn chƣa đƣa ra đƣợc một định nghĩa thống nhất. Các khái niệm đƣa ra đều dựa trên khái niệm về năng lực cạnh tranh của quốc gia, của doanh nghiệp. Theo một số tác giả, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là sự vƣợt trội của nó về các tiêu chí so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trƣờng [59]. Khái niệm này cho thấy, việc xác định sản phẩm có năng lực cạnh tranh hay không trên thị trƣờng là xác định mức độ tin cậy của ngƣời tiêu dùng đối với sản phẩm về số lƣợng, chất lƣợng, bao bì, mẫu mã, về giá cả, đổi mới công nghệ, dịch vụ sau bán hàng…so với sản phẩm cùng loại mà các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trƣờng.[13], [31]. Một số tác giả khác lại cho rằng: năng lực cạnh tranh của sản phẩm chính là năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại của các chủ thể sản xuất, cung ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trƣờng và thời gian nhất định.[10], [26]. Nhƣ vậy, mặc dù chƣa thống nhất về khái niệm, nhƣng có thể hiểu rằng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm đƣợc cấu thành bởi nhiều yếu tố, trong đó có những yếu tố chính nhƣ: khả năng sử dụng thay thế; yếu tố về chất lƣợng sản phẩm; yếu tố về giá cả sản phẩm đƣợc ngƣời tiêu dùng lựa chọn và đem lại lợi nhuận cho nhà sản xuất - cung ứng; các yếu tố khác về kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm, phƣơng thức tiêu thụ, thanh toán, quảng cáo, bán hàng.v.v. Trình độ khoa học và công nghệ là nhóm nhân tố quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trƣờng cạnh tranh và sức cạnh tranh của sản phẩm. Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định đến 2 yếu tố cơ bản nhất tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trƣờng, đó là chất lƣợng và giá cả. Đối với những nƣớc chậm phát triển và đang phát triển, giá cả và chất lƣợng sản phẩm hàng hoá dịch vụ có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về 12 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam chất lƣợng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có chứa hàm lƣợng khoa học công nghệ cao. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp, các sản phẩm phát triển ổn định và nâng cao sức cạnh tranh của mình. Tóm lại, ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao, ngƣợc lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao, môi trƣờng kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, nền kinh tế phải ổn định, bộ máy Nhà nƣớc phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả… Là tế bào của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia, đồng thời năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay một số sản phẩm và dịch vụ có năng lức cạnh tranh. Nhƣ vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm vừa là bộ phận cấu thành, vừa là một trong những mục tiêu chiến lƣợc của nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Chiến lƣợc cạnh tranh suy cho cùng là nhằm chinh phục cả thế giới khách hàng bằng uy tín, giá cả và chất lƣợng hàng hoá - dịch vụ. 1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm (sản phẩm điều). 1.1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm. * Các chỉ tiêu định tính: 1. Quy mô, khối lƣợng và khả năng cung ứng sản phẩm ổn định; 2. Chất lƣợng sản phẩm, vệ sinh công nghiệp và độ an toàn trong sử dụng; 3. Kiểu dáng và mẫu mã sản phẩm; 4. Thƣơng hiệu sản phẩm và xúc tiến thƣơng mại 5. Môi trƣờng kinh doanh (chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô, cơ chế chính sách thƣơng mại, chính sách xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái…) * Các chỉ tiêu định lƣợng: 13 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam 1. Giá thành và giá cả sản phẩm. - Giá thành của sản phẩm biểu hiện những chi phí của các yếu tố đầu vào trong điều kiện cụ thể của đất nƣớc so với thế giới để xác định lợi thế so sánh có sức cạnh tranh trong sản xuất. - Giá cả- thƣờng đƣợc thể hiện trong hoạt động lƣu thông và trao đổi nhằm so sánh giá trị quốc tế về hàng hoá của quốc gia với thế giới. Nó phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái, hệ thống chính sách thuế, chính sách đầu tƣ, mối quan hệ giữa hàng hoá ngoại thƣơng và phi ngoại thƣơng… Một mặt hàng nào đó có lợi thế cạnh tranh trƣớc hết phải có tính cạnh tranh về giá. Khi giá của sản phẩm đó thấp hơn giá của sản phẩm cùng loại của các đối tác khác sản xuất và cung cấp ra trên thị trƣờng thế giới – ta nói sản phẩm đó có lợi thế cạnh tranh. Thể hiện bằng bất đẳng thức sau: Pj E < P*j Trong đó: Pj – Giá của sản phẩm j tính theo nội tệ E – Tỷ giá hối đoái P*j – Giá quốc tế của sản phẩm cạnh tranh j 2. Hệ số cạnh tranh RCA ( hay còn gọi là mức lợi thế so sánh) Chỉ tiêu này biểu hiện khả năng cạnh tranh của quốc gia về một loại sản phẩm nào đó trên thị trƣờng thế giới. RCA = (E1 : E c) / (E2 : Ew) Trong đó: E1 – Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X (nhân điều chẳng hạn) trong 1 năm của quốc gia; Ec – Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 1 năm của quốc gia đó; E2 - Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X (nhân điều) trong 1 năm của thế giới; Ew – Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 1 năm của toàn thế giới; Nếu nhƣ: RCA < 1 tức là sản phẩm đó không có lợi thế cạnh tranh; 14 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam 1 < RCA < 2,5 tức là sản phẩm đó có lợi thế cạnh tranh (mức cao dần khi RCA tiến tới 2,5); RCA > 2,5 tức là sản phẩm đó có lợi thế cạnh tranh rất cao. 3. Hệ số chi phí nguồn lực/tài nguyên nội địa DRC (Dommestic Resource Cost Coeffcient) Hệ số chi phí nguồn lực/tài nguyên nội địa là tỷ số giữa chi phí nguồn lực trong nƣớc và các yếu tố đầu vào trung gian bất khả thƣơng (tính bằng giá mờ) cho việc sản xuất trong nƣớc một sản phẩm nhất định so với số ngoại tệ ròng thu đƣợc hay tiết kiệm đƣợc do sản xuất trong nƣớc. Có nghĩa là hệ số này cho ta biết: để tạo ra 1 USD từ xuất khẩu sản phẩm A nào đó (nhân điều) phải huy động nguồn lực nội địa tƣơng ứng là bao nhiêu USD. Công thức tính DRC nhƣ sau: n  a p ij * j j = k+1 DRCi = k p b i -  a p ij b j j=1 Trong đó: J = 1,2,…k, các yếu tố sản xuất đầu vào khả thƣơng J = k+1, k+2,… n, các yếu tố nguồn lực/tài nguyên trong nƣớc và các yếu tố đầu vào trung gian bất khả thƣơng. P*j là giá kinh tế (giá mờ) của các nguồn lực nội địa và các đầu vào trung gian bất khả thƣơng. Pbi là giá biên giới của sản phẩm khả thƣơng i tính theo tỷ giá hối đoái kinh tế. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất