Luận văn tốt nghiệp
Hương
1
GVHD: ThS. Đỗ Thị
LỜI MỞ ĐẦU
Ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam sớm trở thành ngành
công nghiệp xuất khẩu chủ lực trong quá trình công nghiệp hóa –
Hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Mấy năm
gần đây, ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam liên tục giành được
những thành tựu lớn, biểu hiện qua những con số ấn tượng về tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu
của cả nước và tổng thu nhập quốc dân.
Tuy nhiên, gần đây có nhiều cảnh báo về tình trạng bất ổn
trong thị trường lao động, tình trạng yếu kém của công nghiệp phụ
trợ cho ngành Dệt may , tình trạng gia công chiếm đa số…Bên cạnh
đó là áp lực cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình hội nhập
của Việt Nam. Do vậy, đã đến lúc năng lực cạnh tranh của ngành
Dệt may xuất khẩu Việt Nam cần được đánh giá một cách khách
quan, qua đó tìm ra những giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh, xây dựng một ngành Dệt may xuất khẩu một cách bền vững,
có khả năng thích nghi với môi trường cạnh tranh toàn cầu. Đó là
lý do tác giả chọn đề tài: Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành
Dệt may xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế”
cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn tốt nghiệp
Hương
2
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là năng lực cạnh tranh
của ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam
Số liệu nghiên cứu chủ yếu được thu thập từ khoảng năm 2000
trở lại đây.
Luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu năng lực cạnh tranh của
ngành Dệt may xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế,
nghĩa là phân tích năng lực cạnh tranh ngành Dệt may Việt Nam so
với ngành Dệt may của quốc gia khác mà không xem xét sự cạnh
tranh trên thị trường nội địa. Mặt khác, luận văn cũng không xem
xét sự cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, so sánh,
tổng hợp phân tích, kết hợp những kết quả thống kê với sự vận
dụng lý luận làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
Ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận, và phụ lục, kết cấu của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: “Lý luận chung về năng lực cạnh tranh và sự
cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất
khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
Chương 2: “Thực trạng năng lực cạnh tranh ngành Dệt
may xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế”
Chương 3:“Định hướng giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế”
Luận văn tốt nghiệp
Hương
3
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ SỰ
CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH
1.1.1. Khái niệm vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh là một thuật ngữ rất phổ biến trong kinh tế, là một
đặc trưng của nền sản xuất hàng hóa. Theo ý nghĩa kinh tế, cạnh
tranh là quá trình kinh tế trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua
nhau, tìm mọi biện pháp (cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để
Luận văn tốt nghiệp
Hương
4
GVHD: ThS. Đỗ Thị
đạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình như chiếm lĩnh thị
trường, tối đa hóa lợi ích, nâng cao vị thế trên thị trường. Tuy nhiên,
những mục tiêu này mới chỉ đúng trong phạm vi cấp doanh nghiệp.
Mục tiêu cạnh tranh xét trên tầm vĩ mô còn phải kể đến khả năng
tạo thêm thu nhập, việc làm và nâng cao phúc lợi cho người dân.
Trên mọi phương diện, cạnh tranh đều có vai trò rất lớn để
mọi hoạt động kinh tế diễn ra một cách hiệu quả, qua đó thúc đẩy
tiến bộ xã hội.
Trên bình diện quốc tế: Cạnh tranh kích thích các doanh
nghiệp mở rộng quy mô hoạt động và thị trường. Thông qua cạnh
tranh, giao thương quốc tế ngày càng được mở rộng, thúc đầy quá
trình chuyên môn hóa sản xuất.
Trên bình diện quốc gia: Cạnh tranh khiến các nguồn lực
được phân bổ một cách hiệu quả nhất, cạnh tranh giúp các nhà sản
xuất luôn sử dụng các nguồn lực một cách tiết kiệm nhất. Cạnh
tranh còn góp phần phân phối lại thu nhập và nâng cao phúc lợi xã
hội
Trên bình diện doanh nghiệp: Nâng cao năng lực cạnh tranh
luôn là mục tiêu phát triển thường trực và lâu dài của mỗi doanh
nghiệp. Bằng sự thúc đẩy của lợi nhuận, doanh nghiệp luôn muốn đi
đầu về chất lượng, giá cả, mẫu mã, dưới áp lực phá sản, cạnh tranh
buộc các doanh nghiệp không ngừng cải tiến phương thức sản xuất,
nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới cách quản lý doanh nghiệp
một cách hiệu quả.
Luận văn tốt nghiệp
Hương
5
GVHD: ThS. Đỗ Thị
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Trong thực tế, tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về sức cạnh
tranh hay năng lực cạnh tranh. Đó là bởi cụm từ này là một phạm trù
quá lớn để có thể tiếp cận từ mọi khía cạnh. Chủ thể cạnh tranh có thể
là của các tổ chức, ngành, lĩnh vực, sản phẩm hoặc quốc gia và bao
gồm tất cả các nhân tố ảnh hưởng tới nó như hiệu quả thị trường, như
các chính sách, cơ cấu thị trường và nghiệp vụ kinh doanh về thương
mại, đầu tư và các quy định…
M. Porter, người trong Hội đồng về năng lực cạnh tranh các
ngành ở Hoa Kỳ cho rằng chưa có định nghĩa thống nhất nào về
năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, Hội đồng về năng lực cạnh tranh
của Hoa Kỳ cũng đề nghị một định nghĩa năng lực cạnh tranh như
sau: “Năng lực cạnh tranh là năng lực kinh tế về hàng hoá và dịch
vụ của nền sản xuất của một nước có thể vượt qua thử thách trên thị
trường thế giới trong khi sức sống của dân chúng nước ấy có thể
được nâng cao một cách vững chắc, lâu dài”1. Định nghĩa này tuy
lột tả được được tính cạnh tranh nhưng lại bị bó hẹp về năng lực
cạnh tranh cấp quốc gia, chưa nhấn mạnh đến năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp và của ngành.
Theo Từ điển thuật ngữ chính sách thương mại, năng lực cạnh
tranh là “Năng lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, thậm chí
một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác hoặc nước
1
The First Report to the President and Congress, 1992, Requested by Mr. Fred Bergsten, Chairman of
the Competitiveness Policy Council in the US House of Representatives, 15 March 1995.
Luận văn tốt nghiệp
Hương
6
GVHD: ThS. Đỗ Thị
khác đánh bại về năng lực kinh tế”2. Định nghĩa này đã bao quát
được năng lực cạnh tranh của các cấp độ nhưng diễn tả đầy đủ cụm
từ “cạnh tranh” chưa rõ ràng.
Một định nghĩa tương tự trong Từ điển thuật ngữ kinh tế học
thì năng lực cạnh tranh là: “Khả năng giành được thị phần lớn
trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành
lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp”3.
Giống như định nghĩa của Hội đồng về năng lực cạnh tranh
Hoa Kỳ định nghĩa này không nêu rõ được chủ thể cạnh tranh.
Nhưng định nghĩa này diễn tả rất tốt về cạnh tranh.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp
tác và Phát triển kinh tế (OECD) (The OECD High Level Forum on
Industrial Competitiveness) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết
hợp cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia như sau: “Năng lực
cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu
vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện
cạnh tranh quốc tế”.
Như vậy, mỗi một định nghĩa đều có mặt ưu điểm và nhược
điểm riêng, nhưng định nghĩa của OECD là hoàn thiện nhất khi nêu
được chủ thể cạnh tranh và cụm từ cạnh tranh. Trong luận văn này,
tác giả sử dụng khái niệm của OECD trong phân tích. Tuy nhiên, tác
2
Goode, W., Dictionary of Trade Policy, Center for International Economics Studies, University of
Adelaide, 1997.
3
Từ điển thuật ngữ kinh tế học, NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội, 2001, tr. 349.
Luận văn tốt nghiệp
Hương
7
GVHD: ThS. Đỗ Thị
giả muốn bổ xung khái niệm này dựa vào các định nghĩa trên như
sau:
“Năng lực cạnh tranh là khả năng một doanh nghiệp, một
ngành hay một quốc gia có khả năng giành được thị phần trước các
đối thủ cạnh tranh để tạo ra thu nhập và việc làm cao hơn trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế”
1.1.3. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh có thể được chia ra thành ba cấp độ:
Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành/ doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Việc phân chia cấp độ năng lực cạnh tranh như trên chỉ có tính
tương đối. Mỗi một cấp độ đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Ví dụ, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng đều sản xuất hoặc kinh
doanh một loại hàng hóa dịch vụ nhất định. Chỉ khi hàng hóa dịch
vụ của doanh nghiệp có sức cạnh tranh thì doanh nghiệp mới có sức
cạnh tranh trên thị trường. Một ví dụ khác, ngành Dệt may Việt
Nam có sức cạnh tranh, có thị phần lớn trên thị trường thế giới cũng
có thể nói Việt Nam có năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới,
… Do vậy, cần phải nghiên cứu năng lực cạnh tranh trên mối quan
hệ giữa các cấp độ.
8
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
1.1.3.1. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Uỷ ban phụ trách về năng lực cạnh tranh của các ngành ở Hoa
Kỳ
(The
U.S.
President's
Commission
on
Industrial
Competitiveness) đưa ra định nghĩa về năng lực cạnh tranh của một
quốc gia như sau: “Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả
năng mà quốc gia đó – trong điều kiện thị trường tự do và công
bằng – có thể sản xuất hàng hoá dịch vụ đạt tiêu chuẩn của thị
trường quốc tế, đồng thời vẫn duy trì và mở rộng được thu nhập
thực tế của công dân nước mình” 4.
Theo báo cáo về năng lực cạnh tranh toàn cầu (The Global
Competitiveness Report) của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm
1997 thì
“Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng mà quốc
gia đó duy trì và đạt được những tiến bộ trong việc cải thiện mức
sống, được phản ánh bằng mức tăng GDP trên đầu người”5.
Tóm lại, năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng xâm nhập
hàng hóa của một quốc gia trên thị trường quốc tế và đạt được
những mục tiêu vĩ mô của quốc gia đó như tăng trưởng GDP, thu
nhập và mức sống của người dân.
1.1.3.2. Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành/ doanh nghiệp
4
Prepared jointly by UNIDO and DSI - Development Strategy Institute - Ministry of Planning and
Investment, Vietnam industrial competitiveness review , 1999, p. 6.
5
Global Competitiveness report, 1997.
Luận văn tốt nghiệp
Hương
9
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp
tác và Phát triển kinh tế (OECD) (The OECD High Level Forum on
Industrial Competitiveness) đã định nghĩa về khái niệm năng lực
cạnh tranh của ngành như sau: “Năng lực cạnh tranh của ngành là
khả năng của ngành trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”6. Tuy là định nghĩa của cấp
ngành nhưng OECD đã gắn với điều kiện cạnh tranh quốc tế. Định
nghĩa này rất hợp lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay. Năng lực cạnh tranh cấp ngành là tổng hợp năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong một ngành và mối quan hệ giữa chúng.
Nói chung, năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc của một
ngành tuỳ thuộc vào khả năng sản xuất hàng hoá, dịch vụ, chất
lượng, mức giá bằng hoặc thấp hơn mức giá phổ biến trên thị trường
mà không cần đến trợ giá.
1.1.3.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Năng lực cạnh tranh sản phẩm là khả năng đáp ứng được nhu
cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính
độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì... hơn hẳn so với
những sản phẩm hàng hoá cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh
của sản phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá yếu
khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản
phẩm đó thấp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm,
6
OECD, Competitive Policy: A New Agenda
Luận văn tốt nghiệp
Hương
10
GVHD: ThS. Đỗ Thị
không những doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng, hạ giá thành
sản phẩm, doanh nghiệp còn phải có chiến lược quảng bá, phát triển
thị trường sản phẩm, tổ chức tiêu thụ sản phẩm…
1.1.4.Các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh
1.1.4.1.
Yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia
Theo các tiêu chí của Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF) có 8
nhóm tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia bao gồm:
Độ mở của nền kinh tế: Bao gồm các chỉ tiêu như: Hệ thống
thuế quan và phi thuế quan, chính sách tỷ giá hối đoái, thị
trường tài chính và tín dụng…
Vai trò và hiệu lực của chính phủ: bao gồm mức độ can thiệp
của Nhà nước và Chính phủ trong, khả năng điều hành vĩ mô
của chính phủ, khả năng kiểm soát thuế của Chính phủ.
Sự phát triển của hệ thống tài chính, tiền tệ: Khả năng thực
hiện các hoạt động trung gian tài chính một cách hiệu quả, rủi
ro tài chính và khả năng tiết kiệm
Trình độ phát triển công nghệ: Chỉ số về năng lực phát triển
công nghệ trong nước, khai thác công nghệ thông qua thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc qua các kênh chuyển giao
khác.
Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng: Bao gồm trình độ phát triển
trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, hệ thống giao thông…
Luận văn tốt nghiệp
Hương
11
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Trình độ quản lý doanh nghiệp: Trình độ quản lý nguồn nhân
lực, tài chính, sản xuất, marketing…
Số lượng và chất lượng lao động: Bao gồm các yếu tố về trình
độ tay nghề và năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường
lao động, hiệu quả của các chương trình xã hội.
Trình độ phát triển thể chế: Bao gồm các chỉ số về chất lượng
hay hiệu quả các thể chế pháp lý, luật và các văn bản pháp quy
khác.
1.1.4.2. Yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành/
doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp được xác định
trên cơ sở bốn nhóm yếu tố cơ bản bao gồm:
- Chất lượng và khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hóa
đầu vào: bao gồm khả năng chủ động được nguồn nguyên liệu sản
xuất, nguồn công nghệ và nguồn vốn. Việc sản xuất của ngành hay
doanh nghiệp có được chuyên môn hóa qua từng khâu hay không,
khả năng cung ứng sản phẩm triên thị trường thế nào?
- Công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ: bao gồm hệ thống giao
thông, thông tin liên lạc hay hệ thống tài chính, tư vấn…
- Nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ và yêu cầu của khách
hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ: Điều này là đánh giá năng
lực cạnh tranh trên phương diện nhu cầu sản phẩm, dịch vụ ngành/
12
Luận văn tốt nghiệp
Hương
GVHD: ThS. Đỗ Thị
doanh nghiệp cung ứng. Thông qua nghiên cứu nhu cầu, ta có thể
xác định được khả năng cung ứng của ngành/ doanh nghiệp.
- Mức độ cạnh tranh trên lĩnh vực mà ngành/doanh nghiệp
kinh doanh và vị thế của ngành/doanh nghiệp so với các
ngành/doanh nghiệp khác: Đây là yếu tố quan trọng để đánh giá
năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp trên thị trường. Các
thông số có thể đánh giá là so sánh thị phần của ngành hay doanh
nghiệp trên thị trường, quy mô của ngành…
1.1.4.3.
Yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ thể hiện tập trung
ở 4 yếu tố:
Giá cả:
Giá cả sản phẩm là biểu hiện về khả năng sản xuất hiệu quả
hay không, năng suất lao động cao hay thấp hay mức độ trang bị
công nghệ của doanh nghiệp. Cuộc chiến giá cả giữa các đối thủ
cạnh tranh không bao giờ kết thúc. Thông qua cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất không ngừng được nâng cao, đồng
thời giá cả sản phẩm được hạ đến mức thấp nhất. Người tiêu dùng
luôn chọn giá cả làm tiêu chí để lựa chọn sản phẩm. Do vậy, yêu
cầu đối với các doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh quốc tế
phải không ngừng giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng lao
động, cải tiến công nghệ…
Chất lượng sản phẩm:
Luận văn tốt nghiệp
Hương
13
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Chất lượng là thuộc tính không thể thiếu trong bất cứ hàng hoá
và dịch vụ nào. Khi mức sống của con người ngày càng tăng, thì
nhu cầu được hưởng thụ sản phẩm hay dịch vụ cũng ngày càng cao.
Đầu tư phát triển chất lượng sản phẩm là con đường phát triển một
cách bền vững và là bài toán khó của doanh nghiệp. Khi chất lượng
sản phẩm được nâng cao thì nhãn hiệu sản phẩm mới được nhiều
người tiêu dùng biết đến. Qua đó, thị phần của doanh nghiệp được
mở rộng, uy tín của doanh nghiệp ngày một gia tăng và tất yếu nâng
cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Mẫu mã sản phẩm:
Mẫu mã sản phẩm đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu đa
dạng của người tiêu dùng, chiếm lĩnh các phân đoạn thị trường. Qua
đó, sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao.
Khả năng tổ chức tiêu thụ sản phẩm:
Nếu khâu tiêu thụ sản phẩm được tổ chức tốt thì doanh nghiệp
có thể làm giảm chi phí trung gian, qua đó làm giảm giá thành sản
phẩm. Hơn nữa, sản phẩm dù có chất lượng tốt, giá cả hấp dẫn
nhưng không có chiến lược marketing tốt thì không được nhiều
người tiêu dùng biết đến. Xu hướng hiện nay, các doanh nghiệp
ngày càng đầu tư nhiều cho thương hiệu sản phẩm và marketing sản
phẩm
1.2. XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÀNH/DOANH NGHIỆP
Luận văn tốt nghiệp
Hương
14
GVHD: ThS. Đỗ Thị
1.2.1. Các phương pháp phân tích năng lực cạnh tranh của
ngành
1.2.1.1. Phương pháp 1: Phân tích lợi thế cạnh tranh trên cơ
sở đánh giá lợi thế so sánh hay khả năng sinh lời trên một đơn vị
sản phẩm
Phương pháp này đánh giá năng lực cạnh tranh trong trạng
thái động dựa trên hệ thống các chỉ số. Các chỉ số này cho phép xác
định được mức độ đóng góp của ngành/doanh nghiệp vào nền kinh
tế. Khi phân tích năng lực cạnh tranh theo phương pháp này cần tính
đến một số dự báo như: Biến động chu kỳ sản phẩm, mức độ phổ
biến công nghệ và tích lũy kinh nghiệm, chi phí đầu vào, những
thay đổi trong chính sách của Chính phủ và khuynh hướng phát
triển…
Ưu điểm của phương pháp này là đưa ra được những phân tích
định lượng để đánh giá năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, phương
pháp này khá phức tạp và khó thực hiện, ít được áp dụng trong thực
tế, đặc biệt rất khó ứng dụng vào việc phân tích năng lực cạnh tranh
của một ngành ở nước ta.
1.2.1.2. Phương pháp 2: Phân tích theo quan điểm tổng hợp
Hầu hết các khái niệm cạnh tranh xét từ phạm vi của
ngành/doanh nghiệp đều đánh giá năng lực cạnh tranh dựa trên cơ
sở chi phí thấp, sản phẩm tốt, công nghệ cao hoặc là tổ hợp của các
yếu tố này. Một nhà sản xuất thường được gọi là nhà sản xuất cạnh
Luận văn tốt nghiệp
Hương
15
GVHD: ThS. Đỗ Thị
tranh nếu có khả năng cung ứng một sản phẩm có chất lượng tốt với
mức giá thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Một doanh nghiệp được
xem là có năng lực cạnh tranh khi doanh nghiệp đó duy trì được vị
thế của mình trên thị trường cùng các nhà sản xuất khác với các sản
phẩm thay thế, hoặc đưa ra thị trường các sản phẩm tương tự với mức
giá thấp hơn, hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về
chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn.
Ưu thế cạnh tranh của một nhà sản xuất hay một doanh nghiệp
so với các đối thủ cạnh tranh trong một ngành công nghiệp được thể
hiện trên hai mặt: ưu thế cạnh tranh bên trong (ưu thế về chi phí) và
ưu thế cạnh tranh bên ngoài (ưu thế về mức độ khác biệt hoá).
Ưu thế cạnh tranh bên trong (ưu thế về chi phí) là ưu thế
được thể hiện trong việc làm giảm các chi phí sản xuất, chi phí
quản lý của nhà sản xuất hay các giải pháp nâng cao năng suất lao
động nhờ áp dụng những công nghệ hiện đại… Ưu thế này nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ giá cả và chất lượng sản phẩm.
Ưu thế cạnh tranh bên ngoài (ưu thế về mức độ khác biệt
hoá) là ưu thế dựa vào khác biệt của các sản phẩm mà nhà sản
xuất tạo ra so với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Chất
lượng khác biệt của sản phẩm phụ thuộc vào năng lực maketing
của nhà sản xuất. Chất lượng khác biệt của sản phẩm tạo nên “giá
trị cho người mua” thể hiện qua việc giảm chi phí sử dụng sản
phẩm hay tính tuyệt hảo khi sử dụng sản phẩm. Ưu thế cạnh tranh
Luận văn tốt nghiệp
Hương
16
GVHD: ThS. Đỗ Thị
bên ngoài tạo cho nhà sản xuất “quyền lực thị trường” ngày càng
tăng.
Phương pháp này là một công cụ mạnh, ưu điểm là phân tích
bằng định lượng, vừa chỉ ra được những nhân tố thúc đẩy hay kìm
kãm tính cạnh tranh bằng phân tích định tính. Phương pháp này cho
phép đánh giá năng lực cạnh tranh từ bên trong và bên ngoài của
doanh nghiệp hay của ngành. Song có một hạn chế là phương pháp
này thường được sử dụng nhiều để đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp hơn là năng lực cạnh tranh của một ngành.
1.2.1.3. Phương pháp 3: Phân tích năng lực cạnh tranh theo
cấu trúc ngành của Michael Porter
Đây chính là phương pháp phân tích theo “Quan điểm quản
trị chiến lược” của Michael Porter. Theo phương pháp này, đối với
mỗi ngành, năng lực cạnh tranh được xem xét theo 5 yếu tố:
Sự thâm nhập của các tổ chức mới vào lĩnh vực kinh doanh;
Các sản phẩm hay dịch vụ thay thế;
Sức mạnh của nhà cung ứng;
Sức mạnh của người mua;
Mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành .
(Tham khảo phụ lục 2: Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh
của ngành theo mô hình kim cương của Michael Porter)
Đây là một phương pháp phân tích sâu những nhân tố chính
tác động đến lợi thế cạnh tranh của ngành. Tuy nhiên, cả năm nhân
Luận văn tốt nghiệp
Hương
17
GVHD: ThS. Đỗ Thị
tố trên đây là những nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh
tranh của ngành. Sẽ rất thiếu xót nếu đánh giá năng lực cạnh tranh
của một ngành nếu không xét đến yếu tố bên trong của ngành (năng
lực sản xuất của ngành). Hơn nữa, trong mô hình có xét đến sự cạnh
tranh trong nội bộ ngành, nhưng trong phạm vi luận văn tác giả
không nghiên cứu sự cạnh tranh trong ngành.
1.2.2. Xây dựng mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh của
ngành
Tác giả xin được đề xuất mô hình riêng trong nghiên cứu đề
tài này. Về cơ bản mô hình này phỏng theo mô hình của Michael
Porter, tác giả có lược đi một vài yếu tố “ngoại vi” và thêm vào yếu
tố “nội vi” cho phù hợp với mục đích nghiên cứu của đề tài.
Mô hình này xem xét năng lực cạnh tranh của ngành dưới 4
tác động:
Năng lực sản xuất;
Thị trường tiêu thụ và các đối thủ cạnh tranh;
Các ngành hỗ trợ liên quan (Công nghiệp phụ trợ)
Môi trường cơ chế, chính sách .
(Nhân tố năng lực sản xuất được xem như là yếu tố bên trong
đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành, bốn nhân tố còn lại là
những yếu tố bên ngoài)
Luận văn tốt nghiệp
Hương
18
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Tiếp theo tác giả sẽ giải thích rõ hơn về các nhân tố:
Năng lực sản xuất: Năng lực sản xuất là nhân tố bên trong
quan trọng nhất để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành. Năng
lực sản xuất được cấu thành từ các yếu tố: Nguồn nguyên liệu,
nguồn nhân lực, công nghệ sản xuất, và quy mô sản xuất. Còn yếu
tố giá cả, chất lượng, sản lượng sản phẩm là những nhân tố biểu
hiện hay đo lường năng lực sản xuất.
Thị trường tiêu thụ và đối thủ cạnh tranh: Thị trường tiêu
thụ quyết định mức cầu của ngành. Thị trường tiêu thụ ở đây xét
trên quy mô quốc tế nghĩa là cả thị trường tiêu thụ trong nước và
nước ngoài. Tuy nhiên, luận văn chỉ nghiên cứu năng lực cạnh tranh
ngành Dệt may xuất khẩu của Việt Nam nên sẽ tập trung đi sâu vào
thị trường tiêu thụ quốc tế mà ngành Dệt may Việt Nam đã cung
cấp. Còn đối thủ cạnh tranh là những đối tượng hiện tại và tiềm ẩn
sản xuất kinh doanh những mặt hàng tương tự của ngành. Đó là
những doanh nghiệp/ ngành của nước khác đang dành giật thị phần
trên thị thị trường thế giới, từ đó mà ảnh hưởng đến lợi nhuận,
doanh thu hay nói chung là năng lực cạnh tranh của ngành.
Đối thủ cạnh tranh vừa là nhân tố ảnh hưởng vừa là nhân tố
đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành. Trong luận văn này tác giả
chỉ đi sâu phân tích đối thủ cạnh tranh của nước khác trong ngành
Dệt may trên thị trường quốc tế
Ngành hỗ trợ liên quan: Trong một nền kinh tế có thể nói
không có một ngành nào lại độc lập hoàn toàn với ngành khác. Các
Luận văn tốt nghiệp
Hương
19
GVHD: ThS. Đỗ Thị
ngành luôn có sự tác động qua lại với nhau. Một ngành chỉ có thể
phát triển được nếu có các ngành hỗ trợ liên quan mà bản thân
ngành đó không tự đáp ứng được. Trong luận văn này, tác giả chỉ
phân tích công nghiệp phụ trợ cho ngành Dệt may xuất khẩu của
Việt Nam.
Môi trường cơ chế chính sách: Có thể nói đây là yếu tố bên
ngoài quan trọng nhất đối với khả năng phát triển của ngành. Mỗi
một quốc gia đều lựa chọn cho mình một số ngành mũi nhọn và đưa
ra những chính sách thích hợp để tạo môi trường thuận lợi nhằm mở
rộng quy mô của ngành, tăng lợi thế cạnh tranh của ngành như: Xây
dựng một chiến lược dài hạn cho phát triển ngành, xây dựng hệ
thống hạ tầng cơ sở, quy hoạch vùng nguyên liệu nhằm tạo điều
kiện phát triển cho ngành, hay tạo ra các rào cảng thuế và phi thuế
làm giảm áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, và không thể không nhắc
tới các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh trên thị trường thế giới… Trong luận văn này, tác giả chỉ phân
tích môi trường cơ chế chính sách của Việt Nam đã áp dụng tác
động đến năng lực cạnh tranh của ngành Dệt may xuất khẩu của
Việt Nam.
1.2.3. Lý thuyết về mô hình SWOT
Luận văn tốt nghiệp
Hương
20
GVHD: ThS. Đỗ Thị
Phân tích SWOT là việc đánh giá một cách chủ quan các dữ
liệu được sắp xếp theo định dạng SWOT dưới một trật tự lô gíc dễ
hiểu, dễ trình bày, dễ thảo luận và đưa ra quyết định, có thể được sử
dụng trong mọi quá trình ra quyết định. Mẫu phân tích SWOT được
trình bày dưới dạng một ma trận 2 hàng 2 cột, chia làm 4 phần:
Strengths (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu), Opportunities (cơ
hội), and Threats (thách thức).
Mô hình SWOT thường đưa ra 4 chiến lược cơ bản: (1) SO
(Strengths - Opportunities): Các chiến lược dựa trên ưu thế của tổ
chức để tận dụng các cơ hội thị trường. (2) WO (Weaks Opportunities): Các chiến lược dựa trên khả năng vượt qua các yếu
điểm của tổ chức để tận dụng cơ hội thị trường. (3) ST (Strengths Threats): Các chiến lược dựa trên ưu thế của của tổ chức để tránh
các nguy cơ của thị trường. (4) WT (Weaks - Threats): Các chiến
lược dựa trên khả năng vượt qua hoặc hạn chế tối đa các yếu điểm
của tổ chức để tránh các nguy cơ của thị trường.
Để thực hiện phân tích SWOT cho vị thế cạnh tranh của một
tổ chức, người ta thường tự đặt các câu hỏi sau:
- Strengths: Lợi thế của tổ chức là gì? Công việc nào mình
làm tốt nhất? Nguồn lực nào mình cần, có thể sử dụng? Ưu thế mà
người khác thấy được ở mình là gì? Phải xem xét vấn đề từ trên
phương diện bản thân và của người khác. Các ưu thế thường được
hình thành khi so sánh với đối thủ cạnh tranh. Chẳng hạn, nếu tất cả
các đối thủ cạnh tranh đều cung cấp các sản phẩm chất lượng cao thì
- Xem thêm -