PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính tất yếu của đề tài
Hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa đang diễn ra
một cách mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, các lĩnh vực và
các ngành. Theo xu thế đó, các quốc gia đã và đang tiến hành các
hoạt động mở cửa, hội nhập vào xu hướng này. Việt Nam thực sự
đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật đặc biệt là thành tựu về xuất
khẩu. Việt Nam đã xác định cho mình những mặt hàng chủ lực
như gạo, cà phê, may mặc, đồ gỗ...Trong đó hàng đồ gỗ ngày
càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó không
chỉ góp phần tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao
động mà giá trị xuất khẩu của ngành còn chiếm tỉ lệ lớn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đặc biệt tại một số thị
trường lớn như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU...hàng đồ gỗ Việt Nam đã
có được một chỗ đứng, vị thế quan trọng trên thị trường, chiếm
một tỷ lệ thị phần đáng kể đặc biệt là thị trường Nhật Bản với tốc
độ tăng thị phần khá nhanh, với kim ngạch xuất khẩu ngày càng
tăng qua các năm, sản phẩm chủng loại khá đa dạng.
Tuy đã đạt được những thành tựu nổi bật về xuất khẩu nhưng
nếu so sánh với các đối thủ trên thị trường có cùng mặt hàng xuất
khẩu thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn khá khiêm
tốn. Thị phần chiếm lĩnh so với các đối thủ còn quá nhỏ. Nguyên
nhân chính là do năng lực cạnh tranh hàng Việt Nam trên thị
trường thế giới còn chưa cao, còn nhiều bất cập, chưa tạo được
niềm tin với khách hàng, thị trường không ổn định....mặt hàng đồ
1
gỗ cũng không phải là một ngoại lệ, chúng ta gặp rất nhiều khó
khăn về năng lực cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường
mà điển hình ở đây là thị trường Nhật Bản - một thị trường lớn,
tiềm năng. Vì vậy em đã chọn đề tài "Nâng cao năng lực cạnh
tranh hàng đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Nhật
Bản" để nghiên cứu.
2.
Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh
của sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng đồ gỗViệt Nam
trên thị trường xuất khẩu ( Nhật Bản ) để từ đó đề xuất các giải
pháp đối với các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng
Nghiên cứu năng lực cạnh tranh hàng đồ gỗ Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị
trường Nhật Bản trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay.
4.
Chuyên đề sử dụng các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
- Phương pháp toán thống kê
2
5.
Kết cấu đề tài
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phục lục, mục lục thì nội dung của đề tài được trình bày
trong 3 chương:
Chương 1: Lý luận về cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng
cao năng lực cạnh tranh hàng đồ gỗ của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm
đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản
Chương 3: Dự báo, phương hướng và giải pháp nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam
trên thị trường Nhật Bản trong thời gian tới
Trong quá trình nghiên cứu và viết đề tài này do trình độ,
thời gian, kinh nghiệm còn hạn chế và nguồn tài liệu còn hạn hẹp
nên chắc chắn em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của thầy cô giáo. Và em
xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s.Ngô Thị Tuyết Mai đã tận
tình giúp đỡ em để em hoàn thành bài viết này.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG
LỰC CẠNH TRANH HÀNG ĐỒ GỖ XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM
1.1. Lý luận về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm, phân loại và vai trò của cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
* Khái niệm cạnh tranh
3
Cạnh tranh là một phạm trù kinh tế khách quan, là quan hệ
kinh tế giữa những người cùng sản xuất kinh doanh một loại sản
phẩm, nó vừa là môi trường, vừa là động lực phát triển kinh tế.
Trong kinh tế học, cạnh tranh được định nghĩa là sự giành
giật thị trường để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Theo
C.Mác: "cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được những lợi nhuận siêu
ngạch". Đây là định nghĩa khái quát nhất về cạnh tranh, nó đã nói
lên được mục đích của cạnh tranh, nhưng chưa nói lên cách thức
để giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Cạnh tranh là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa, là sự đối
chọi giữa những người sản xuất hàng hóa dựa trên thực lực kinh
tế của họ. Cơ sở của cạnh tranh là chế độ sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất. Chế độ này đẻ ra cạnh tranh, chèn ép lẫn nhau, " cá
lớn nuốt cá bé". Quan niệm đó về cạnh tranh được nhìn nhận từ
góc độ tiêu cực. Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thừa
nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động
lực của sự phát triển kinh tế-xã hội. Do vậy cạnh tranh có thể
được hiểu như sau:
Cạnh tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết
liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường
hàng hóa cụ thể nào đó nhằm giành giật khách hàng và thị
trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hóa và thu
được lợi nhuận cao.
4
* Khái niệm năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa được hiểu là tất cả những
đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà sản phẩm đó có thể duy trì và phát
triển vị trí của mình trên thị trường trong một thời gian dài.
Năng lực cạnh tranh là khả năng chiếm lĩnh thị trường của
một mặt hàng, là khả năng mà doanh nghiệp có thể đạt được
những điều kiện thuận lợi trong tiêu thụ hàng hóa của mình.
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa còn được thể hiện ở vị trí
của mặt hàng đó trên thị trường, hay nói cách khác đó là sức mua
đối với hàng hóa trên thị trường, là mức độ chấp nhận của người
tiêu dùng.
Tóm lại: Năng lực cạnh tranh của hàng hóa là sự biểu hiện
“tính trội” của hàng hóa về chất lượng, giá cả và hình thức lưu
chuyển của nó trên thị trường, tạo nên sự hấp dẫn và thuận tiện
cho khách hàng trong việc tiếp cận và sử dụng nó. Năng lực cạnh
tranh có thể được hiểu là khả năng giành lợi thế, chiếm ưu thế
trong cạnh tranh của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại
trên cùng đoạn thị trường tại cùng thời điểm.
Cần phân biệt " năng lực cạnh tranh của hàng hóa " và " năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp ". Hai khái niệm này liên quan
mật thiết với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa là một trong
những nhân tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa thể hiện năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của của hàng hóa thể hiện
năng lực của hàng hóa đó thay thế một hàng hóa khác đồng nhất
5
hoặc khác biệt, có thể do đặc tính, chất lượng hoặc giá cả hàng
hóa. Trên thực tế, hai khái niệm này có thể sử dụng thay thế cho
nhau.
Các yếu tố cấu thành
Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của hàng hóa bao
gồm: sự khác biệt (vượt trội) về chất lượng, số lượng, giá cả, mẫu
mã, độc đáo hay kiểu dáng, tính tiện dụng, hình thức phân phối
hàng hóa đến tay người tiêu dùng, dịch vụ sau bán hàng, lòng tin
của khách hàng đối với hàng hóa đó… so với hàng hóa của đối
thủ cạnh tranh trên cùng một phân đoạn thị trường vào cùng một
thời điểm. Năng lực cạnh tranh còn thể hiện qua mức độ chiếm
lĩnh thị trường (thị phần của nó) tốc độ tăng thị phần, khả năng
gây ấn tượng đối với người sử dụng…
Các chỉ tiêu đo lường năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Như vậy, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là cái hiện hữu
trong sản phẩm. Việc phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của
sản phẩm thường được tiến hành đồng thời bằng 3 phương pháp:
(1) đánh giá trực tiếp trên sản phẩm (tính năng, chất lượng, giá cả,
sự tiện ích, mẫu mã...); (2) đánh giá trực tiếp thị trường (doanh số
bán, thị phần, tốc độ tăng thị phần, hệ thống phân phối...); (3)
điều tra xã hội học - chủ yếu qua phiếu thăm dò khách hàng (sự
thoả mãn nhu cầu, sự nhận biết tên sản phẩm, sự trung thành với
nhãn hiệu...). Sau đó so sánh các tiêu chí đó với sản phẩm của đối
6
thủ cạnh tranh trên cùng thị trường tại cùng thời điểm để xác định
năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm là tìm ra những biện
pháp tác động vào quá trình sản xuất và lưu thông sản phẩm, làm
cho nó có “tính vượt trội” so với sản phẩm cùng loại của đối thủ
cạnh tranh (nếu nó chưa có năng lực cạnh tranh) hoặc làm tăng
thêm sức mạnh cho sản phẩm, làm cho “tính trội” của nó ở mức
tốt hơn, cao hơn trên thị trường tiêu thụ (nếu sản phẩm đã có năng
lực cạnh tranh nhưng năng lực cạnh tranh còn yếu). Nói cách
khác: nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm là sử dụng một số
yếu tố tác động nhằm khắc phục những tồn tại được coi là trở
ngại làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm đồng thời hoàn thiện
những nhân tố làm tăng tính trội của nó so với đối thủ khác (chứ
không phải so với chính nó), nhằm làm cho thị phần của sản
phẩm tăng lên so với thị phần của đối thủ cạnh tranh của nó.
Quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm khác
với việc hoàn thiện sản phẩm ở chỗ: hoàn thiện sản phẩm chỉ là
quá trình làm cho sản phẩm đó trở nên tốt hơn, có tính mới hơn so
với chính nó ở những thời điểm khác nhau. Vì vậy, có trường hợp
sản phẩm không hoàn thiện nhưng lại có có sức cạnh tranh do nó
có tính trội hơn tương đối khi so sánh một cách tương đối với sản
phẩm khác.
7
1.1.1.2. Phân loại cạnh tranh
Căn cứ vào chủ thể tham gia
- Cạnh tranh giữa người bán với người mua:
Đây là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán
đắt, người bán luôn mong muốn bán sản phẩm của mình với giá
cao nhất, ngược lại người mua lại muốn mua sản phẩm đó với
mức giá thấp nhất. Sự cạnh tranh này được thực hiện qua quá
trình " mặc cả ", kết thúc quá trình này, người bán sẽ chỉ đồng ý
bán sản phẩm của mình và người mua sẽ chỉ chấp nhận mua sản
phẩm với giá chấp nhận là giá thỏa thuận giữa người bán và người
mua.
- Cạnh tranh giữa những người mua
Đây là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Loại
cạnh tranh này xảy ra khi mức cầu đối với một hàng hóa hay dịch
vụ nào đó trên thị trường lớn hơn lượng hàng hóa, dịch vụ nào đó
mà người bán có thể cung cấp. Do đó, cạnh tranh sẽ trở nên gay
gắt hơn khi càng có ít người bán nhưng lại nhiều người muốn mua
và giá cả hàng hóa, dịch vụ sẽ được người bán đẩy lên cao. Kết
quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao, sang người mua
phải chịu thiệt thòi.
- Cạnh tranh giữa những người bán
Đây là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất. Trong
cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp
khác nhau để tạo cho mình thế mạnh nhằm vượt lên trên đối thủ
hoặc thôn tính lẫn nhau để tranh giành khách hàng và thị trường.
8
Kết quả để đánh giá doanh nghiệp nào thắng trong cuộc cạnh
tranh là việc tăng doanh số tiêu thụ và tăng tỉ lệ thị phần, theo đó
tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuât.
Căn cứ vào phạm vi cạnh tranh
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Đây là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong nội bộ ngành,
cùng sản xuất ra một loại hàng hóa nhằm mục đích tiêu thụ hàng
hóa có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch. Để cạnh tranh cùng
với đối thủ cùng ngành, các doanh nghiệp phải thường xuyên cải
tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao năng
xuất lao động nhằm làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa doanh
nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu lợi nhuận siêu
ngạch.
- Cạnh tranh giữa các ngành:
Đây là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc các
ngành khác nhau, nhằm giành nơi đầu tư có lợi nhất. Trong quá
trình cạnh tranh, các doanh nghiệp bị hấp dẫn bởi khách hàng nên
đã chyển vốn đầu tư từ ngành ít lợi nhuận sang ngành lợi nhuận
cao. Sự điều chỉnh này sau một thời gian nhất định sẽ hình thành
nên sự phân phối hợp lý giữa các ngành sản xuất và hình thành tỷ
suất lợi nhuận bình quân giữa các nghành.
Căn cứ vào mức độ, tính chất cạnh tranh thị trường
- Cạnh tranh hoàn hảo
Đây là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều
người bán và người mua độc lập với nhau, không có người nào có
9
ưu thế để có thể ảnh hưởng tới giá cả. Các sản phẩm làm ra được
người mua xem là đồng nhất tức là ít có sự khác biệt về quy cánh
phẩm chất mẫu mã. Tất cả người mua và bán đều có hiểu biết đầy
đủ về thông tin liên quan đến việc trao đổi. Thị trường cạnh tranh
hoàn hảo đòi hỏi tất cả người mua và người bán đều có liên hệ với
tất cả những người trao đổi tiềm năng, biết tất cả các đặc trưng
của các mặt hàng trao đổi, biết tất cả giá người bán đòi bán và giá
người mua trả. Không có gì ngăn cản việc gia nhập và rút khỏi thị
trường. Người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng
với giá cả trên thị trường, họ chủ yếu tìm cách giảm chi phí và sản
xuất một mức sản phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận
biên bằng doanh thu cận biên.
- Cạnh tranh không hoàn hảo
Đây là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản
phẩm là không đồng nhất với nhau, mỗi sản phẩm có thể có nhiều
nhãn hiệu khác nhau, mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh và uy tín
khác nhau mặc dù khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể.
Trong môi trường cạnh tranh không hoàn hảo, mức độ cạnh tranh
gay gắt và các hình thức cạnh tranh cũng hết sức đa dạng. Bằng
nhiều hình thức khác nhau của cạnh tranh, người bán lợi dụng uy
tín của mình, hay sử dụng các biện pháp khuếch trương sản phẩm,
khuyến mại, các dịch vụ đặc biệt sau bán hàng...có thể có những
lợi thế hơn, có được những điều kiện bán hàng tốt hơn, cạnh tranh
tốt hơn so với các đối thủ cạnh tranh, đáp ứng tối ưu các nhu cầu
của khách hàng, duy trì và ngày càng mở rộng hơn thị trường tiêu
10
thụ sản phẩm của mình...kết quả của cạnh tranh là dẫn đến cuộc
chiến về giá cả giữa người bán với nhau. Đây là hình thức cạnh
tranh được coi là phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền
Đây là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà ở đó chỉ có
một hay một số ít người bán cung cấp một loại sản phẩm đồng
nhất hoặc chỉ có một hay một số ít người mua một loại sản phẩm
đó. Số ít người này có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản
phẩm bán ra hay mua vào thị trường.
Thị trường có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh được
gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. Trong thị trường này
không có cạnh tranh về giá như ở thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo mà các nhà độc quyền quyết định về giá cả. Việc định
giá này nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho các nhà độc quyền.
1.1.1.3 Phân loại năng lực cạnh tranh
Nâng lực cạnh tranh quốc gia
Đây là một khái niệm phức tạp, bao gồm các yếu tố ở tầm vĩ
mô, đồng thời cũng bao gồm năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong cả nước. Năng lực cạnh tranh quốc gia được định
nghĩa là khả năng của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền
vững, thu hút được đầu tư ,bảo đảm ổn định kinh tế xã hội, nâng
cao đời sống của người dân. Một số tổ chức quốc tế (như diễn đàn
kinh tế thế giới (WEF), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD), viện phát triển quản lý (IMD) ở Lausanne, Thụy Sĩ...)
tiến hành điều tra, so sánh và xếp hạng năng lực cạnh tranh của
11
các nền kinh tế thế giới. Các xếp hạng đó áp dụng các phương
pháp luận tương tự như nhau và đi đến kết quả giống nhau về xu
thế, tuy không hoàn toàn giống nhau về xếp hạng do có những
khác biệt trong phương pháp luận (thí dụ như về trọng số cho
từng yếu tố, về cơ sở dữ liệu...). Các nhà đầu tư quốc tế thường
tham khảo các xếp hạng này như một căn cứ để lựa chọn địa điểm
đầu tư, vì vậy, các xếp hạng đó có ý nghĩa quan trọng đối với các
chính phủ và doanh nghiệp.
12
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả
năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp
trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước. Một
doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm và dịch
vụ, vì vậy cần phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với
khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm - dịch vụ
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ thường được đo
bằng thị phần của sản phẩm hay dịch vụ cụ thể trên thị trường.
Giữa ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ mật
thiết qua lại với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ
thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia
cao phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, ngược lại
để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có điều kiện nâng cao năng lực
cạnh tranh thì môi trường kinh doanh của nền kinh tế phải thuận
lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được,
nền kinh tế phải ổn định; bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt
động có hiệu quả, có tính chuyên nghiệp. Đồng thời, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh
tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh.
Doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay một số sản phẩm và
dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao.
13
1.2. Các lý thuyết cạnh tranh
Thuyết thương mại quốc tế cổ điển sử dụng lợi thế của năng
suất lao động để định nghĩa lợi thế cạnh tranh, chúng ta xem xét
lý thuyết của học thuyết lợi thế so sánh qua mô hình đơn giản sau
đây:
Trên thế giới khi một quốc gia có thể sản xuất ra một loại sản
phẩm có giá thấp hơn quốc gia khác thì số hàng hóa này có thể
được xuất khẩu để bù đắp cho việc nhập các loại hàng hóa có giá
trị cao hơn nhằm đem lại lợi ích cao nhất. Adam smith ( 17231790) đã dẫn chứng ví dụ về lợi điểm tuyệt đối mà cả 2 quốc gia
có thể thu được lợi nhuận từ thương mại:
14
Số lượng trên mỗi đơn vị lao động đầu vào
Hàng hóa
Hoa Kỳ
Nhật Bản
Số tấn gạo
4
2
Xe hơi
2
4
Tại Hoa kỳ 4 tấn gạo có giá trị tương đương 2 chiếc xe hơi,
ở Nhật Bản 2 tấn gạo có giá trị tương đương 4 xe hơi, Hoa kỳ có
lợi điểm tuyệt đối với sản xuất gạo còn Nhật Bản có lợi điểm
tuyệt đối về sản xuất xe hơi. Như vậy Hoa Kỳ xuất khẩu gạo,
nhập khẩu xe hơi còn Nhật Bản xuất khẩu xe hơi và nhập khẩu
gạo. Hoa kỳ nên chuyên môn hóa sản xuất gạo và Nhật Bản nên
chuyên môn hóa sản xuất xe hơi.
Sau khi đã chuyên môn hóa sản xuất, Hoa Kỳ và Nhật Bản
tiến hành trao đổi thặng dư sản phẩm của mình cho đến khi nào
sự trao đổi ấy còn hiệu quả hơn trao đổi nội địa, kết quả trao đổi:
Hàng hóa
Hoa Kỳ
Nhật Bản
Số tấn gạo
3
3
Xe hơi
3
3
Như vậy lý thuyết của Adam smith đã sử dụng yếu tố năng
xuất lao động để định nghĩa lợi thế cạnh tranh,theo ông thì một
quốc gia nên lựa chọn những ngành sản xuất mà có lợi thế so sánh
về năng suất lao động đồng thời áp dụng các biện pháp tác động
nhằm tác động gián tiếp hoặc trực tiếp lên lợi thế sẵn có để sử
dụng một cách hiệu quả nhất, ví dụ như : đào tạo nâng cao tay
15
nghề lao động, đầu tư tranh thiết bị cho lao động... đó chính là lợi
thế cạnh tranh.
Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh thuyết truyền thống của
David Ricardo và lý thuyết của hai nhà kinh tế học Scandinavian,
Heckscher và Ohlin. Cả hai người, đều dựa trên một loạt các giả
định được minh hoạ dưới đây.
Giả sử chỉ có hai nước (Phần Lan và Ấn Độ) và hai mặt hàng
(dệt và giấy). Lấy K=vốn ($); L=lao động(giờ); r=giá thuê vốn
($); và w=giá đơn vị lao động hoặc mức lương ($/giờ). Tương tự,
lấy Lhàng dệt= số giờ lao động cần để sản xuất ra 1 m hàng dệt và
Lgiấy=số giờ cần để sản xuất ra 1 tấn giấy.
Mô Hình Lợi Thế Giá Cạnh Tranh Truyền Thống: Như đã so
sánh với Ấn Độ và xem xét lý thuyết giá trị của lao động truyền
thống, Phần Lan có lợi thế giá trị cạnh tranh về sản xuất giấy và
Ấn Độ về ngành dệt nếu:
Phần Lan >
Ấn Độ hoặc
>
Thậm chí nếu Phần Lan có hiệu quả hơn đối với mỗi mặt hàng
mà, theo nghĩa:
Ldệt Phần Lan Ldệt Ấn Độ và L giấy Phần Lan < Lgiấy Ấn Độ.
Khi trao đổi thương mại diễn ra, Phần Lan nên xuất khẩu
giấy sang Ấn Độ để đổi lấy mặt hàng dệt.
Ví dụ: Công nghệ sản xuất hàng dệt và giấy ở Phần Lan và Ấn
Độ (tính theo giờ quy định để sản xuất ra một mặt hàng)
1 tấn giấy
16
1 m hàng dệt
Ở Phần Lan
10
15
Ở Ấn Độ
40
20
Vì 15/10 < 20/40 (nói cách khác 10/40 < 15/20, Phần Lan có lợi
thế cạnh tranh về sản xuất giấy và ấn Độ về dệt may)
*Mô Hình Lợi Thế Cạnh Tranh Của Heckscher-Ohlin:
Theo Heckscher - Ohlin thì lợi thế cạnh tranh khác nhau giữa
các nước là do sự khan hiếm tương đối của các yếu tố sản xuất
khác nhau, sự khan hiếm khan hiếm khác nhau đó còn do cơ cấu
các nguồn lực sẵn có và các giai đoạn phát triển khác nhau. Xem
xét mô hình cạnh tranh dưới đây:
Ngành dệt cần nhiều lao động hơn trong sản xuất và giấy
cần nhiều vốn hơn nếu:
giấy >
ngành dệt
Và Phần Lan nhiều vốn hơn còn Ấn Độ nhiều lao động hơn
nếu:
Phần Lan <
Ấn Độ
Điều này có nghĩa là Phần Lan (nơi giá vốn khá rẽ) có lợi thế
cạnh tranh về sản xuất những hàng hoá cần nhiều vốn (như giấy)
và ấn Độ (nơi vốn khá đắt và hiếm) lại có lợi thế cạnh tranh về
những mặt hàng cần nhiều lao động. Khi trao đổi thương mại diễn
ra, Phần Lan nên xuất khẩu giấy sang ấn Độ và nhập khẩu hàng
dệt.
17
*Cả hai đều cần được minh hoạ bằng mô hình giá cả hàng
hoá như bảng dưới đây. Từ đó, có thể thấy rằng cứ mỗi 4 tấn giấy
Phần Lan xuất bằng đường biển sang ấn Độ, họ sẽ thu về hơn 1m
vải (và có thể gần 2m), trong khi đó, nếu không trao đổi cứ mỗi 4
tấn giấy được dùng trong nước sẽ chỉ mua được 1m vải. Tương
tự, cứ mỗi m vải ấn Độ xuất sang Phần Lan sẽ thu về được 2 tấn
giấy (có thể lên tới 4 tấn) mà nếu không trao đổi mỗi mét vải bán
đi chỉ thu về được 2 tấn giấy.
Giá cạnh tranh của hàng dệt may và giấy ở Phần Lan và ấn
Độ trước khi có trao đổi thương mại
Phần
Ấn Độ
FM
Rs.200
FM
Rs.100
1m
1m vải
Lan
Hàng dệt may (m)
80
Giấy (tấn)
20
Giá trước khi trao đổi của 1m hàng
dệt tính theo tấn giấy
vải có giá chỉ bằng 2
bằng
4 tấn giấy
tấn giấy
Nhận xét: trước khi đem trao đổi, vải giá cao hơn ở Phần
Lan so với giá của nó ở Ấn Độ, tức là Phần Lan có lợi thế cạnh
tranh về sản xuất giấy và Ấn Độ về sản xuất hàng dệt may
18
*Nguốn Gốc hay Cơ Sở Cho Lợi Thế Cạnh Tranh:
-Lợi thế về kỹ thuật: Một nước có thể có lợi thế về kỹ thuật
trong sản xuất cả hai sản phẩm hơn nước kia nhưng sự khác nhau
về lợi thế có thể lớn hơn trong một mặt hàng.
-Các khoản thiên phú: Một nước (như Ấn Độ) có thể được
thiên phú nhiều hơn các nước khác (như Phần Lan) về nguồn lực
(như lao động) , tài nguyên thiên nhiên sẵn có, đất đai, khí
hậu....đó là những lợi thế so sánh sẵn có, nhưng không hẳn là đó
là những lợi thế cạnh tranh nếu như không biết khai thác, biến cái
lợi thế so sánh đó thành lợi thế cạnh tranh của mình, ví dụ, như
Việt Nam có lợi thế về nguồn lao động rẻ, dồi dào, tài nguyên
thiên nhiên phong phú, địa hình 3/4 là đồi núi... Đấy là điều kiện,
lợi thế rất có lợi cho việc sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chế
biến từ gỗ, nếu chúng ta biết sử dụng lợi thế so sánh đấy một
cách hợp lý, để biến thành lợi thế cạnh tranh. Như nhà nước có
các chính sách phát triển, quy hoạch trồng rừng, đào tạo tay nghề
lao động, đầu tư trang thiết bị....thì hiệu quả sẽ rất lớn, các sản
phẩm xuất khẩu sẽ có năng lực cạnh tranh cao về tất cả các mặt,
chi phí, giá thành, chất lượng...
Từ cơ sở các học thuyết trên, thấy rằng việc sử dụng lợi thế
cạnh tranh trong một nền kinh tế là quá trình lựa chọn cơ cấu
nghành phù hợp, phát huy được những lợi thế hiện có thành lợi
thế cạnh tranh. Theo lý thuyết này thì các hàng hóa khác nhau đòi
hỏi sự kết hợp các yếu tố sản xuất khác nhau, mỗi nước phải lựa
chọn một cơ cấu ngành phù hợp với cơ cấu nguồn lực hiện có.
19
Cơ cấu các nguồn lực của một quốc gia luôn luôn thay đổi,
do đó cách thức khai thác các nguồn lực cũng phải thay đổi theo.
Một nền kinh tế khai thác tốt lợi thế cạnh tranh sẽ nhanh chóng
nhận ra sự thay đổi đó. Theo các học thuyết cổ điển, các yếu tố
đầu vào của sản xuất bao gồm đất đai, tài nguyên khoáng sản, kết
cấu hạ tầng, lao động, vốn... trong đó, đất đai hoặc tài nguyên
khoáng sản là những yếu tố có giới hạn bởi vậy phải " sử dụng
như thế nào ". Phải tìm ra một tỉ lệ sử dụng các nguồn lực và phân
bố sản xuất như thế nào cho từng giai đoạn phát triển của nền
kinh tế để khai thác lợi thế cạnh tranh một cách tốt nhất, bên cạnh
việc khai khác thì đồng thời phải có kế hoạch khôi phục phát triển
các lợi thế, nguồn lực để phát triển một cách bền vững.
1.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh
1.3.1. Các tiêu chí thuộc sản phẩm
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một sản phẩm thì phải
dựa trên các yếu tố thuộc về sản phẩm để đánh giá, các yếu tố về:
Tính năng, chất lượng, giá cả, sự tiện ích, mẫu mã...
- Tính năng của sản phẩm đó có phù hợp với yêu cầu của
khách hàng hay không: Sản phẩm có tính năng, công dụng phù
hợp hơn với yêu cầu của khách hàng sẽ có năng lực cạnh tranh
cao hơn.
- Mức độ hấp dẫn của sản phẩm đó về mẫu mã kiểu cách so
với các đối thủ cạnh tranh. Trong quá trình quyết định mua của
mình khách hàng thường xem xét mẫu mã, kiểu dáng của sản
20
- Xem thêm -