Nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam
1
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1. Bối cảnh chính sách
Trong khoảng mười năm trở lại đây, ngành công nghiệp công nghệ thông tin
(CNTT) Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp phần mềm (CNpPM) nói riêng đã có
những bước tiến rất đáng kể. Cho đến năm 2000, Việt Nam chưa có được một doanh
nghiệp CNTT quy mô lớn nào, chỉ có khoảng 25 doanh nghiệp quy mô nhỏ với số lượng
lao động từ 20-30 người/ doanh nghiệp. Vậy mà đến nay, cả nước đã có hơn 1000 doanh
nghiệp phần mềm (DNPM), trong đó có khoảng 10 doanh nghiệp với quy mô trên 1000 lao
động, tiêu biểu như FPT Software, FPT Information Systems, TMA, CSC… 9. Bên cạnh
đó, uy tín của những trung tâm phát triển phần mềm của cả nước như Thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội cũng đã được nâng lên đáng kể, luôn nằm trong danh sách 20 điểm đến
hấp dẫn nhất của các thị trường mới nổi về gia công phần mềm trên thế giới theo đánh giá
của tạp chí GlobalServices ấn bản tháng 11/2010.
Hình 1.1: Xếp hạng các thành phố mới nổi về gia công phần mềm
Xếp hạng
năm 2010
Xếp hạng
năm 2009
Thành phố
Quốc gia
1
4
Krakow
Ba Lan
2
3
Bắc Kinh
Trung Quốc
3
6
Buenos Aires
Argentina
4
7
Cairo
Ai Cập
5
8
Sao Paolo
Brazil
6
5
Tp. Hồ Chí Minh
Việt Nam
7
12
Đại Liên
Trung Quốc
8
9
Thâm Quyến
Trung Quốc
9
11
Curitiba
Brazil
10
17
Colombo
Sri Lanka
Nguồn: Lấy từ Tạp chí GlobalServices ấn bản tháng 11/2010, trang 19
2
Mặc dù được đánh giá như một điểm đến rất hấp dẫn của gia công phần mềm, tuy
nhiên theo đánh giá của Gartner, khi đem so sánh với các quốc gia gia công phần mềm
trong khu vực Châu Á/ Thái Bình Dương, Việt Nam chỉ có ưu thế nhất ở tiêu chí chi phí,
trong khi tất cả các tiêu chí còn lại đều được đánh giá ở mức khá và tốt. Đặc biệt, Việt
Nam bị đánh giá ở mức thấp nhất trên tiêu chí an ninh và sở hữu trí tuệ. Việt Nam chỉ có
ưu thế hơn mỗi Indonesia, trong khi đều kém hơn tất cả các nước còn lại. Trong đó, ưu thế
mạnh nhất của Việt Nam trong cả 3 năm 2008, 2009, 2010 là chi phí thấp đã bị chính
Indonesia vượt qua kể từ tháng 12/2010. Đây là tín hiệu cho thấy, ngành CNpPM Việt
Nam không thể mãi dựa vào ưu thế chi phí thấp để xây dựng thế mạnh cạnh tranh của
mình, đồng thời cần phải cải thiện các tiêu chí bị đánh giá thấp, đặc biệt là an ninh và bảo
mật thông tin.
Ngôn ngữ
Hỗ trợ của chính phủ
Đội ngũ lao động
Cơ sở hạ tầng
Hệ thống giáo dục
Chi phí
Môi trường kinh tế và chính trị
Tương thích văn hóa
Độ chín của pháp luật và toàn cầu
An ninh và bảo mật thông tin
Nguồn: Lấy từ nghiên cứu “Leading Locations for Offshore Services in
Asia/Pacific and Japan, 2010-2011” (03/12/2010) của Jacqueline Heng và Jim
Longwood, Hình 1, trang 4
Việt Nam
Thái Lan
Sri Lanka
Philippines
Malaysia
Indonesia
Ấn Độ
Trung
Quốc
Tham số
Bangladesh
Hình 1.2: So sánh những địa điểm gia công phần mềm khu vực Châu Á/ Thái Bình Dương
3
Doanh thu ngành CNpPM cũng liên tục tăng qua từng năm. Nếu như trong năm
1998, nguồn thu đến chủ yếu từ phần mềm dịch vụ nội địa với tổng doanh thu dưới năm
mươi triệu đô la Mỹ, thì đến năm 2008, doanh thu ngành CNpPM đã đạt trên sáu trăm năm
mươi triệu đô la Mỹ, trong đó tỷ trọng giữa phần mềm nội địa và phần mềm xuất khẩu đạt
mức gần bằng nhau, khoảng ba trăm triệu đô la Mỹ. Điều này cho thấy rằng, bên cạnh thị
trường gia công phần mềm xuất khẩu phát triển mạnh trong thời gian qua, thì thị trường
phần mềm nội địa vẫn có được tốc độ phát triển ổn định.
Triệu USD
Hình 1.3: Doanh thu của CNpPM Việt Nam từ năm 1998 đến 2008
Nguồn: Lấy từ Báo cáo “Hiện trạng và định hướng phát triển Công nghiệp phần mềm
Việt Nam”, Vụ CNTT- Bộ Thông tin và Truyền thông, 16/7/2009, trang 5
Mặc dù doanh thu ngành CNpPM Việt Nam đã có mức tăng trưởng đáng kể từ năm
1998 cho đến nay, tuy nhiên nếu so sánh với doanh thu sản xuất phần mềm của các quốc
gia trong khu vực thì Việt Nam vẫn còn thấp hơn rất nhiều. Chẳng hạn, doanh thu ngành
CNpPM Việt Nam năm 2009 chỉ bằng 1,2% so với Ấn Độ, 3,4% so với Trung Quốc. Thậm
chí khi so với Philipines, doanh thu ngành CNpPM Việt Nam chỉ bằng 9,4%.
4
Hình 1.4: So sánh doanh thu phần mềm 2009 giữa Việt Nam và các nước trong khu vực
Triệu USD
Nguồn: Sách trắng CNTT năm 2010, 2 và 3 )
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Những thống kê sơ bộ ở trên cho thấy, ngành CNpPM Việt Nam đã có những bước
tiến đáng kể cả về số lượng doanh nghiệp cũng như doanh thu toàn ngành trong một thập
kỷ vừa qua. Tuy nhiên, Việt Nam phải cạnh tranh với rất nhiều quốc gia khác trên thế giới
trong ngành CNpPM, cũng như doanh thu sản xuất phần mềm của Việt Nam hiện nay thấp
hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. Với chỉ một ưu thế của Việt Nam dựa vào chi
phí thấp (theo đánh giá của Gartner), ngành CNpPM Việt Nam nói chung và các DNPM
Việt Nam nói riêng sẽ không thể có được sự phát triển bền vững. Một khi giá các yếu tố
đầu vào tăng lên, ưu thế ngày càng mất đi thì các DNPM Việt Nam sẽ không thể cạnh
tranh với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, việc xác định năng
lực cạnh tranh (NLCT) của các DNPM Việt Nam cũng như nhận diện được các yếu tố tác
động đến NLCT là rất cần thiết, giúp đưa ra được những chính sách thúc đẩy phát triển
ngành CNpPM trong tương lai.
Với định hướng như vậy, mục tiêu của đề tài này tập trung vào nghiên cứu trả lời
các câu hỏi sau:
-
Ngành CNpPM Việt Nam hiện nay đang ở vị trí nào trong chuỗi giá trị phần mềm
thế giới?
-
Chiến lược cạnh tranh của các DNPM Việt Nam và các yếu tố tác động đến việc
chọn lựa chiến lược cạnh tranh này là gì?
5
Từ những nghiên cứu trên, tác giả sẽ đề xuất một số chính sách giúp nâng cao
NLCT của các DNPM Việt Nam.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Để trả lời những câu hỏi ở trên, tác giả sẽ sử dụng phương pháp định tính theo
hướng nghiên cứu tình huống tại một số doanh nghiệp, tổ chức ở Việt Nam, cũng như so
sánh số liệu phân tích với các nước trong khu vực.
Với mục tiêu nghiên cứu về ngành CNpPM Việt Nam, đề tài sử dụng nguồn số liệu
thứ cấp được thống kê từ các báo cáo chuyên ngành, báo cáo Toàn cảnh CNTT hàng năm,
số liệu thu thập từ trang Web của Hội tin học thành phố Hồ Chí Minh (HCA) và số liệu
được cung cấp bởi Hiệp hội DNPM Việt Nam (VINASA). Đề tài cũng sử dụng một số
thông tin thu thập được từ việc phỏng vấn trực tiếp một số chuyên gia trong lĩnh vực
CNpPM, từ các bài báo viết về ngành CNpPM.
Trên cơ sở phân tích những nguồn thông tin trên, tác giả sẽ nghiên cứu, đề xuất
những chính sách cụ thể giúp thúc đẩy nâng cao NLCT của các doanh nghiệp ngành
CNpPM Việt Nam.
1.4. Kết cấu luận văn
Luận văn được xây dựng dựa trên 5 chương: Chương 1 là phần tổng quan trình bày
về bối cảnh chính sách, mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết cấu luận
văn. Chương 2 tiến hành phân tích những đặc điểm của ngành CNpPM Việt Nam, vị trí
của các DNPM Việt Nam trong chuỗi giá trị ngành CNpPM thế giới. Chương 3 xác định
chiến lược cạnh tranh mà các DNPM Việt Nam hiện đang sử dụng. Chương 4 tập trung
phân tích một số yếu tố tác động đến việc chọn lựa chiến lược cạnh tranh của các DNPM
Việt Nam bao gồm nguồn nhân lực, hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm (VC), vai trò
của các công viên phần mềm (CVPM). Chương 5 sẽ đề xuất một số đóng góp về mặt chính
sách giúp nâng cao NLCT của các DNPM Việt Nam.
6
CHƯƠNG 2
VỊ TRÍ NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHẦN MỀM VIỆT NAM
2.1 Những đặc điểm chính của ngành CNpPM Việt Nam
2.1.1 Vai trò của ngành CNpPM
Với đặc điểm là ngành kinh tế có hàm lượng tri thức cao, lợi nhuận lớn, có tiềm
năng xuất khẩu, CNpPM chính là cơ hội cho những nước đang phát triển như Việt Nam
thực hiện chính sách đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt, trong
Đại hội lần thứ 11 của Đảng đã xác định phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức
là một trong những mục tiêu hàng đầu. Thúc đẩy phát triển ngành CNpPM chính là một
trong những giải pháp giúp thực hiện chủ trương chính sách này của Đảng.
Mặc dù hiện tại ngành CNpPM vẫn chỉ đóng một tỷ trọng khiêm tốn trong tổng sản
phẩm nội địa (GDP) của quốc gia, khoảng 0,4% GDP, nhưng với sự phát triển nhanh
chóng, cùng với sự chỉ đạo và hỗ trợ sát sao của Đảng và Chính phủ, ngành CNpPM Việt
Nam có tiềm năng sẽ đóng góp nhiều hơn trong nền kinh tế quốc gia. Theo ước tính của
HCA, đến năm 2015, CNpPM và dịch vụ CNTT sẽ đạt 2,5% trong tổng GDP quốc gia.
Hình 2.1: Ước tính tăng trưởng ngành công nghiệp CNTT Việt Nam
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
GDP (tỷ USD)
75,00
79,13
85,06
91,44
98,30
105,67
113,59
122,11
Doanh thu CNTT (tỷ USD)
4,07
4,89
5,87
8,21
11,50
16,10
22,54
31,55
Tỷ trọng CNTT đóng góp vào GDP
(50% doanh thu)
2,04
2,44
2,93
4,11
5,75
8,05
11,27
15,78
3
3
3,4
4,5
5,8
7,6
10
13
Doanh thu của công nghiệp phần mềm
và dịch vụ CNTT (tỷ USD)
0,68
0,68
0,82
1,23
1,84
2,76
4,14
6,21
Công nghiệp phần mềm và dịch vụ
CNTT đóng góp vào GDP (50% doanh
thu)
0,34
0,34
0,41
0,61
0,92
1,38
2,07
3,10
Tỷ lệ công nghiệp phần mềm và dịch
vụ CNTT trong GDP (%)
0,5
0,4
0,5
0,7
0,9
1,3
1,8
2,5
Tỷ lệ CNTT trong GDP (%)
Nguồn: Lấy từ Tuyết Ân (2009), “Định vị lại ngành công nghiệp phần mềm”, Thời báo
Kinh tế Sài gòn Online, truy cập ngày 23/03/2011 tại địa chỉ
http://www.thesaigontimes.vn/Home/congnghe/toancanh/21560/Dinh-vi-lai-nganhcong-nghiep-phan-mem.html
7
Ngành CNpPM cũng có vai trò tạo việc làm cho thị trường lao động Việt Nam,
nhất là lực lượng lao động trẻ, có tri thức, có khả năng tiếp cận công nghệ nhanh chóng.
Theo Sách Trắng CNTT và Truyền thông năm 2010, số lao động trong ngành CNpPM năm
2009 là 64.000 lao động, tăng 12% so với năm 2008. Lực lượng lao động này cũng có trình
độ cao trong nền kinh tế: có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên. Với sự gia tăng
số lượng DNPM nói riêng và doanh nghiệp CNTT nói chung hàng năm, nhu cầu nhân lực
CNTT cũng sẽ tăng lên, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động Việt Nam. Theo tính toán
của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến năm 2015, nhu cầu tuyển dụng của các doanh
nghiệp CNTT sẽ là 400.000 lao động. Điều này có nghĩa là 400.000 lao động trẻ sẽ được
giải quyết việc làm, góp phần giảm sức ép tạo việc làm cho lực lượng lao động trẻ trong
bối cảnh Việt Nam đang trong thời kỳ “Cơ cấu dân số vàng”.
2.1.2 Đặc điểm của các DNPM Việt Nam
Thứ nhất, doanh thu của ngành phần mềm tập trung vào một số ít doanh nghiệp
hàng đầu như FPT, TMA, CSC Việt Nam... Chỉ có 5% trong tổng số doanh nghiệp nhưng
quyết định tới 95% tổng doanh số phần mềm- dịch vụ và quyết định gần như 100% doanh
thu xuất khẩu phần mềm- dịch vụ 5. Những công ty còn lại chủ yếu tồn tại với quy mô nhỏ,
thực hiện những dự án gia công phần mềm với trị giá thấp hoặc sản xuất phần mềm với
doanh thu không cao. Điều này cho thấy rằng các DNPM Việt Nam mặc dù gia tăng nhiều
về số lượng trong những năm qua, tuy nhiên hầu hết vẫn là những doanh nghiệp nhỏ, thực
hiện những dự án có giá trị, doanh thu thấp. Doanh thu tập trung chủ yếu vào những doanh
nghiệp xây dựng được những sản phẩm phần mềm có quy mô lớn, có thị phần lớn trong
nước như FPT, Misa, Fast; hay những doanh nghiệp xây dựng được uy tín trong gia công
phần mềm với các đối tác nước ngoài, nhận được những gói phần mềm có lợi nhuận cao
như FPT, TMA, CSC Việt Nam, Global Cybersoft.
8
Hình 2.2: Xếp hạng 10 DNPM có doanh thu cao nhất năm 2009
Xếp hạng
Doanh nghiệp
Doanh số 2009
(Tỷ VNĐ)
1
Cty CP Phần mềm FPT
748,24
2
DN tư nhân DV Tường Minh (TMA Solution)
257,01
3
Cty TNHH CSC Việt Nam
205,28
4
Cty CP Global Cybersoft
110,44
5
Cty CP Công nghệ mới Kim Tự Tháp Việt Nam
143,00
6
Cty CP Misa
89,30
7
Cty CP Truyền thông số 1 – ONE
131,00
8
Cty TNHH Giải pháp phần mềm CMC
103,88
9
Cty CP Phần mềm Việt Quốc tế
30,70
10
Cty TNHH Quản lý doanh nghiệp FAST
40,30
Nguồn: Lấy từ Đánh giá năng lực và Xếp hạng doanh nghiệp CNTT-TT (2010), trang 24
Thứ hai, các DNPM Việt Nam vẫn chưa chú trọng đầu tư áp dụng quy trình sản
xuất theo các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế như CMMi. Các DNPM Việt Nam thường
chọn một trong hai hình thức kinh doanh là khai thác thị trường trong nước hoặc gia công
phần mềm xuất khẩu cho đối tác ở các thị trường như Nhật, Mỹ, châu Âu… Trong đó,
chứng nhận CMMi là “giấy thông hành” chứng tỏ doanh nghiệp đủ khả năng tạo ra sản
phẩm chất lượng, đủ năng lực tham gia vào thị trường phần mềm của thế giới 8. Tuy nhiên,
theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến tháng 6 năm 2010, chỉ mới có
10/1000 DNPM có chứng nhận CMMi. Kết quả này là quá thấp nếu so sánh với khoảng
5500 công ty phần mềm có chứng chỉ ISO 9000 và xấp xỉ 185 công ty đủ tư cách CMMi
mức 4 và 5 của Ấn Độ
26
. Đây cũng chính là lý do khiến cho các DNPM Việt Nam chưa
thể nhận được những dự án lớn đòi hỏi khắt khe về tiêu chuẩn năng lực, mà chỉ giới hạn
thực hiện những dự án nhỏ có mức lợi nhuận không cao, hoặc thực hiện những dự án cung
cấp cho thị trường trong nước.
9
Hình 2.3: Tỷ lệ doanh nghiệp phần mềm tính theo số nhân viên
Nguồn: Lấy từ Tuyết Ân (2009), “Định vị lại ngành công nghiệp phần mềm”, Thời báo
Kinh tế Sài gòn Online, truy cập ngày 23/03/2011 tại địa chỉ
http://www.thesaigontimes.vn/Home/congnghe/toancanh/21560/Dinh-vi-lai-nganh-congnghiep-phan-mem.html
Thứ ba, các DNPM Việt Nam hiện nay phần lớn kinh doanh theo quy mô nhỏ.
Theo thống kê của Vụ CNTT, Bộ Thông tin và Truyền thông, chỉ có 1% số DNPM có trên
500 nhân viên, trong khi có đến 38% DNPM có dưới 20 nhân viên. Kết quả này cho thấy
quy mô về số lượng nhân viên của các DNPM Việt Nam vẫn còn rất ít khi so với những
DNPM Ấn Độ với số lượng nhân viên lên đến hàng ngàn nhân viên (công ty lớn nhất Ấn
Độ là Infosys có mạng lưới kinh doanh với hơn 600 chi nhánh, sử dụng 200.000 kỹ sư điện
tử, tin học 15). Với đặc điểm của hoạt động sản xuất phần mềm là một khi dự án phần mềm
gia tăng về quy mô hay mức độ khó thì số lượng nhân lực được sử dụng cũng gia tăng để
cung ứng đủ nguồn lực cần thiết cho dự án. Theo lý luận đó thì càng nhận thức rõ rằng các
DNPM Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở mức thực hiện các dự án nhỏ, chưa tăng về quy mô để
có đủ khả năng thực hiện các dự án có quy mô lớn, có mức độ khó.
10
2.2 Vị trí DNPM Việt Nam trong chuỗi giá trị phần mềm thế giới
Theo tác giả Keun Lee và Tae Young Park
18
, và như trình bày trong hình 2.4,
chuỗi giá trị ngành CNpPM thế giới bao gồm 4 phân lớp: một là lập trình phần mềm; hai là
thiết kế, phát triển và bảo trì phần mềm; ba là tích hợp hệ thống; và bốn là tư vấn và lập kế
hoạch. Trong đó, những doanh nghiệp thuộc phân lớp 1 sẽ thực hiện các công việc như viết
phần mềm, kiểm tra lỗi. Những doanh nghiệp thuộc lớp 2 sẽ thực hiện các công việc như
cung cấp thiết kế giao diện và phát triển những tính năng mới của phần mềm. Những
doanh nghiệp thuộc lớp 3 sẽ thực hiện việc cung cấp tổng thể hệ thống thông tin, những
giải pháp để kết nối toàn bộ hệ thống. Những doanh nghiệp thuộc lớp 4 sẽ cung cấp các
dịch vụ tư vấn kinh doanh, tư vấn kỹ thuật, các giải pháp tư vấn liên quan đến ứng dụng
CNTT. Theo chiều từ dưới lên trên, giá trị tăng thêm của từng phân lớp sẽ giảm dần từ
phân lớp 1 đến phân lớp 4, thấp nhất là lập trình phần mềm và cao nhất là tư vấn - lập kế
hoạch. Đồng thời, theo chiều từ dưới lên trên, yêu cầu về trình độ kỹ thuật, năng lực sáng
tạo (NLST), năng lực tổ chức và khả năng về vốn cũng càng cao, chỉ những doanh nghiệp
lớn, có tiềm lực mới có thể thực hiện được.
Hình 2.4: Chuỗi giá trị ngành CNTT
Nguồn: Lấy từ nghiên cứu “Catching-up or Leapfrogging in Indian IT service Sector:
Windows of Opportunity, Path-creating and Moving up the Value-chain in TCS, Infosys,
and Wipro” của tác giả Keun Lee và Tae Young Park (2010)
11
Theo nghiên cứu của Tholons về 10 thành phố gia công phần mềm mới nổi hàng
đầu thế giới được công bố vào tháng 10/2009, Việt Nam mà nổi bật là thành phố Hồ Chí
Minh chỉ mới ở phân lớp 1 trên chuỗi giá trị phát triển CNTT thế giới. Đây chính là phân
lớp mang lại lợi nhuận thấp nhất trong chuỗi giá trị phần mềm. Hai hoạt động mà các
DNPM Việt Nam đang kinh doanh là phát triển và kiểm lỗi phần mềm. Trong khi những
nước trong khu vực như Ấn Độ, Trung Quốc đã có mặt trong những phân lớp cao hơn như
phân tích kinh doanh, nghiên cứu - phát triển (R&D) và thiết kế - phát triển - bảo trì phần
mềm (ADM) tại những thành phố như Bangalore, Thượng Hải.
Hình 2.5: Những thành phố đứng đầu về gia công phần mềm trên thế giới
phân theo chức năng
Chức năng
Những thành phố hàng đầu
Thiết kế, phát triển, bảo trì phần mềm
Bangalore, Mumbai, Hyderabad, Chennai, Dublin
Phát triển hoạt hình, trò chơi
Shanghai, Beijing, Moscow, São Paulo
Phân tích kinh doanh
Delhi NCR, Mumbai, Bangalore, Chennai, Krakow, Toronto
Trung tâm chăm sóc khách hàng (tiếng Delhi NCR, Manila NCR, Dublin, Mumbai, Bangalore,
Anh)
Toronto
Trung tâm chăm sóc khách hàng (đa ngôn Mexico City, Cairo, Krakow, Buenos Aires, Dalian,
ngữ)
Bucharest
Dịch vụ kỹ sư sản xuất
Bangalore, Chennai, Pune, St. Petersburg, Guangzhou
Tài chính và kế toán
Mumbai, Bangalore, Manila NCR, Krakow, Shanghai,
Dublin
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe
Hyderabad, Bangalore, Warsaw, Prague, St. Petersburg,
Mumbai
Quản trị nguồn nhân lực
Prague, Bucharest, Bangalore, Makati City, Budapest
Dịch vụ quản trị cơ sở hạ tầng
Bangalore, Dublin, Kuala Lumpur, Delhi NCR, Toronto
Dịch vụ pháp lý
Manila NCR, Mumbai, Chennai
Phát triển phần mềm
Bangalore, Moscow, Chennai, Shanghai, Ho Chi Minh
City
Nghiên cứu- Triển khai
St. Petersburg, Bangalore, Moscow, Shanghai, Dublin
Kiểm lỗi phần mềm
Bangalore, Chennai, Hyderabad, Ho Chi Minh City,
Toronto, Shanghai
Nguồn: Lấy từ nghiên cứu của Tholons về 10 thành phố gia công phần mềm mới nổi hàng
đầu thế giới (tháng 10/2009), trang 32
12
Cũng theo nghiên cứu của tạp chí GlobalServices kỳ phát hành tháng 11/2010 đã
cho thấy rằng: trong so sánh tương quan với hai nước trong khu vực là Trung Quốc và
Philippines thì Việt Nam (với hai thành phố đại diện là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh)
vẫn chỉ dừng ở mức gia công, phát triển phần mềm và hỗ trợ khách hàng, chưa đạt đến
mức thực hiện những công đoạn đòi hình trình độ cao như thiết kế - phát triển - bảo trì
phần mềm (ADM) và R&D như Trung Quốc, Philippines.
Hình 2.6: So sánh chuyên môn chính của ngành công nghiệp phần mềm giữa Việt Nam,
Trung Quốc và Philippines.
Quốc gia/ Thành phố
Philippines
Trung
Quốc
Chức năng chính
Các doanh nghiệp đã thành lập
Thành phố
Cebu
Các công việc có giá trị cao
trong phân tích tài chính, R&D
và quản lý phát triển phần mềm
Accenture, AWS, NCR, Lexysoft,
Alliance Software, Sykes Asia,
Aegis, Stream, Convergys,
ePerformax
Thượng Hải
Phát triển phần mềm, ADM,
R&D, gia công phần mềm tài
chính và kế toán
IBM, World Software Services,
Neoris, Softtek, Infosys, Accenture,
Sitel, ACS
Bắc Kinh
Phát triển phần mềm, ADM,
R&D, gia công phần mềm tài
chính và kế toán
SAP, Tumbleweed Communications,
IBM, BTC International Contact
Center, OPI Global, HP
Thâm Quyến
Phát triển phần mềm, ADM,
R&D, gia công phần mềm tài
chính và kế toán
IBA Group, Honeywell, SGI,
Accenture, IBM, CSC, Deloitte,
Ernst & Young, Genpact
Hà Nội
Gia công dịch vụ giáo dục, phát
triển phần mềm, dịch vụ hỗ trợ
khách hàng
FPT, HPT, HiPT, IBM,
VTCOMTECH Co. Ltd, Equant,
Contact Centre Vietnam
Tp. Hồ Chí
Minh
Gia công dịch vụ giáo dục, phát
triển phần mềm, dịch vụ hỗ trợ
khách hàng
Teledata, VPT, Jupiter Systems, FPT
Việt Nam
Nguồn: Lấy từ Tạp chí GlobalServices, kỳ phát hành tháng 11/2010, Hình 3, trang 38
Xem xét cụ thể về khả năng của công ty FPT Software, một doanh nghiệp phần
mềm lớn nhất Việt Nam hiện nay để kiểm chứng xem những nhận định của Tholons và tạp
chí GlobalServices về vị trí của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam trong chuỗi giá trị
phần mềm thế giới. Theo tham luận “Chiến lược kinh doanh của tập đoàn FPT về phát
triển phần mềm theo hướng toàn cầu hóa” do ông Nguyễn Lâm Phương - Phó Tổng giám
13
đốc công ty hệ thống thông tin FPT trình bày tại Hội thảo toàn cảnh CNTT năm 2009 cho
thấy, những dịch vụ công ty FPT hiện đang cung cấp là Phát triển phần mềm ứng dụng,
phần mềm Nhúng, phần mềm đóng gói; Thiết lập cơ sở hạ tầng hệ thống; Tích hợp hệ
thống, chuyển đổi công nghệ; Triển khai phần mềm quản trị nguồn nhân lực doanh nghiệp
(ERP), BPO, bảo trì hệ thống; Kiểm thử phần mềm. Trong các dịch vụ kể trên, không có
dịch vụ nào đạt đến mức ADM và R&D, chỉ dừng ở mức phát triển phần mềm, triển khai
và kiểm thử phần mềm.
Những kết quả trên cho thấy rằng các DNPM Việt Nam vẫn đang ở mức thấp nhất
trong chuỗi giá trị CNTT của thế giới, chủ yếu vẫn là gia công phần mềm theo đơn đặt
hàng, thực hiện những dự án có quy mô nhỏ, chưa đủ nguồn lực về con người cũng như
vốn để thực hiện các công đoạn đòi hỏi trình độ, kỹ năng cao hơn thuộc các lớp cao hơn
trong chuỗi giá trị CNTT của thế giới như ADM và R&D. Trong chương tiếp theo, chúng
ta sẽ tìm hiểu xem với mức thấp trong chuỗi giá trị CNTT của thế giới, các doanh nghiệp
phần mềm Việt Nam hiện nay đang sử dụng chiến lược cạnh tranh gì.
14
CHƯƠNG 3
CÁC DOANH NGHIỆP PHẦN MỀM VIỆT NAM HIỆN NAY ĐANG SỬ DỤNG
CHIẾN LƯỢC CẠNH TRANH GÌ?
3.1 Hình thức cạnh tranh hiện nay của các DNPM Việt Nam
Theo Michael Porter, “các chỉ số như đầu tư, thương mại, NLST là những chỉ số
dẫn báo về sự thịnh vượng trong tương lai… Sự tăng lên của đầu tư, thương mại, hay
NLST thường kéo theo sự cải thiện NLCT theo thời gian” 21. Điều này có thể suy ra rằng,
để có thể tăng trưởng năng suất, nâng cao NLCT của quốc gia nói chung và một ngành cụ
thể nói riêng, tiến đến tăng trưởng mức thịnh vượng trong tương lai thì nâng cao NLST là
điều kiện tiên quyết bên cạnh những yếu tố khác như đầu tư và thương mại. Hiện nay, các
DNPM Việt Nam chủ yếu nâng cao NLCT của mình thông qua gia tăng đầu tư và thương
mại, chưa chú trọng vào gia tăng yếu tố NLST. Ví dụ như công ty Microsoft đã sáng tạo,
liên tục cải tiến bộ phần mềm Microsoft Office thông qua nhiều phiên bản khác nhau như:
Office XP, Office 2010, Office 2011. Với những sáng tạo và cải tiến không ngừng, Office
đã đóng góp 90% doanh thu của bộ phận kinh doanh của Microsoft, với lợi nhuận trung
bình mỗi quý đạt khoảng 2,8 tỷ USD 11. Ví dụ này cho thấy, với sáng kiến độc đáo và cải
tiến không ngừng đã mang lại NLCT và lợi nhuận vô cùng lớn cho Microsoft.
Hình 3.1: Các chỉ số tác động nâng cao NLCT, sự thịnh vượng trong tương lai
Đầu tư
Thương mại
Năng lực cạnh tranh
Sự thịnh vượng
Năng lực sáng tạo
Nguồn: Báo cáo NLCT Việt Nam năm 2010
Ngoài ra, theo tài liệu giảng dạy “Định nghĩa NLCT và các nhân tố quyết định
NLCT” môn Phát triển kinh tế vùng và địa phương của chương trình giảng dạy kinh tế
Fulbright cũng chỉ ra rằng, chính sách sáng tạo của một quốc gia sẽ được nâng cao từng
15
bước từ tiếp nhận, sử dụng công nghệ nước ngoài cho đến cải thiện, cải tiến công nghệ
nước ngoài, và cuối cùng là sáng tạo ra tri thức, sản phẩm mới. Đối với các nước có nền
kinh tế đang phát triển như Việt Nam, chính sách sáng tạo mới chỉ dừng ở mức tiếp nhận,
sử dụng công nghệ nước ngoài; bên cạnh đó mức độ cải thiện, cải tiến công nghệ nước
ngoài cũng được quan tâm. Tuy nhiên, Việt Nam chưa đạt được mức độ sáng tạo ra những
sản phẩm, những tri thức mới.
Hình 3.2: Mức độ sáng tạo của các DNPM Việt Nam so với thế giới
Nguồn: Tài liệu giảng dạy “Định nghĩa NLCT và các nhân tố quyết định NLCT” môn Phát
triển kinh tế vùng và địa phương của chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright 2011
Những phân tích dưới đây sẽ cho thấy các hình thức kinh doanh chủ yếu hiện nay
của các DNPM là Việt hóa các ứng dụng của nước ngoài, sản xuất các ứng dụng dựa trên
nền tảng có sẵn của các công ty nước ngoài, sao chép ý tưởng các sản phẩm sẵn có của
nước ngoài hoặc gia công các module theo đặt hàng của các đối tác nước ngoài. Những
hình thức kinh doanh này khiến cho việc sáng tạo ra sản phẩm, tri thức mới là hoàn toàn
không thể thực hiện được, vì các hình thức này đều dựa trên nền tảng xác định sẵn của các
đối tác nước ngoài hoặc một khuôn mẫu sẵn có. Điều này cũng phù hợp với phân tích ở
mục 2.2 về vị trí của CNpPM Việt Nam trong chuỗi giá trị phần thế giới, trong đó Việt
Nam chỉ đảm nhận ở mức 1 và đang cố gắng tiến lên mức 2. Càng tiến lên mức cao hơn,
yêu cầu về sự sáng tạo càng cao hơn. Do đó, với mức sáng tạo thấp, chủ yếu là sử dụng và
16
cải tiến sản phẩm của nước ngoài, Việt Nam khó có thể nâng cao năng suất, tăng NLCT,
cũng như tăng vị thế của ngành công nghiệp CNTT trong chuỗi giá trị CNpPM thế giới.
3.2 Sự cạnh tranh tại một số DNPM Việt Nam – một vài trường hợp điển hình
Hình thức cạnh tranh phổ biến nhất của các DNPM tại Việt Nam là sự triển khai,
Việt hóa các sản phẩm sẵn có, với rất ít giá trị sáng tạo tăng thêm. Điển hình như công ty
trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Giải pháp phần mềm CMC, họ đã xây dựng gói Add-on giúp
Việt hóa ứng dụng SAP Business One (một ứng dụng quản lý doanh nghiệp của công ty
SAP, hiện chiếm 72% thị phần ở Châu Á- Thái Bình Dương trong lĩnh vực phần mềm
doanh nghiệp). Lý do khiến cho các DNPM Việt Nam nói chung và CMC nói riêng không
xây dựng được một phần mềm tương tự như SAP Business One đó là vì doanh nghiệp Việt
Nam chưa đạt trình độ để xây dựng một sản phẩm có chất lượng tương đương, giải pháp
tổng thể và sản phẩm không thể cạnh tranh về giá với sản phẩm của nước ngoài.
Hộp 1: Khó khăn trong xây dựng và triển khai phần mềm ERP
Thu Hiền, “Nhìn lại một năm ERP Việt Nam”, PCWorld Vietnam, truy cập ngày 28/03/2011
tại địa chỉ http://www.pcworld.com.vn/articles/quan-ly/quan-tri/2008/01/1191713/nhin-laimot-nam-erp-viet-nam/
Ông Nguyễn Văn Khương, giám đốc EFFECT chia sẻ: “Đầu tư cho việc phát triển và triển
khai sản phẩm ERP là một bài toán mạo hiểm thực sự... Đầu tư ERP là đầu tư dài hơi, mặt
khác yêu cầu kỹ thuật của hệ thống phần mềm và yêu cầu trình độ nhân lực triển khai ERP rất
cao. Trong khi quá trình triển khai kéo dài, luôn tiềm tàng nhiều rủi ro như: biến động nhân sự,
không lường trước độ phức tạp của dự án... hay do khách hàng quản lý dự án không tốt, không
thống nhất giữa các phòng, ban, trình độ nhân sự yếu... đều dẫn đến đình trệ dự án ERP”
ERP là một hệ thống ứng dụng đa phân hệ giúp tổ chức, doanh nghiệp quản lý các
nguồn lực và điều hành tác nghiệp 22. Với tính năng như vậy, ERP được tổ chức xây dựng
rất phức tạp, đòi hỏi sự tương thích, liên thông giữa các phân hệ, vận hành theo các quy
chuẩn của Việt Nam và quốc tế. Do đó, đối với sản phẩm phần mềm có mức độ phức tạp
cao, yêu cầu trình độ cao trong thiết kế và xây dựng như ERP, các DNPM thường có xu
hướng chọn đóng vai trò như một đối tác triển khai phần mềm, hoặc thực hiện Việt hóa các
sản phẩm sẵn có, đã có uy tín của nước ngoài và bán cho thị trường trong nước. Báo cáo
của HCA cũng cho thấy rằng các phần mềm ERP ngoại đang chiếm ưu thế trên thị trường.
17
Các sản phẩm quản lý doanh nghiệp ERP của Việt Nam chủ yếu chỉ dừng ở mức đơn giản.
Với cách thức kinh doanh bằng cách đóng vai trò như đối tác triển khai phần mềm hoặc chỉ
đơn giản tiến hành Việt hóa các phần mềm uy tín của nước ngoài như SAP Business One,
các công ty phần mềm Việt Nam nói chung và công ty TNHH Giải pháp phần mềm CMC
nói riêng đã hướng đến mục tiêu lợi nhuận đầu tiên. Trong năm 2009, công ty CMC đã đạt
doanh thu khoảng 103 tỷ đồng, xếp thứ 8 trong các DNPM có doanh thu hàng đầu. Rõ
ràng, các DNPM đã ít chú trọng đến việc đầu tư nghiên cứu, sáng tạo ra các giải pháp mới,
tri thức mới giúp nâng cao năng suất, tạo ra sự phát triển bền vững lâu dài.
Tương tự, đối với thị trường trò chơi trực tuyến hiện nay, vì mục tiêu lợi nhuận và
chiếm lĩnh thị trường giải trí trong nước nên một số công ty chỉ tập trung thực hiện chuyển
ngữ các trò chơi và cung cấp nhanh chóng cho thị trường. Ví dụ trường hợp của công ty
VNG (trước 07/1/2010 có tên là Vinagame), với mục tiêu ban đầu là trở thành một công ty
tiên phong trong lĩnh vực trò chơi trực tuyến tại Việt Nam, nhưng cách thức mà VNG thực
hiện chủ yếu chỉ là Việt hóa các trò chơi đã phát triển của Trung Quốc, Hàn Quốc. Trong
11 trò chơi trực tuyến đã phát hành của VNG, chỉ có duy nhất trò chơi Thuận Thiên Kiếm
là do VNG tự xây dựng một phần, dựa vào công cụ xây dựng trò chơi của công ty Object
Software- Trung Quốc 24.
Hình 3.3: Các trò chơi VNG đã phát hành
Nguồn: Trang web http://www.vng.com.vn
18
VNG hiện chiếm 65% trong tổng doanh thu thị trường trò chơi trực tuyến của Việt
Nam. Doanh thu của VNG trong năm 2009 đạt đến 50 triệu USD và tốc độ tăng trưởng
doanh thu đạt mức 50%. Với cách thức kinh doanh như hiện nay của VNG cho thấy, công
ty vẫn tập trung chủ yếu ở mức độ tiếp nhận và sử dụng các công nghệ của nước ngoài; tuy
nhiên, đã bước đầu cải tiến công nghệ nước ngoài thông qua sử dụng công cụ phát triển
của Trung Quốc để tự xây dựng trò chơi.
Bên cạnh đó, trường hợp của những công ty phát triển ứng dụng web cũng phần lớn
phát triển dựa trên các mã nguồn được xây dựng sẵn do mua lại của một công ty khác hoặc
sử dụng mã nguồn mở có sẵn. Các công ty sử dụng chiến lược này để giảm thiểu chi phí về
nhân lực phát triển cũng như thời gian phát triển một hệ thống tương tự. Ông Lưu Hữu
Thuận - Giám đốc kinh doanh công ty TNHH Giải pháp tin học Nhật Tâm cho biết, công
ty sử dụng chiến lược kinh doanh dựa trên mã nguồn mở, sử dụng các ứng dụng mã nguồn
mở có sẵn, đội ngũ lập trình viên của công ty chỉ điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của
đối tác. Với cách làm như vậy, chỉ cần đội ngũ lập trình viên khoảng 20 người, công ty có
thể đáp ứng nhanh chóng các yêu cầu của đối tác. Nếu tự phát triển sản phẩm từ đầu đến
cuối, công ty sẽ phải tốn nhiều thời gian, cũng như chất lượng sản phẩm có thể không bằng
so với sử dụng mã nguồn có sẵn. Ví dụ để viết một ứng dụng web quản trị nội dung, công
ty có thể sử dụng hệ thống mã nguồn mở Joomla hoàn toàn miễn phí, hỗ trợ nhiều tính
năng, từ đó chỉnh sửa lại cho phù hợp với nhu cầu khách hàng. Tuy nhiên, với cách làm
như vậy, công ty sẽ phải thực hiện theo khuôn mẫu có sẵn đã thiết kế trong mã nguồn,
không thể sáng tạo thay đổi, tùy chỉnh theo yêu cầu riêng, hoặc xây dựng những phần mềm
có độ phức tạp cao.
Đối với trường hợp của công ty Giải pháp IMT chuyên gia công phần mềm cho đối
tác nước ngoài, khi thực hiện hợp đồng gia công, công ty phải thực hiện đúng theo những
gì được quy định trong yêu cầu của phía khách hàng, bao gồm thiết kế cơ sở dữ liệu, cách
đặt tên biến, sử dụng ngôn ngữ lập trình, nền tảng phát triển. Công ty không thể tự thay đổi
ngôn ngữ lập trình, sáng tạo cách thiết kế cơ sở dữ liệu mới, hay sử dụng ngôn ngữ lập
trình tùy thích. Vì vậy, việc thực hiện gia công phần mềm cho đối tác nước ngoài hoàn
toàn là thực hiện theo đúng những yêu cầu chi tiết của khách hàng, các doanh nghiệp
không cần thiết phải đầu tư nghiên cứu, sáng tạo tạo ra những tri thức mới, sản phẩm mới
để phục vụ thực hiện yêu cầu của khách hàng.
19
Rõ ràng, dù sản phẩm phần mềm thực hiện chức năng gì hay phục vụ đối tượng
khách hàng nào, các DNPM Việt Nam đều cạnh tranh rất ít bằng sáng tạo, mà phần nhiều
bằng sao chép và xây dựng từ các ý tưởng đã có sẵn. Với trình độ và mức phát triển hiện
tại, liệu đây có phải là chiến lược cạnh tranh tối ưu? Phân tích dưới đây về một số kinh
nghiệm quốc tế sẽ nhằm tìm hiểu hình thức cạnh tranh nào là hiệu quả và thích hợp cho các
DNPM Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
3.3 Hình thức cạnh tranh hiệu quả và thích hợp cho các DNPM Việt Nam - Một số
kinh nghiệm quốc tế
Những DNPM ở những nước có trình độ phát triển cao như Ấn Độ, Nhật Bản,
Trung Quốc…, họ thực hiện những công việc yêu cầu khả năng sáng tạo cao. Trường hợp
những công ty trò chơi trực tuyến của Trung Quốc cho thấy, các doanh nghiệp này đã phát
triển nền tảng phát triển riêng cho mình như Object Software, hỗ trợ tốt nhất ý tưởng cũng
như thiết kế riêng của trò chơi do Trung Quốc phát triển, không sử dụng các nền tảng
thông dụng sẵn có như Unity. Hơn nữa, họ còn bán các nền tảng này cho các nước khác để
phát triển trò chơi trực tuyến tương tự.
Hình 3.4: Thống kê các đầu việc thực hiện tại các nước gia công phần mềm cho Nhật Bản
Nguồn: Lấy từ báo cáo “Trends in Offshore Software Development in Japan” năm 2007
của tác giả Tomoko Asai, trang 20
20
Trường hợp của những công ty Nhật Bản thực hiện hợp đồng gia công phần mềm
với những doanh nghiệp Việt Nam cho thấy, họ thực hiện những công đoạn yêu cầu khả
năng sáng tạo cao, đó là thiết kế phần mềm, xây dựng những nền tảng để phát triển phần
mềm. Theo thống kê của IPA năm 2007, Việt Nam chủ yếu thực hiện gia công trong phân
đoạn lập trình và kiểm tra phần mềm ở mức đơn vị (mức kiểm tra phần mềm thấp nhất).
Việt Nam cũng được giao thực hiện các công đoạn ở mức độ cao hơn như thiết kế cơ bản,
thiết kế chi tiết và kiểm tra ghép nối. Tuy nhiên, khi so sánh với các thị trường gia công
phần mềm cho Nhật Bản khác như Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ, các thị trường này
cho thấy bên cạnh số lượng dự án lập trình và kiểm tra phần mềm ở mức đơn vị (phân đoạn
Việt Nam thực hiện nhiều nhất) vượt trội so với Việt Nam, các nước này còn thực hiện các
phân đoạn cao hơn, đòi hỏi trình độ kỹ thuật, NLST cao hơn như: định nghĩa yêu cầu, kiểm
tra toàn bộ phần mềm, nghiên cứu phát triển công nghệ…
Chính vì thực hiện những công đoạn yêu cầu khả năng sáng tạo cao, do đó lợi
nhuận thu được của những doanh nghiệp Trung Quốc hay Nhật Bản cao hơn nhiều so với
Việt Nam. Kinh nghiệm từ Ấn Độ cho thấy, ngành CNpPM được phát triển từ những năm
1984, ban đầu cũng dựa vào ưu thế giá nhân công giá rẻ như Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, cho đến nay, lợi thế đó đã mất đi, không thể so sánh giá nhân công rẻ với các thị
trường mới nổi như Việt Nam, Trung Quốc, Philippines… Do đó, ngành CNpPM Ấn Độ
đã nâng cao năng lực của mình bằng cách tập trung vào đầu tư nâng cao trình độ cho đội
ngũ lập trình viên. Thực tế tại những doanh nghiệp hàng đầu Ấn Độ như Infosys, họ đã xây
dựng những trường đào tạo chuyên ngành lập trình phần mềm, nhằm giúp xây dựng được
đội ngũ lập trình viên đủ trình độ làm trong những dự án đòi hỏi chuyên môn cao. Với cách
làm như vậy, Ấn Độ đã có đủ nguồn lực về con người để di chuyển sang các phân đoạn có
giá trị cao hơn trong chuỗi giá trị phần mềm. Vì vậy, đến nay, Ấn Độ vẫn có thể duy trì
được tốc độ phát triển cao trong doanh thu ngành phần mềm, không bị mất thị phần do mất
ưu thế cạnh tranh trong giá nhân công rẻ.
Những phân tích ở trên cho thấy, mặc dù có những cách thức thực hiện khác nhau,
chú trọng vào các phân khúc thị trường khác nhau, nhưng các nước trên thế giới đều có
những chiến lược đầu tư đầu tư nâng cao NLST, thực hiện trên những phân đoạn cao hơn
trong chuỗi giá trị phần mềm, từ đó nâng cao NLCT của ngành CNpPM. Ngành CNpPM
Việt Nam tuy có tốc độ tăng trưởng hàng năm lên đến trên 35%, tuy nhiên chỉ thực hiện
gia công phần mềm cho nước ngoài với giá trị gia tăng thấp, hoặc chỉ dừng ở mức độ sử
- Xem thêm -