Lời nói đầu
Trong chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân của Việt
Nam, nông nghiệp và nông thôn luôn là mối quan tâm hàng đầu
trong các chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trong các thời kỳ
khác nhau, tuy tỷ trọng GDP Nông nghiệp trong tổng GDP toàn
quốc và cơ cấu đầu tư của nền kinh tế có khác nhau, nhưng nông
nghiệp luôn được xác định là chỗ dựa vững chắc để giải quyết
hàng loạt các vấn đề lớn của toàn xã hội như: an ninh lương thực
quốc gia, xoá bỏ đói nghèo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, cung cấp
nguồn nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác, tạo thêm việc làm
và ổn định xã hội, tăng nguồn tích lũy và tạo tiền đề cho việc thực
hiện công nghiệp hóa đất nước.
Thời đại ngày nay trong xu thế quốc tế hóa và khu vực hóa,
các nước đều thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế thì ngoại
thương có vai trò quan trọng. Đối với Việt Nam xuất khẩu đóng
vai trò rất lớn trong nền kinh tế: xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn
trong GDP cả nước, thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế xã hội. Việt
Nam là một nước nông nghiệp, trong cơ cấu xuất khẩu thì hàng
nông sản mặc dù cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội còn thấp kém, nhưng chúng ta còn nhiềm tiềm năng chưa
được khai thác hợp lý, nhất là đất đai, lao động, điều kiện khí hậu,
thời tiết và nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cùng với trình độ quản
lý yếu kém, chính sách thương mại chưa hợp lý, kinh nghiệm uy
tín trên thị trường còn non yếu. Do vậy mà khả năng cạnh tranh
của các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hàng
0
nông sản xuất khẩu nói riêng còn rất thấp mà chúng ta phải chịu
nhiều thua thiệt. Do vậy, chiến lược phát triển ngành nông nghiệp
hướng xuất khẩu, hợp tác khoa học - công nghệ với bên ngoài,
tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu nâng cao vị thế của hàng nông
sản trên thị trường thế giới là tất yếu khách quan và cũng là yêu
cầu cấp bách trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta trong
trước mắt cũng như lâu dài. Việt Nam cần chủ động và đón đầu
quá trình chuyển động lớn lao này nhằm tranh thủ những cơ hội
tốt nhất cho chiến lược phát triển kinh tế đất nước.
Ý thức được điều đó, em đã tâm đắc lựa chọn đề tài “Nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất
khẩu ” làm chuyên đề thực tập của mình. Chuyên đề này được kết
cấu theo 3 chương như sau:
Chương I: Khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu
- các nhân tố ảnh hưởng - nội dung và phương pháp đánh giá
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hoạt động kinh
doanh.
Chương II: Phân tích khả năng cạnh tranh của hàng
nông sản xuất khảu Việt Nam thời gian qua.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu trong tình hình
hiện nay.
Do những hạn chế về thời gian nghiên cứu, về tài liệu thu
thập, hàng hóa và thị trường lại là những lực lượng đầy biến động
1
nên không thể tránh khỏi sự thiếu sót về sự cập nhật thông tin. Em
rất mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn
PGS.TS Đặng Đình Đào và cán bộ Viện kinh tế nông nghiệp nay
là Viện nghiên cứu chiến lược phát triển nông nghiệp và nông
thôn, TS Nguyễn Đình Long - Viện phó để bài viết được hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
2
CHƯƠNG I.
KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM XUẤT
KHẨU
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH.
I. TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH
1. Quan niệm về khả năng cạnh tranh và cạnh tranh
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về khả năng cạnh tranh.
Cho đến nay đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu khác nhau
về khả năng cạnh tranh.
Fafchamps cho rằng “Khả năng cạnh tranh của sản phẩm,
của doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản
xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của
nó trên thị trường. Theo cách hiểu này thì doanh nghiệp nào có
khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản phẩm
của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi
là khả năng cạnh tranh cao hơn”. (1)
Randall lại cho rằng, “khả năng cạnh tranh là khả năng
giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất
định”.
Dunning lập luận rằng, “khả năng cạnh tranh là khả năng
cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác
1
Peter.G.H. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp - Dartmouch 1995 - trang 343
3
nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp
đó”.
Một quan niệm khác cho rằng khả năng cạnh tranh là trình
độ để có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường
đồng thời duy trì được mức thu nhập thực tế của mình.
Có thể thấy rằng, các quan niệm trên xuất phát từ các góc độ
khác nhau, nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh, chiếm lĩnh
thị trường và có lợi nhuận. Do đó, khả năng cạnh tranh có thể
hiểu là năng lực nắm vững thị phần nhất định với mức độ hiệu
quả chấp nhận được. Vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy khả
năng cạnh tranh được nâng cao. Hay có thể hiểu khả năng cạnh
tranh là khả năng tồn tại và vươn lên trên thị trường cạnh tranh
duy trì được lợi nhuận và thị phần trên thị trường của sản phẩm
của doanh nghiệp.
2. Khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu
Xuất khẩu là một hoạt động chủ yếu của Thương mại quốc
tế. Cùng với nhập khẩu nó tạo nên sức mạnh của đất nước thông
qua con đường ngoại thương. Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại
tệ lớn cho đất nước đồng thời nó thúc đẩy quan hệ kinh tế với các
nước trên thế giới và khu vực tạo nên các hiệp hội, tổ chức mà từ
đó các nước có thể khai thác những thuận lợi quốc tế và tận dụng
lợi thế so sánh của riêng mình. Từ việc khai thác lợi thế so sánh
về điều kiện tự nhiên, khí hậu... nước ta đã phát triển mạnh ngành
4
nông nghiệp hàng hóa tiến đến xuất khẩu các mặt hàng nông sản
có giá trị.
Mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam là một trong
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong cơ cấu xuất khẩu hàng
hóa của đất nước chiếm tỷ trọng lớn về kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa.
Mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam có nhiều triển
vọng phát triển mạnh, có nhiều lợi thế về mặt tự nhiên. Tuy vậy
muốn chiếm được tỷ phần lớn thu nhiều lợi nhuận trong hoạt
động xuất khẩu nông sản vẫn còn là mục tiêu chiến lược của
ngành trong thời gian tới.
Trước hết ngành sản xuất, chế biến và xuất khẩu cần phải
nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm khi đưa vào thị
trường quốc tế, khả năng cạnh tranh của hàng nông sản được xem
xét trên các mặt chủ yếu sau đây:
a. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu so với các đối thủ
cạnh tranh:
Số lượng thể hiện quy mô của mặt hàng xuất khẩu. Số lượng
liên quan đến việc xác định tỷ phần của nước ta so với các đối thủ
cạnh tranh lớn. Nó còn nói lên mức độ ảnh hưởng hay mức độ chi
phối đối với thị trường mặt hàng ấy.
Một nước có quy mô xuất khẩu lớn chính là nước chiếm
được tỷ phần lớn trên thị trường nhưng sức mạnh cạnh tranh còn
được đánh giá thông qua mức độ tăng quy mộ đặc biệt là lợi
5
nhuận thu về từ việc xuất khẩu số lượng mặt hàng ấy. Kim ngạch
là lượng tiền bằng ngoại tệ thu về từ công việc xuất khẩu. Kim
ngạch lớn hơn với cùng một số lượng xuất khẩu như nhau chứng
tỏ việc xuất khẩu đạt hiệu quả - Sản phẩm xuất khẩu đó có vị thế
trên thị trường hay có sức cạnh tranh lớn.
Thông thường những nước có kim ngạch lớn, quy mô xuất
khẩu lớn so với các đối thủ khác của họ thường có sức cạnh tranh
cao.
b. Chất lượng nông sản xuất khẩu ngày càng được nâng
cao:
Chất lượng phải được nâng cao từ tất cả các khâu trong quá
trình sản xuất, chế biến, bảo quản và lưu thông. Có như vậy mặt
hàng mới đạt được chất lượng cao. Cùng với việc thực hiện lưu
thông tốt, quan hệ công tác lâu dài thì chất lượng hàng hóa tốt sẽ
đem lại giá cao cho sản phẩm tăng kim ngạch đồng thời tăng quy
mô xuất khẩu. Ngày càng tạo thêm uy tín của sản phẩm. Chất
lượng sản phẩm tốt có thể tạo ra một thương phẩm ưa thích có
khả năng xâm nhập vào các phần thị trường cao cấp và sức cạnh
tranh của sản phẩm là rất cao.
c. Giá các mặt hàng nông sản xuất khẩu so với các đối thủ
cạnh tranh:
Giá là một chỉ số tổng hợp phản ánh rất nhiều các yếu tố
khác như: chi phí sản xuất, chất lượng, chính sách lưu thông, tiêu
thụ... Giá quyết định đến lợi nhuận, thị phần, quy mô của mặt
6
hàng khi xuất khẩu. Mặt hàng nông sản xuất khẩu đạt được giá
cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh chứng tỏ nó có sức cạnh
tranh cao hơn các đối thủ khác. Sức cạnh tranh cao về giá còn thể
hiện ở xu thế biến động giá. Khi giá tăng sản phẩm có sức cạnh
tranh cao thì giá tăng mạnh hơn còn khi giá giảm thì sản phẩm có
sức cạnh tranh cao giá lại giảm chậm hơn. Trên thị trường nông
sản thế giới nước nào có khả năng chi phối về giá cả mặt hàng
xuất khẩu thì nước đó sẽ thu được nhiều lợi ích từ việc xuất khẩu.
d. Chính sách và chiến lược lưu thông
Chính sách và chiến lược lưu thông thể hiện phương thức
đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến tay người tiêu dùng.
Trong thời đại toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế
giới, thực hiện chính sách kinh tế mở thì chính sách và chiến lược
lưu thông rất quan trọng, nó còn thể hiện trình độ về tổ chức quản
lý. Mặt hàng có dồi dào chất lượng tốt nhưng không có chiến lược
lưu thông hợp lý thì cũng không đạt được hiệu quả. Chiến lược
lưu thông nhằm thu hút thế giới khách hàng về tay mình, làm cho
khách hàng hài lòng về sản phẩm của mình đồng thời cũng làm
lợi cho mình từ các công việc ấy.
Mặt hàng nào, đơn vị nào có chính sách chiến lược lưu
thông hợp lý sẽ không ngừng tăng sức cạnh tranh trên thị trường
với quy mô thị trường ngày càng mở rộng.
e. Thị phần xuất khẩu trên các thị trường:
7
Thị phần là phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm giữ
trong toàn bộ thị trường của mặt hàng. Thị phần là kết quả của tất
cả các nhân tố khác. Muốn tăng được thị phần và chiếm được thị
phần lớn các đơn vị phải không ngừng thực hiện tốt tất cả các yếu
tố trên mà còn phải không ngừng đổi mới.
Thị phần là chỉ tiêu quan trọng đánh giá sức cạnh tranh của
bất kỳ một sản phẩm nào đó trên thị trường.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH CỦA SẢN PHẨM NÔNG SẢN XUẤT KHẨU
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông sản
xuất khẩu ta xem xét khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường và thông qua một số chỉ tiêu và tiêu thức sau đây:
1. Chất lượng nông sản phẩm:
Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một thực thể tạo cho
thực thể đó khả năng thoả mãn các nhu cầu đã được chỉ ra hoặc
tiềm ẩn trong đó thực thể ở đây là sản phẩm, một hoạt động, một
quá trình...
Như vậy chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản
phẩm mà chất lượng có thể áp dụng cho mọi thực thể, đó có thể là
chất lượng sản phẩm, chất lượng của một hoạt động, chất lượng
của một quá trình.
Do đó chất lượng của sản phẩm là toàn bộ các đặc tính của
sản phẩm tạo cho sản phẩm đó khả năng thoả mãn các nhu cầu đã
được chỉ ra hoặc tiềm ẩn.
8
Đối với mặt hàng nông sản chất lượng sản phẩm được quyết
định do nhân tố di truyền và quyết định bởi công tác chế biến, bảo
quản. Muốn tăng chất lượng hàng nông sản phải đồng thời thực
hiện tốt hai nhiệm vụ: Thứ nhất là yếu tố về giống, cách thức gieo
trồng. Thứ hai là phương thức chế biến bảo quản, yếu tố này có
ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm cuối cùng.
Ngày nay trong bối cảnh quốc tế hoá mạnh mẽ của thời đại
hậu công nghiệp với sự ra đời của tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) và thoả ước về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, mọi
nguồn lực, sản phẩm ngày càng tự do vượt biên giới quốc gia. Sự
phát triển mang tính toàn cầu này có một số đặc điểm như: Hình
thành thị trường khu vực tự do ở cấp khu vực và quốc tế. Sự bão
hoà của nhiều thị trường chủ yếu, đòi hỏi chất lượng cao trong khi
sự suy thoái kinh tế là phổ biến, các công ty và các nhà quản lý
năng động hơn, hàng hóa ngày càng được sản xuất ra nhiều hơn
do công nghệ phát triển rất nhanh dẫn đến sự cạnh tranh tăng lên.
Mặt khác nhu cầu của con người ngày càng cao và tăng với tốc độ
nhanh hơn, điều kiện công nghệ, nhu cầu ở mỗi nước là khác
nhau.
Do những đặc điểm trên thì chất lượng sản phẩm ngày càng
trở thành yếu tố then chốt để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường.
Khả năng cạnh tranh của chất lượng sản phẩm được thể hiện
nếu một sản phẩm có chất lượng tốt hơn thì sẽ có lợi thế hơn
trong cạnh tranh so với những sản phẩm cùng loại thấp hơn.
9
Theo xu thế toàn cầu hóa, là một nước đang phát triển nằm
trong khu vực có tốc độ tăng trưởng cao, Việt Nam đã và đang có
những nỗ lực vượt bậc để nhanh chóng hội nhập về kinh tế với
các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Vấn đề sản xuất
sản phẩm có chất lượng cao để sản phẩm Việt Nam có thể đứng
vững, vươn xa hơn trên thị trường quốc tế khi hàng rào thuế quan
dần dần được bãi bỏ là một thách thức to lớn đối với các sản
phẩm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
2. Công nghệ và quản trị công nghệ:
Ngày nay công nghệ được xem như là một sự tổng hợp của
4 thành phần: Thiết bị, con người, tổ chức và thông tin. Trong đó
thiết bị là phần cốt lõi, con người giữ vai trò quyết định. Bốn
thành phần trên liên hệ mật thiết với nhau và tạo thành phương
tiện chuyển đổi trong quá trình sản xuất vật chất như sau:
Công nghệ
Các yếu tố đầu vào Quá trình sản xuất Sản phẩm (dịch
vụ)
Trong sản xuất, công nghệ là yếu tố sống động mang tính
quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm thông qua công
nghệ thể hiện nó làm tăng năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt ở cả thị trường trong
nước và ngoài nước, công nghệ đang là mối quan tâm sâu sắc của
mọi quốc gia.
10
Riêng đối với từng doanh nghiệp công nghệ là vũ khí sắc
bén để nâng cao khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Nhưng công nghệ không thể tự thân biến đổi thành khả năng cạnh
tranh mà khả năng cạnh tranh chỉ đến với đơn vị có chiến lược
thích hợp trong sử dụng công nghệ sản xuất ra sản phẩm.
Riêng đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu ta cần chú ý đến
việc đầu tư công nghệ để giữ gìn và làm tăng chất lượng của sản
phẩm. Chính điều này sẽ làm tăng giá trị của mặt hàng xuất khẩu.
Làm cho Việt Nam có thể xuất khẩu những sản phẩm đã được chế
biến sâu có chất lượng cao chứ không phải xuất những mặt hàng
thô đem lại giá trị rất thấp lại phải chịu sự tác động rất nhiều của
điều kiện tự nhiên, mùa vụ...
Có rất nhiều yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh dựa
trên công nghệ của doanh nghiệp như chu kỳ sống của sản phẩm,
mức độ thực hiện tổ chức quản lý chất lượng sản phẩm...Tuy
nhiên, yếu tố tác động cơ bản nhất - Theo các nhà kinh tế đó là
vai trò quản trị. Thực vậy, quản trị và công nghệ đã tạo ra khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp biểu hiện trên ba mặt của sản
phẩm, dịch vụ như giá thành hạ, nâng cao chất lượng và cung cấp
đúng lúc cho thị trường. Các tác động trên được thể hiện qua các
sơ đồ sau:
11
Sơ đồ 1: Tác động của công nghệ và quản trị nhằm giảm
giá thành sản phẩm dịch vụ.
Công nghệ
áp dụng các công
nghệ phù hợp,
tiên tiến... để sử
dụng có hiệu quả
các yếu tố đầu
vào
Quản trị
phối hợp quản trị
sản xuất với
chiến lược sử
dụng công nghệ
nhằm giảm chi
phí của quá trình
sản xuất
Nâng cao chi phí máy
móc thiết bị để giảm
- Chi phí lao động
- Chi phí năng lượng
- Chi phí nguyên liệu
Giảm chi phí của quá trình
sản xuất nhằm giảm thiểu
Nâng
Chi
phí
cao khả
sản
năng
xuấ
t
cạnh
tranh
thấp
- Chi phí về sản phẩm
không
đạt chất lượng
- Chi phí về tồn trữ
Sơ đồ 2: Tác động của công nghệ và quản trị nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm - dịch vụ
Công nghệ
Đổi mới công
nghệ
* Đổi mới cơ bản
* Đổi mới từng
phần
* Đổi mới hệ
thống
Quản trị
* Quản trị chất
lượng sản phẩm
* Quản trị theo ISO
Nâng cao độ tin
cậy của quá trình
sản xuất
Nâng
cao
cao khả
chất
năng
lượng
cạnh
tranh
sản
phẩm
Nâng cao hiệu
quả sản xuất
12
dịch vụ
Nâng
Sơ đồ 3: Tác động của công nghệ và quản trị nhằm cung
cấp sản phẩm - dịch vụ đúng lúc cho thị trường.
Công nghệ
Nâng cao năng
Nâng cao năng lực
công nghệ nội sinh
lực nghiên cứu
và triển khai
Cung
Sản
cấp
phẩm
đúng
lúc
mới
Quản trị
* Huy động nguồn
lực
* Đánh giá chiến
lược sản phẩm
mới
Đổi mới công nghệ
Nâng
cao khả
năng
cạnh
tranh
Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam,
trình độ công nghệ của các doanh nghiệp còn lạc hậu so với các
nước phát triển. Do đó để nâng cao khả năng cạnh tranh dựa trên
công nghệ các doanh nghiệp phải kết hợp chặt chẽ giữa công nghệ
và quản trị để hình thành chiến lược sử dụng công nghệ phù hợp.
13
Qua đó ta thấy công nghệ và quản trị công nghệ đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm
- dịch vụ của các doanh nghiệp.
3. Hình ảnh và uy tín sản phẩm trên thị trường:
Uy tín của sản phẩm trên thị trường thể hiện sự tin tưởng
của khách hàng vào chính sản phẩm đó. Đây cũng là nhân tố rất
quan trọng để đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
“Một hình ảnh “tốt” về doanh nghiệp liên quan đến sản
phẩm dịch vụ chất lượng sản phẩm và giá cả... là cơ sở tạo ra sự
quan tâm của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệp. Sự
“cảm tình”, “tin cậy” và “hiểu biết đầy đủ” về doanh nghiệp có
thể giúp đỡ nhiều cho việc ra quyết định có tính “ưu tiên” khi mua
hàng của khách hàng. Điều này cho phép doanh nghiệp “dễ” bán
được sản phẩm của mình hơn và do đó nâng cao được khả năng
cạnh tranh”. (1)
Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường là
một tiềm lực vô hình của doanh nghiệp. Để có được sức mạnh
này doanh nghiệp cần phải thực hiện nhiều hoạt động và các chỉ
tiêu khác như: Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm, kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là luôn tăng lợi nhuận
cũng như giành được thị phần lớn trên thị trường.
1
TS. Nguyễn Xuân Quang - Giáo trình Marketing Thương mại - NXB Thống kê 1999 trang 79
14
4. Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa:
Là một sức mạnh vô hình của doanh nghiệp, mức độ nổi
tiếng của nhãn hiệu hàng hóa cũng góp phần quan trọng nâng cao
khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa là mức độ chấp
nhận của khách hàng đối với nhãn hiệu hàng hóa. Mức độ nổi
tiếng của nhãn hiệu hàng hóa gồm 5 mức độ quen thuộc:
Nhãn hiệu bị loại bỏ
Nhãn hiệu không được chấp nhận
Chấp nhận nhãn hiệu
Nhãn hiệu ưa thích
Nhãn hiệu nổi tiếng
Một ưu điểm của mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu đó là nó
mang tính dây chuyền. Khi một thương hiệu đã nổi tiếng thì các
sản phẩm mới mang thương hiệu đó cũng dễ dàng đến với khách
hàng.
Trên thực tế thì mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu có ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình mua sắm và ra quyết định của khách
hàng. Thể hiện, nhãn hiệu ở thứ bậc cao, khả năng cạnh tranh
càng tốt.
Muốn đạt được thương hiệu nổi tiếng không phải bất cứ một
quốc gia nào, sản phẩm nào đều có thể đạt được. Thương hiệu nổi
tiếng là tổng hợp của rất nhiều các chỉ tiêu về nguồn lực, quản lý,
15
tổ chức.... được thực hiện hợp lý tối ưu cùng với những lợi thế
riêng có trong cả một quá trình dài.
Chính vì vậy để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm
mang thương hiệu “Made in VietNam” là mục tiêu và thách thức
lớn của các sản phẩm Việt Nam trong đó có mặt hàng nông sản.
Trong đó mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu sản phẩm là một chỉ
tiêu đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược lâu
dài của sản phẩm hàng hóa.
5. Trình độ tổ chức, quản lý:
Mỗi doanh nghiệp là một hệ thống những mối liên kết chặt
chẽ với nhau. Một hệ thống tập hợp các phần tử (bộ phận, chức
năng, nghiệp vụ) thoả mãn 3 điều kiện:
Thứ nhất, hoạt động của mỗi phần tử trong tập hợp có thể
ảnh hưởng đến hành vi của toàn bộ tập hợp.
Thứ hai, cách thức hành động và kết quả thực hiện của mỗi
phần tử trên thực tế có ảnh hưởng đến kết quả toàn bộ hệ thống
nhưng không chỉ mình nó mà luôn phụ thuộc ít nhất vào cách
thức và kết quả của một phần tử khác.
Thứ ba, hệ thống luôn được hình thành bởi các phần tử đã
được tập hợp thành các tập hợp con, các tập hợp con này xuất
hiện trong tập hợp lớn và tư cách đã là phần tử có tính chất như
hai điều kiện trên.
Một cách khác, một hệ thống là một tổng thể mà nó không
thể chia cắt được thành các bộ phận có ảnh hưởng độc lập đối với
16
nó. Và như vậy, kết quả thực hiện của một hệ thống không chỉ là
tổng của kết quả thực hiện của các bộ phận, chức năng, nhiệm vụ,
được xem xét riêng biệt, mà nó là hàm số tương tác giữa chúng.
Điều đó có nghĩa là: mỗi khi một bộ phận, chức năng, nghiệp vụ
của doanh nghiệp được tách riêng ra để thực hiện tốt như nó có
thể thì toàn bộ hệ thống sẽ không thực hiện được tốt như nó có
thể. Một đơn vị muốn đạt được mục tiêu của mình thì đồng thời
phải đạt đến một trình độ tổ chức, quản lý tương ứng. Sự hoàn
hảo của cấu trúc tổ chức, tính hiệu quả của hệ thống quản lý và
công nghệ quản lý sẽ tạo nên sức mạnh thực sự cho đơn vị trong
kinh doanh. Và từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Tổ chức quản lý trong kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản
đó là việc quản lý các nguồn sản xuất, tổ chức thu gom hàng hóa
từ các nguồn, tổ chức bộ máy dây chuyền sản xuất, chế biến, bảo
quản và tiêu thụ sản phẩm phải đồng bộ và thông suốt. Do đặc
điểm của hàng nông sản nên tổ chức và quản lý phải liên đới quan
hệ chặt chẽ với nhau phù hợp với từng thời vụ.
6. Cơ chế vận hành
Cơ chế vận hành là cách thức đưa sản phẩm đến tay người
tiêu dùng sao cho có lợi nhất, giảm các chi phí một cách hợp lý,
đạt hiệu quả cao nhất.
Trong kinh doanh thương mại thì phương thức đưa sản
phẩm tới người tiêu dùng cuối cùng thể hiện trình độ quản lý, tổ
chức điều hành doanh nghiệp, làm cho khách hàng biết rõ hàng
17
hóa, nhãn hiệu của doanh nghiệp, chinh phục khách hàng nâng
cao sức cạnh tranh của hàng hóa kinh doanh.
Thực hiện một cơ chế vận hành tốt sẽ tạo ra một môi trường
thương mại thuận lợi giúp cho doanh nghiệp tạo dựng được uy tín
của mình trên thị trường thông qua.
- Làm tăng nhanh tốc độ cũng như khối lượng hàng hoá luân
chuyển. Hàng hóa luân chuyển nhanh làm cho tốc độ quay vòng
vốn nhanh doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận mở rộng
quy mô của sản xuất, đầu tư chuyên sâu hơn ngày càng tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm.
- Làm giảm thiểu các chi phí lưu thông thông qua việc thiết
lập các kênh phân phối hợp lý đảm bảo cung cấp hàng hóa kịp
thời cho nhu cầu của khách hàng. Kênh phân phối hợp lý có vai
trò quan trọng trong việc tạo mối quan hệ gần gũi với khách hàng
và củng cố quan hệ ban hàng. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường
việc tiêu thụ sản phẩm thường sử dụng các kênh dài trong đó sử
dụng nhiều trung gian. Mặt khác trong kinh doanh thương mại,
chi phí lưu thông đóng vai trò quan trọng trong khoản mục chi phí
do vậy giảm được chi phí lưu thông tức là đã giảm thiểu được chi
phí. Điều này có thể thực hiện được khi thiết lập và triển khai
được một mạng lưới kênh phân phối hợp lý. Đối với sức cạnh
tranh của hàng hóa thì việc này ảnh hưởng, tác động đến giá cả
hàng hóa bán ra của nhà thương mại. Đối với mặt hàng nông sản
thì nó ảnh hưởng mạnh đến chất lượng hàng hóa do đặc điểm của
18
loại hàng hóa này chịu sự tác động nhiều về điều kiện môi trường
bảo quản,vận chuyển.
Đưa thông tin đến với khách hàng nhanh chóng, kịp thời
giúp khách hàng hiểu biết về sản phẩm một cách chính xác, tinh
tế đồng thời kích thích nhu cầu tiềm ẩn của khách hàng ảnh
hưởng đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Cùng với
chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý thì hàng hóa sẽ được chấp
nhận, ưa thích, tin dùng của khách hàng. Sẽ tiếp cận và xâm nhập
thị trường mới. Tạo ra một lực lượng khách hàng chung thủy với
sản phẩm của mình.
Mở rộng quan hệ, tạo nhiều cơ hội kinh doanh mới. Trong
thương mại thì “buôn có bạn, bán có phường” rất có ý nghĩa trong
kinh doanh thì việc quan hệ hợp tác, liên doanh liên kết đem lại
nhiều lợi ích. Các thành viên trong khối liên kết sẽ cùng thực hiện
việc ưu đãi giúp đỡ nhau đem lại lợi ích cho cả các bên. Đây là
nhu cầu của các doanh nghiệp khi thực hiện mục tiêu kinh doanh
dài hạn tránh được sự chèn ép, thôn tính khi tiềm lực của doanh
nghiệp còn yếu.
7. Hoạt động xúc tiến thương mại
Là hoạt động quan trọng không thể thiếu trong hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp trong khi đưa hàng hóa ra thị
trường. Hoạt động xúc tiến giúp các doanh nghiệp có điều kiện
hiểu biết lẫn nhau, đặt quan hệ buôn bán với nhau đặc biệt các
doanh nghiệp nhận biết thêm thông tin về thị trường, có điều kiện
19
- Xem thêm -