Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả tác động của chính sách dân số đối với việc xây dựng gia đình ...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả tác động của chính sách dân số đối với việc xây dựng gia đình mới ở tỉnh bạc liêu hiện nay

.PDF
73
1
74

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Đề tài: NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH DÂN SỐ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH MỚI Ở TỈNH BẠC LIÊU HIỆN NAY Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân Mã ngành: 52140204 Giáo viên hướng dẫn: Th.s.GVC. Trần Thị Tuyết Hà Sinh viên thực hiện: Trương Kiều Linh MSSV:6075705 Lớp: SP.GDCD Cần Thơ, tháng 5 năm 2011 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh LỜI CẢM ƠN Sau gần bốn năm ngồi trên giảng đường Đại học, tôi vẫn không ngừng nỗ lực học tập và rèn luyện về mặt đạo đức, cố gắng phấn đấu để có kết quả như ngày hôm nay. Luận văn tốt nghiệp là bài nghiên cứu khoa học đầu tiên của tôi và cũng là bài luận văn kết thúc khóa học của tôi tại trường Đại học Cần Thơ. Để hoàn thành tốt bài luận văn này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tâm của cô Trần Thị Tuyết Hà, nhờ sự giúp đỡ của cô tôi có thể hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp của mình. Tôi xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến quý thầy cô của Khoa Khoa Học Chính Trị đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tôi trong thời gian gần bốn năm qua và đặc biệt là cô Trần Thị Tuyết Hà người đã chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình tôi làm luận văn, và để luận văn của tôi được hoàn chỉnh hơn. Nhân đây tôi xin chúc quý thầy cô luôn có sức khỏe thật tốt để hoàn thành tốt sự nghiệp trồng người của mình. Do đây là nghiên cứu đầu tiên và khả năng lập luận chưa cao, khái quát vấn đề còn nhiều hạn chế, phân tích chưa được sâu sắc nên bài nghiên cứu chắc rằng không tránh được những thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô để em có thể hoàn thành bài luận văn của mình được tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn! 1 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................ 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. ......................................................... 2 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài. ........................................ 3 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài......................................................................... 3 5. Kết cấu của đề tài luận văn. .................................................................................... 3 NỘI DUNG ............................................................................................ 4 CHƯƠNG 1: VAI TRÒ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH DÂN SỐ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH MỚI Ở TỈNH BẠC LIÊU ................................ 4 1.1. Thực trạng gia đình và quá trình xây dựng gia đình mới ở Bạc Liêu........... 4 1.2. Những tác động của chính sách dân số đến quá trình xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu. ....................................................................................................................... 19 CHƯƠNG 2: NHỮNG PHƯƠNG CHÂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH DÂN SỐ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH MỚI Ở TỈNH BẠC LIÊU HIỆN NAY. 37 2.1. Các phương châm chỉ đạo dân số - kế hoạch hóa gia đình và sự tác động của chính sách dân số đối với việc xây dựng gia đình mới.................................................... 37 2.2. Tiếp tục chính sách dân số và đổi mới cách thức thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình để tác động tới quá trình xây dựng gia đình mới. ............................. 61 KẾT LUẬN .......................................................................................... 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................70 2 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh MỞ ĐẦU 2. Tính cấp thiết của đề tài: Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, từ mọi góc nhìn, gia đình đều được coi là tế bào của xã hội, gia đình là cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người. Bên cạnh đó xã hội cũng góp phần không nhỏ vào việc hình thành, việc tạo nên một con người hoàn chỉnh. Giữa xã hội và gia đình có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xã hội phát triển thì tạo điều kiện cho gia đình phát triển và ngược lại, những yếu tố tích cực và tiêu cực của gia đình đều ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến xã hội. Cũng như lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Gia đình càng tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy xây dựng chủ nghĩa xã hội phải lưu ý hạt nhân gia đình”. Ngày nay, trong điều kiện của nền văn minh hiện đại, vấn đề gia đình được các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Các nước đang phát triển trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, ngày càng nhận thức ra rằng, củng cố sự vững chắc của gia đình là con đường đặc biệt quan trọng để giữ ổn định xã hội. Vấn đề xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Gia đình luôn chịu sự ảnh hưởng những yếu tố tác động từ mọi mặt, những yếu tố tác động, ảnh hưởng sâu sắc tới gia đình và quá trình xây dựng gia đình mới đó là dân số. Sự bùng nổ dân số và những hậu quả do nó gây ra đã ảnh hưởng to lớn đến nhiều mặt như đói nghèo, cạn kiệt nguồn tài nguyên, môi trường, thất nghiệp, thiếu việc làm... ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của con người. Với tốc độ gia tăng dân số quá nhanh của nước ta là sự trở ngại lớn đối với hạnh phúc của nhiều gia đình và việc xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu. Những năm gần đây, Bạc Liêu đã tập trung triển khai việc nâng cao hiệu quả của chính sách dân số trong toàn tỉnh và đã đạt được những thành tựu đáng kể bước đầu. Phong trào này đã từng bước đưa tình hình dân số trong toàn tỉnh đi vào ổn định, tạo cho đời sống kinh tế của người 3 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh dân trong tỉnh ngày càng phát triển và đặc biệt hơn nữa là chính sách dân số có tác động tích cực đến việc xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách dân số tỉnh Bạc Liêu cũng gặp không ít những khó khăn: trong công tác tuyên truyền - giáo dục dân số, vấn đề giải quyết việc làm hay thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, việc vận động thực hiện chính sách dân số của một số cán bộ chưa tích cực, còn lơi là, thiếu sự kiểm tra, đôn đốc, chưa có giải pháp vận động thích hợp,.... vì thế cần phải có những giải pháp khắc phục kịp thời và chủ yếu để nâng cao hiệu quả tác động của chính sách dân số từ đó tiến tới thực hiện tốt việc xây dựng gia đình mới ở Bạc Liêu. Do đó phải tiếp tục tăng cường thực hiện và đổi mới cách thức thực hiện chính sách dân số để tác động đến quá trình xây dựng gia đình mới, khi thực hiện cần phải thật sinh động và thực hiện một cách cụ thể Quyết định 147/2000/QĐ-TTg ngày 22 tháng 12 năm 2000 với mục tiêu tổng quát là “Thực hiện gia đình ít con khỏe mạnh, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước”. Rõ ràng việc nâng cao chất lượng dân số để đi đến việc xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu là đều hết sức cần thiết, cần phải được đầu tư và quan tâm nhiều hơn nữa. Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả tác động của chính sách dân số đối với việc xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn. Luận văn này hướng đến mục đích: Xác định sự tác động của chính sách dân số đối với quá trình xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu. Từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tác động của chính sách dân đối với việc xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay. Để thực hiện mục đích đó, luận văn có một số nhiệm vụ: Một là, làm rõ vai trò tác động của chính sách dân số đối với việc xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu. Hai là, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách dân số đối với việc xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay. 4 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn. Đối tượng nghiện cứu của đề tài luận văn là việc nâng cao hiệu quả tác động của chính sách dân số đối với việc xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn là nâng cao hiệu quả tác động của chính sách dân số đối với việc xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài luận văn. Để hoàn thành đề tài nghiên cứu luận văn của mình tôi đã sử dụng các phương pháp sau: Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lý luận và thực tiễn, điều tra xã hội, và sử dụng phương pháp so sánh để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài đã đặt ra. 5. Kết cấu của đề tài luận văn. Đề tài luận văn ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 4 tiết. NỘI DUNG 5 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh Chương 1: VAI TRÒ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH DÂN SỐ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH MỚI Ở TỈNH BẠC LIÊU 1.1. Thực trạng gia đình và quá trình xây dựng gia đình mới ở Bạc Liêu. 1.1.1. Đặc điểm gia đình ở tỉnh Bạc Liêu. Tỉnh Bạc Liêu, trước năm 1997 là tỉnh Minh Hải và đến năm 1997 tỉnh Minh Hải tách ra thành hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Bạc Liêu là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, nằm ở vùng đất cực Nam của tổ quốc. Địa hình cơ bản ở Bạc Liêu là đồng bằng, với những cánh đồng rộng, song ngồi, kênh gạch chằng chịt. Bạc Liêu với diện tích tự nhiên 2.542km2, dân số 856.059 người (thời điểm 1/4/2009 mật độ dân số chiếm khoảng 333 người/km2). Đơn vị hành chính tỉnh Bạc Liêu có 7 huyện, thị: Thị xã Bạc Liêu (nay là thành phố Bạc Liêu) là trung tâm hành chính tỉnh, nằm trên quốc lộ 1A, là nơi có địa hình tương đối bằng phẳng, rất thuận lợi cho phát triển một không gian đô thị sầm uất và trù phú. Thị xã Bạc Liêu là trung tâm văn hóa - chính trị - xã hội - kinh tế của tỉnh và Thị xã Bạc Liêu được công nhận là thành phố loại III vào tháng 9 năm 2010. Tỉnh có sáu huyện đó là: Huyện Vĩnh Lợi, Hòa Bình, Hồng Dân, Giá Rai, Phước Long, và huyện Đông Hải. Cở sở hạ tầng, giao thông vận tải của Bạc Liêu tương đối hoàn chỉnh và thuận tiện cả đường bộ lẫn đường thủy. Hiện nay, tỉnh Bạc Liêu đã và đang tận dụng các tiềm năng, thế mạnh sẵn có của địa phương, huy động các nguồn lực để đầu tư, phát triển hạ tầng cơ sở: điện, đường, nước… nhằm phát triển kinh tế trong tỉnh để có thể vương theo kịp với kinh tế trong nước và rộng hơn là kinh tế quốc tế. [3, tr. 1] Mỗi địa phương hay quốc gia muốn đủ mạnh, trước hết phải có các nguồn lực, trong đó phải có nguồn lực được tạo ra về số lượng và chất lượng. Đó là lượng người trong độ tuổi lao động đóng góp cho xã hội, đồng thời người lao động phải thể hiện hiện về cơ bắp, trí tuệ, thể hiện lao động có kỹ năng, thông qua những hoạt động có hàm lượng chất xám cùng với trí thông minh và sức sáng tạo, sẽ tạo ra số lượng sản phẩm ngày một nhiều hơn và chất lượng cũng tốt hơn. Thể hiện ngay từ lúc mới sinh, bởi vậy tỷ lệ dinh dưỡng của trẻ em cần phải cao. Một số chỉ tiêu phản ánh về trí tuệ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu theo tỷ lệ và tiêu chuẩn quốc tế. Đối với Việt Nam nói chung và 6 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh tỉnh Bạc Liêu nói riêng. Quy mô dân số trong mỗi hộ gia đình vẫn cao, nên ảnh hưởng đến chất lượng dân số, nhất là về thể lực được đo lường bằng chiều cao, cân nặng vẫn thấp và nhỏ hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Từ những thực trạng và phân tích ở các phần trên. Ta thấy cần tiếp tục thực hiện nâng cao hơn nữa chất lượng dân số - kế hoạch hóa gia đình. Trước hết phải thực hiện tốt các biện pháp giảm sinh, nhằm ngăn chặn và giảm thiểu quy mô dân số trong mỗi gia đình. Phạm vi hộ phải có biện pháp chế tài và xử phạt nặng về quyền lợi và vật chất, chỉ thực hiện ổn định được quy mô dân số mới nói đến việc nâng cao chất lượng dân số. Dân số khu vực thành thị, trong những thập niên của thế kỷ trước, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở trong khu vực và trên thế giới diễn ra hết sức dồn dập và sống động, đã có những ảnh hưởng lớn đến các nước đang phát triển và chậm phát triển như nước ta. Song với xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam cũng phát động và tham gia vào quỹ đạo này. Sau 5 năm, theo số liệu điều tra biến động dân số ngày 01/4/2004 tỷ trọng dân số thành thị tăng lên 25,36% và theo báo cáo nhanh của Tổng điều tra dân số 01/4/2009, tỷ trọng dân số thành thị đã tăng được 2%, rõ ràng tỷ trọng dân số khu vực thành thị tăng chậm, bởi chính phủ Việt Nam đã rút ra được bài học từ những mất cân đối khi quy mô và tỷ trong dân số khu vực thành thị tăng lên quá nhanh. Tuy rằng quá trình đô thị hóa sẽ thu được nhiều kết quả và tạo được nhiều điều kiện thuận lợi cho tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Song mặt trái của đô thị hóa là giải quyết không đồng bộ các vấn đề nhà ở, bệnh viện, giao thông đi lại, môi trường và nhiều vấn đề liên quan khác, khi Việt Nam vẫn là nước thuộc nhóm nghèo. Do vậy việc tăng nhanh tốc độ đô thị hóa tại các vùng cần phải được xem xét và căn nhắc. Nhất là đối với Bạc Liêu cũng như những tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Song, khi xem xét các yếu tố dân cư đô thị, thì tỉnh Bạc Liêu vẫn là địa phương có tốc độ đô thị hóa cao so với nhiều tỉnh trong khu vực. Theo số liệu tổng điều tra năm 1999, dân số thành thị trong tỉnh chiếm 24,5%, năm 2004 sau 5 năm tỷ trọng này tiếp tục được nâng lên nhưng không nhiều, đến 2009 chiếm 26,3% so với tổng dân số trong toàn tỉnh. Đó là số liệu dân số ở khu vực thành thị trong những năm gần đây còn ở khu vực nông thôn, trải qua nhiều năm thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, nông 7 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh thôn Bạc Liêu đã đạt được những kết quả hết sức ấn tượng về giảm tỷ lệ sinh. Trung bình mỗi năm giảm từ 0,2‰ đến 0,3‰. Đặc biệt có những năm lên đến 0,5‰. Để tiếp tục giữ mức tăng dân số ở nông thôn như hiện nay, cần có những giải pháp năng động hơn trong việc tuyên truyền, vận động thực hiện các biện pháp dân số và gia đình. Mà cần có chính sách cho các tổ chức tư nhân tham gia vào kế hoạch hóa gia đình có như thế mới có thể có tỷ lệ sinh ổn định và bền vững về quy mô dân số trong nông thôn. Tuy tỷ lệ dân số tự nhiên giảm chậm nhưng cũng đã thể hiện sự quan tâm của các cơ quan tổ chức của tỉnh Bạc Liêu đến chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình và đã một phần nào nâng cao đời sống đại bộ phận nhân dân trong tỉnh. [13,tr.1] Sự chuyển đổi, biến động và phát triển ở tỉnh Bạc Liêu đang từng ngày, từng giờ tác động tới gia đình, tới cộng đồng dân cư toàn tỉnh. Từ thực tế gia đình tỉnh Bạc Liêu nổi lên những đặc điểm có tính đặc thù sau: Một là, Sự đan xen, đa dạng trong cơ cấu dân cư, gia đình. Cả nước nói chung và tỉnh Bạc liêu nói riêng là một trong những tỉnh có một số người dân tộc sinh sống, trải qua các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, các dân tộc luôn kề vai sát cánh, gắn bó máu thịt bên nhau, chống thiên tai dịch họa và xây dựng quê hương, đất nước. Các dân tộc là một cộng đồng thống nhất trong đa dạng, cư trú phân tán và đan xen nhau. Bản sắc văn hóa từng dân tộc tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa của tỉnh đoàn kết các dân tộc luôn là vấn đề chiến lược, cơ bản lâu dài của sự nghiệp cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, truyền thống đoàn kết các dân tộc ngày càng được củng cố và tăng cường. Trong mối quan hệ giữa các dân tộc thì đoàn kết là đặc điểm nổi bật nhất. Trong những giai đoạn khác nhau, các dân tộc đều có vận mệnh chung đoàn kết gắn bó là đảm bảo sự sống còn của toàn dân tộc cũng như của cả cộng đồng trong quá trình phát triển. Sự liên kết các thành phần dân cư sớm có ý thức tự giác, cùng chung sống trong một đất nước ngay từ buổi bình minh của lịch sử đã tạo nên một cộng đồng quốc gia dân tộc bền vững. Các dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu có quy mô dân số và trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Bạc Liêu là nơi hội tụ dân cư của 3 dân tộc sinh sống chủ yếu, với những nét văn hóa riêng, trong đó có ba dân tộc chủ yếu là dân tộc Kinh có 655.309 người (chiếm khoảng 90% dân số), dân 8 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh tộc Hoa có 22.626 người (chiếm khoảng 3% dân số), và dân tộc Khmer có 57.816 người (chiếm khoảng 7% dân số), các dân tộc khác chiếm 0,07%; với đủ các tôn giáo lớn như: đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Hòa Hảo…. Hình thái cư trú phổ biến của các dân tộc là sống đan xen nhau. Xu hướng sống xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng có chiều hướng gia tăng, điều đó tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường quan hệ mọi mặt, tăng cường hiểu biết lẫn nhau cùng tiến bộ trong cuộc sống và phát triển sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc, cùng nhau thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân do điều kiện tự nhiên ở địa bàn cư trú. Nhiều dân tộc đã đạt được đến trình độ cao, nhưng cũng còn một số dân tộc vẫn còn ở trình độ phát triển thấp, đời sống của đồng bào còn rất nhiều khó khăn. Thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nhất là từ sau khi Bộ Chính trị ra Nghị quyết 22/NQ-TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi (tháng 12 năm 1989) và Ban Chấp hành Trung ương có Nghị quyết số 24/NQ-TW về công tác dân tộc (tháng 3/2003), Chính phủ và các Bộ ngành đã ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành các chính sách các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường củng cố đoàn kết các dân tộc, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ vững quốc phòng an ninh… Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn. Chương trình 135. Tập trung giải quyết giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/NQ-CP của Chính phủ. Với việc lựa chọn nơi khó nhất, nghèo nhất để ưu tiên đầu tư hỗ trợ bằng các chương trình mục tiêu, đã tác động rất lớn trong việc hạn chế khoảng cách chênh lệch về đời sống kinh tế giữa các dân tộc. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 3 - 4%/năm; kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông nông thôn, thủy lợi, điện, trường học, trạm xá được xây dựng khá; đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt, nhà sinh hoạt cộng đồng được quan tâm giải quyết. Sự nghiệp giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe nhân 9 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh dân có chuyển biến tích cực… Tình hình đó làm tăng thêm sự phong phú, đa dạng, đan xen, pha trộn trong đời sống dân cư trong toàn tỉnh. Hai là, Cơ cấu gia đình ở tỉnh Bạc Liêu cũng biến động nhanh và cũng khá phức tạp. Theo điều tra, tính đến cuối tháng 6/2010 toàn tỉnh có 183.158 hộ gia đình. Với quá trình đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong bối cảnh có nhiều biến động, gia đình ở tỉnh Bạc Liêu có xu hướng chuyển đổi từ quy mô gia đình lớn (đông người) sang quy mô gia đình nhỏ (ít người). Những đổi thay từ quá trình đô thị hóa đã làm giảm đáng kể số lượng gia đình mở rộng, kiểu gia đình hạt nhân ngày càng gia tăng. Hiện chưa có một cuộc thống kê nào về số lượng gia đình hạt nhân trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, kể cả số hộ gia đình đơn thân hoặc gia đình truyền thống gồm các thế hệ Tam - Tứ đại đồng đường trong tỉnh còn có được bao nhiêu. Song, thực tế tại các khu vực đô thị loại gia đình hạt nhân xuất hiện ngày càng nhiều và đang là xu thế tất yếu. Thực tế xã hội đã và đang xuất hiện nhiều lối sống mới, lối sống hiện đại đối lập với lối sống truyền thống và trở thành vấn đề xã hội nan giải như: Sống chung không kết hôn, không muốn sinh con, sống thử, sống độc thân hoặc kết hôn đồng tính… mà hậu quả của nó để lại là nhiều tiêu cực đối với việc ổn định thiết chế gia đình. Việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em là trách nhiệm và nghĩa vụ rất quan trọng của gia đình và xã hội. Gần đây, tệ nạn xã hội đối với trẻ em đã và đang thâm nhập vào gia đình và tội phạm trẻ em có nguyên nhân từ gia đình tăng nhanh. Trong khi đó, những biến động về các mặt kinh tế - xã hội cùng với lối sống công nghiệp khiến cho các thành viên trong gia đình ngày càng ít có thời gian bên nhau. Vai trò làm cha mẹ trong cuộc sống hiện đại cũng đang có biểu hiện suy giảm ở nhiều gia đình vì những lo toan trong việc làm kinh tế mà ít chú ý đến việc giáo dục nhân cách cũng như sự trưởng thành của con cái. Đời sống ngày càng được cải thiện, tuổi thọ con người ngày càng cao, song tình trạng con cái bỏ rơi cha mẹ diễn ra ngày càng nhiều, trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ ngày nay phần nào mờ nhạt dần. Nhiều người cao tuổi hiện đang sống trong tâm trạng là “người thừa” trước con cháu. Tình trạng này dẫn đến mâu thuẩn giữa các thế hệ khá gây gắt và sẽ còn tiếp tục phát triển làm cho gia đình khó trở nên yên ấm. 10 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh Tất cả những vấn đề đó đặt gia đình trước những thách thức lớn trong xã hội hiện nay, cùng với sự tiếp thu những giá trị nhân văn mới trong xu thế hội nhập với cộng đồng quốc tế, nhưng đồng thời cần phải giữ những bản sắc văn hóa dân tộc và phát huy những giá trị tốt đẹp của gia đình, tạo điều kiện cho sự ổn định và phát triển vững chắc của đất nước. Ba là, Trong hôn nhân gia đình, sự phức tạp càng tăng thêm khi có yếu tố nước ngoài tham gia với việc “môi giới lấy chồng ngoại”. Ngày 10 tháng 7 năm 2002, chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/2002NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Qua hơn hai năm triển khai thực hiện Nghị định, việc xác lập quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đã có nhiều chuyển biến tích cực hơn so với trước đây, phù hợp với bối cảnh mở rộng quan hệ giữa nước ta với nước ngoài. Tuy nhiên, việc kết hôn với người nước ngoài của phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ ở tỉnh Bạc Liêu nói riêng vẫn còn đang tồn tại một số vấn đề sau: Ở tỉnh Bạc Liêu, có nhiều trường hợp kết hôn giữa những người phụ nữ Việt với người nước ngoài, đặc biệt với người Đài Loan, đã được tiến hành một cách vội vã, không đảm bảo nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; hoặc phụ nữ Việt vượt biên giới trái phép sang chung sống như vợ chồng với công dân nước láng giềng. Bạc Liêu năm 2009 có 140 vụ kết hôn với người nước ngoài, giảm gần 50 vụ so với năm 2008 nhưng lại tăng 10 vụ so với năm 2007. Hoạt động kinh doanh môi giới kết hôn nhằm mực đích trục lợi của một số tổ chức, cá nhân diễn ra dưới nhiều hình thức trá hình, tinh vi, gây mất trật tự xã hội. Nhiều trường hợp môi giới kết hôn đã làm hạ thấp danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ Việt, xâm phạm nghiêm trọng thuần phong mỹ tục của dân tộc, làm ảnh hưởng đến uy tín quốc gia. Phần lớn phụ nữ trong tỉnh trước khi đi nước ngoài sinh sống cùng chồng chưa được tư vấn đầy đủ để có những hiểu biết cần thiết về pháp luật, ngôn ngữ, phong tục, tập quán của nước sở tại; do đó, đã gặp nhiều khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng và 11 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh ổn định cuộc sống ở nước ngoài. Một số người sau khi ra nước ngoài bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh nhưng chưa được pháp luật nước sở tại bảo vệ kịp thời Lâu nay, khi đề cập vấn đề kết hôn giữa người với người nước ngoài, nhiều người chỉ nghĩ đến những phụ nữ nông thôn, nghèo, chữ nghĩa ít. Thật sự là có quá nhiều phụ nữ ở nông thôn, gia cảnh nghèo đã làm dâu nước ngoài, nhất là Đài Loan, Hàn Quốc. Nguồn tin từ Sở Tư pháp tỉnh Bạc Liêu 10/6/2006 cho biết gần đây số lượng phụ nữ tỉnh Bạc Liêu lấy chồng Hàn Quốc tăng đột biến. Chỉ tính riêng từ tháng 9-2005 đến nay đã làm thủ tục cho hơn 1.500 cô gái đăng ký kết hôn với người Hàn Quốc (trung bình mỗi ngày khoảng năm người). Nhưng không chỉ riêng những phụ nữ nông thôn, nghèo, chữ nghĩa ít nghĩ đến việc lấy chồng ngoại mà cũng có người học thức cao, người giàu có, gồm cả nam lẫn nữ, cũng kết hôn với người nước ngoài. Có không ít trường hợp sau khi học ra trường, làm hướng dẫn viên du lịch, hoặc học chung với Việt kiều, người nước ngoài học tại Việt Nam, hoặc có người thân là Việt kiều thì họ cũng lấy chồng nước ngoài có quốc tịch Nhật, Pháp”. Theo Báo Hiệp Hội Phụ Nữ Việt Nam số ra ngày 13.6.2006 cho biết: “Trên thực tế nhiều năm qua đã có 180 ngàn người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài thuộc 60 quốc gia (trong đó có 80% là phụ nữ). Phần lớn các cuộc hôn nhân ấy đều hạnh phúc. Tuy nhiên, cũng trong nhiều năm qua, tình trạng phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài (chủ yếu ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc) ồ ạt theo trào lưu đã phát sinh nhiều hệ lụy, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của nhiều người phụ nữ, xúc phạm đến hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam nói chung, đã khiến dư luận bất bình”. Những thực trạng đó được xem là vấn nạn của xã hội Việt Nam nói chung và tỉnh Bạc Liêu nói riêng. [6, tr.1] Bốn là, Tình trạng nhập cư của những người dân nơi khác đến để sinh sống và di cư của những người trong tỉnh . Ở Bạc Liêu, tình hình di dân trong một vài năm gần đây, đang được cân bằng dần. Hệ số đi và hệ số đến bằng nhau. Nguyên nhân chính xảy ra các trường hợp này đó là số người đến Bạc Liêu vẫn là những người có vốn, có kinh nghiệm họ đầu tư chủ yếu vào các hoạt động nuôi trồng thủy sản. Vì đây là nghề vẫn đem lại lợi nhuận cao và khả năng thu hồi vốn nhanh. 12 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh Số người đi khỏi Bạc Liêu trong những năm 2006, 2007 và năm 2008 thuộc đối tượng lao động làm thuê tại thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương hoặc đi học ở các trường đại học, cao đẳng và một số tỉnh trong khu vực và thành phố Hồ Chí Minh, song cũng đã bù trừ cho dòng di cư nhập vào tỉnh. Xét về khoảng thời gian thì Bạc Liêu có hai khoảng thời gian xuất hiện dòng di cư tăng nóng, đó là giai đoạn 1997-2000. Thời gian này tỉnh Bạc Liêu mới được tái lập, số lượng cán bộ từ Cà Mau và các tỉnh khác chuyển về tương đối đông, đi theo số này là vợ, chồng, con cái và người thân trong gia đình. Bởi vậy hệ số tăng cơ học ở giai đoạn này luôn luôn dương và dao động từ 5-7‰. Khoảng thời gian thứ hai xuất hiện dòng di cư nóng, đổ vào địa bàn Bạc Liêu, đó là giai đoạn 2001-2003. Đây là quá trình mà mọi người trong cả nước đều biết, và hưởng ứng chuyển đổi cơ cấu sản xuất của tỉnh Bạc Liêu, đã làm thay đổi hiệu quả trên một đơn vị diện tích sản xuất từ 15 triệu đồng/ 1ha trồng lúa, lên 300 triệu /1ha nuôi trồng thủy sản, và nó cũng là một lực hút cực mạnh, làm thay đổi làn sống di dân từ nông thôn ra thành phố lớn, lúc này có sự chuyển ngược lại là từ thành thị về nông thôn Bạc Liêu. Hệ số tăng cơ học giai đoạn này không phải 5-7‰ như những năm trước mà bình quân mỗi năm tăng từ 10-12‰. Thời gian gần đây, trong số dân nhập cư, có một bộ phận là sinh viên từ các tỉnh lân cận (vì hiện nay tại thành phố Bạc Liêu có một trường Đại học, một trường Cao đẳng và ba trường trung cấp ), sau khi tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng đa số nghững người này có xu hướng muốn ở lại Bạc Liêu tìm việc làm. Đây là một bộ phận dân nhập cư thường xuyên, là nguồn bổ sung hàng năm. Tóm lại lao động di cư vào Bạc Liêu từ rất xa xưa, đã là lực lượng lao động chủ yếu, làm thay đổi các quá trình sản xuất trong nông thôn Bạc Liêu, lực lượng này vừa có sức khỏe, vừa có năng lực, có sức chịu đựng, để vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết, cũng như bệnh tật nếu như không may nó xảy ra. Lực lượng lao động này, nếu như ở thời đại ngày nay, thường là những người có trình độ hiểu biết và phân tích, cũng như dự tính được những sự cố có thể xảy ra, để họ 13 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh phòng tránh và đạt đến hiệu quả cao trong các hoạt động về kinh tế cho bản thân và xã hội. Đặt điểm của lao động di cư ít tham gia vào quản lý, nhất là quản lý nhà nước, mà thường là họ tham gia vào các ngành nghề như thợ thủ công, lao động vận hành máy móc, kinh doanh trên các lĩnh vực kinh tế xã hội mà họ thấy có đem lại lợi ích cho bản thân, cũng như điều kiện và khả năng của mỗi người. Bởi vậy nhóm người di cư thường có thu nhập cao và họ sớm trở thành những người giàu có trong xã hội. Ngày nay, đa số người nhập cư vào Bạc Liêu ở độ tuổi trẻ và trong độ tuổi lao động, có tác động làm thay đổi cơ cấu dân số theo hướng trẻ hóa, đem lại những lợi ích về tiềm năng lao động và nguồn nhân lực cho toàn tỉnh Bên cạnh những thuận lợi đó, tình trạng nhập cư gây không ít khó khăn cho công tác điều tra dân số, một phần ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội của toàn tỉnh và làm cho thực trạng gia đình có nhiều thay đổi. [3, tr.25-28] 1.1.2. Quan niệm về gia đình mới. Để hiểu được như thế nào được gọi là gia đình mới, đều trước tiên cần tìm hiểu định nghĩa về gia đình: Với tư cách một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội, gia đình được hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Xuất phát nhu cầu bảo tồn và duy trì nòi giống, từ sự cần thiết phải nương tựa vào nhau để sinh tồn, các hình thức quần tụ giữa nam giới và nữ giới, những hình thức cộng đồng tổ chức đời sống gia đình đã xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều hình thức gia đình: gia đình đối ngẫu, gia đình một vợ một chồng... Trên cơ sở của sự phát triển kinh tế - xã hội, các kiểu, dạng tổ chức cộng đồng mang tính "tự nhiên" ngay từ đầu đã chịu sự quy định của những biến đổi trong sản xuất, trong đời sống kinh tế - xã hội. Để quan hệ với thiên nhiên, tác động vào thiên nhiên, con người cần phải quần tụ thành các nhóm cộng đồng. Ban đầu, các quan hệ chi phối trong những nhóm cộng đồng ấy còn mang sắc thái tự nhiên, sinh học. Trước những yêu cầu của sản xuất và sinh hoạt, những đòi hỏi của đời sống kinh tế, các quan hệ ấy dần trở nên chặt chẽ, giữa các thành viên trong cộng đồng ấy xuất hiện những cơ chế ràng buộc lẫn 14 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh nhau phù hợp và thích ứng với những điều kiện sản xuất, sinh hoạt của mỗi một nền sản xuất. Gia đình dần trở thành một thiết chế xã hội, một hình ảnh "xã hội thu nhỏ", nhưng không phải là sự thu nhỏ một cách đơn giản các quan hệ xã hội. Như vậy, gia đình được coi là một thiết chế xã hội đặc thù, nhỏ nhất, cơ bản nhất. Nếu như văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình, thì gia đình không chỉ là một hình thức tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội mà điều quan trọng gia đình còn là một giá trị văn hoá xã hội. Tính chất, bản sắc của gia đình lại được duy trì, bảo tồn, được sáng tạo và phát triển nhằm thoả mãn những nhu cầu của mỗi thành viên gia đình trong sự tương tác, gắn bó với văn hoá cộng đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp và tầng lớp của mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia, dân tộc xác định. Tóm lại, gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hoá - xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục... giữa các thành viên. Gia đình là tế bào của xã hội và là phạm trù của lịch sử. Về mặt lý luận, cần hiểu gia đình mới ở nước ta không phải là gia đình hoàn toàn mới, thoát ly hẳn mô hình gia đình truyền thống, do sự chi phối của khoa học - công nghệ… Trái lại, ở Việt Nam, gia đình mới (còn gọi là gia đình văn hóa) là sự kế thừa những yếu tố truyền thống tốt đẹp của gia dình trong lịch sử dân tộc, với sự tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa (tiến bộ, tích cực) của thời đại về gia đình. Có thể khái quát những đặt trưng mới ở Việt Nam ở các tiêu trí: “Gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. [7, tr.9] No ấm là biểu hiện sự phát triển kinh tế của một gia đình, đáp ứng được nhu cầu về ăn, mặc, ở và các sinh hoạt khác của mỗi thành viên trong gia đình là yếu tố đầu tiên cần đạt tới. Bình đẳng là các thành viên trong gia đình được tôn trọng và được hưởng mọi quyền lợi ngang nhau trong tất cả các lĩnh vực: học tập, lao động, việc làm, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe. 15 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh Tiến bộ là yếu tố hướng tới xây dựng gia đình hiện đại. Biểu hiện của các thành viên trong gia đình luôn luôn ý thức tự rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt để có kiến thức, hiểu biết, trình độ năng lực… đáp ứng sự nghiệp đổi mới của đất nước. Đặc biệt có quan điểm nhận thức về đạo đức lối sống lành mạnh, tiến bộ phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc, thực hiện kế hoạch hoá gia đình, bảo đảm đời sống ngày một vươn lên. Hạnh phúc là yếu tố tổng hợp trong một gia đình, các thành viên trong gia đình gắn bó thương yêu, đùm bọc, hoà thuận, luôn tôn trọng, tin cậy, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để củng cố mối quan hệ tình cảm giữa các thành viên, tình cảm chung thuỷ một vợ, một chồng, gìn giữ môi trường gia đình trong sạch, đầm ấm, ngăn chặn tệ nạn xã hội. Bốn yếu tố về xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại không chỉ thể hiện tính bền vững của gia đình mà còn phản ánh sự phát triển của gia đình phù hợp với sự phát triển của xã hội. Cả bốn yếu tố gắn kết chặt chẽ với nhau, có quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau. 1.1.3. Quá trình xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu. Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh những biến đổi về cơ cấu và chức năng của gia đình luôn gắn liền với sự thay đổi về kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, đánh dấu một thời kỳ mới trong quá trình phát triển xã hội của dân tộc ta. Quyền bình đẳng nam, nữ và chế độ hôn nhân một vợ một chồng được Nhà nước công nhận và qui định tại Hiến pháp đầu tiên của nước ta năm 1946 và trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, thể hiện sự tiến bộ xã hội, góp phần thúc đẩy việc hình thành và từng bước hoàn thiện quyền dân chủ trong quan hệ gia đình Việt Nam. Cùng với lịch sử phát triển xã hội, quá trình xây dựng gia đình mới ở tỉnh Bạc Liêu đã trải qua các giai đoạn: - Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986: Năm 1975, sau khi Việt Nam thống nhất, hai tỉnh Bạc Liêu và An Xuyên (Cà Mau) hợp nhất thành tỉnh Minh Hải. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Minh Hải được chia thành hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Hai tỉnh mới chính thức đi vào hoạt động từ 16 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh ngày 1 tháng 1 năm 1997. Giai đoạn từ năm 1975 đến 1986, Bạc Liêu và Cà Mau vẫn còn hợp nhất với nhau, đây là thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh và ở tỉnh Minh Hải lúc bấy giờ đất đai với diện tích rộng, người dân chủ yếu làm nông nghiệp. Bản chất của ngành nông nghiệp cần số lượng người đông nên trong thời kỳ này mỗi một gia đình đều có quan niệm sinh đông con để có thể đủ nhân lực làm nông nghiệp, do vậy dân số trong thời kỳ này tăng khá nhanh và thường kém ổn định. Trung bình mỗi gia đình có từ năm đến sáu con, cũng có những gia đình sinh đến chín mười con, sở dĩ có tình trạng mỗi gia đình sinh đông con cũng một phần là do lúc bấy giờ người dân chưa nắm được các chính sách về dân số - kế hoạch hóa gia đình do Đảng và Nhà nước ban hành. Biết được vấn đề đó, sau khi giải phóng tổ chức Đảng, chính quyền tỉnh đã chú ý tới việc xây dựng gia đình mới, chăm lo đến đời sống nhân dân. Giai đoạn này tuy có nhiều cố gắng, nhưng do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, với bao nhiêu lo toan bộn bề sau chiến tranh... phong trào xây dựng gia đình mới nhất là cuối thời kỳ bao cấp có lúc chững lại, lắng xuống. - Giai đoạn từ năm 1986 đến nay: Thời kỳ đổi mới từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mở ra bước phát triển mới, đầy khởi sắc trên cả nước nói chung và tỉnh Bạc Liêu nói riêng. Tất cả những gì trì trệ, bảo thủ, quan liêu, nóng vội… hình thành trong thời kỳ thực hiện cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp dần dần từng bước được khắc phục. Những trói buộc trước đây đã được cơ chế, chính sách mới tháo gỡ. Phong trào xây dựng gia đình mới ở tỉnh đã có những bước phát triển mới về chất, đặc biệt là trong thời gian gần đây. Xác định gia đình là tế bào xã hội, môi trường văn hóa trong gia đình là yếu tố quan trọng hình thành tư tưởng, đạo đức lối sống của mọi thành viên trong xã hội. Vì vậy, trong những năm qua, tỉnh Bạc Liêu đã triển khai thực hiện cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa một cách đồng bộ, xuyên suốt với mục tiêu xây dựng con người văn hóa mới và những điển hình tiên tiến, xây dựng nếp sống văn hóa nhằm góp phần giảm bớt các tệ nạn xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Qua thực tế triển khai ở cơ sở đã khẳng định các chuẩn mực về xây dựng gia đình văn hóa. Cuộc vận động đã có tác động tích cực trong việc nâng cao nhận thức ở mỗi gia đình chấp hành 17 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; tạo động lực thúc đẩy kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh ngày càng phát triển. Để cuộc vận động thực sự đem lại hiệu quả, tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo các cấp và xây dựng quy chế hoạt động, nhiều Đảng bộ xã, thị trấn còn có Nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng đời sống văn hóa, 100% xã, thị trấn đều có quy ước. Nhiều chi bộ, khu dân cư đã tổ chức học tập, thực hiện cuộc vận động một cách đồng bộ. Các tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể cũng đã triển khai cuộc vận động theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Đồng thời gắn nội dung cuộc vận động với tiêu chuẩn thi đua hàng năm trong việc bình xét, phân loại đoàn viên, hội viên trong tổ chức. Do vậy, cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa những năm qua ở tỉnh Bạc Liêu đã làm chuyển biến nhận thức và thu hút được đông đảo các ban, ngành, đoàn thể tham gia. Nhiều đoàn thể có cách làm sáng tạo và đem lại hiệu quả thiết thực. Điển hình là các cuộc vận động “Ông bà cha mẹ mẫu mực, con trung hiếu, cháu thảo hiền” do Mặt trận tổ quốc tỉnh phát động; phong trào “Nói không với ma túy”, “Thanh niên lập nghiệp”, “Xây dựng nhà tình nghĩa”, “Rèn luyện phấn đấu trở thành cháu ngoan Bác Hồ” của Đoàn thanh niên; phong trào “thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “Đảm việc nước, giỏi việc nhà” của Liên đoàn lao động; phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” trong ngành giáo dục... Từ các phong trào trên đã xuất hiện nhiều gương người tốt, việc tốt chấp hành tốt chủ trương chính sáng của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, tham gia nhiệt tình với các phong trào thi đua. Trong quá trình thực hiện các nội dung của cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, nhiều tấm gương điển hình về: Xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng, có trách nhiệm nuôi dạy con cháu. Con cháu thảo hiền với ông, bà, bố mẹ, trẻ em trong độ tuổi đi học đều được đến trường, thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình, đoàn kết xóm giềng, tham gia các hoạt động tương trợ giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, khó khăn hoạn nạn, xóa đói, giảm nghèo, nhân đạo, từ thiện.... Điển hình của mô hình đoàn kết cộng đồng này là các hoạt động thường xuyên của 470 câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, đã giúp cho các hội viên có kiến thức, kỹ năng nuôi con khỏe, dạy con ngoan, xây dựng gia đình hạnh phúc. Tính đoàn kết cộng đồng còn 18 GVHD: Trần Thị Tuyết Hà SVTH: Trương Kiều Linh phải kể đến ở các thôn, làng, khu dân cư trong phong trào thi đua xây dựng làng quê giàu đẹp, văn minh. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, các gia đình trong nông thôn đã đóng góp tiền của và hàng ngàn ngày công để xây dựng hàng trăm Km đường bê tông liên xóm. Phát huy truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, các hoạt động nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa được đẩy mạnh. Sáu tháng đầu năm 2010, tỉnh đã quyên góp xây dựng được hơn 80 nhà tình nghĩa và hàng trăm triệu đồng cho quỹ vì người nghèo. Cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa ở Bạc Liêu có tác dụng tích cực trong thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ, góp phần giữ gìn kỷ cương, phép nước. Tại các khu dân cư, các gia đình văn hóa đều là những hạt nhân tích cực trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở ngay chính khu dân cư. Do đó các tệ nạn xã hội giảm, trật tự thôn xóm được giữ vững. Hầu hết các vụ tranh chấp, khiếu kiện đều được giải quyết ngay từ cơ sở nên không có khiếu kiện đông người vượt cấp xảy ra. Từ những hoạt động thiết thực và hiệu quả nên kết quả bình xét, xếp loại gia đình văn hóa hàng năm của tỉnh được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Tính đến năm 2009 tổng số khóm, ấp được công nhận đạt chuẩn văn hóa là 408/518 và tổng số gia đình đạt chuẩn văn hóa 150.849/171.023 hộ; Đến tháng 9/2010 toàn tỉnh đã công nhận 161.090/183.158 gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ 87,9% tăng 66.2% so với năm 2000. Trong đó có 43.887 gia đình văn hóa tiêu biểu (trong đó có 3.873 gia đình văn hóa được cấp khen thưởng, 11 gia đình văn hóa tiêu biểu được tham dự hội nghị gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc toàn quốc năm 2007). Hầu hết các hộ gia đình đều phấn đấu thực hiện tốt, có ý thức trong việc xây dựng gia đình văn hóa, giáo dục ý thức cho mỗi người dân là thành viên gia đình về những cái tốt, cái đẹp trong việc xây dựng gia đình văn hóa. Ban chỉ đạo các cấp đều có kế hoạch và giải pháp cụ thể, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng gia đình văn hóa; duy trì và giữ vững danh hiệu của các gia đình văn hóa được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả, hộ nào vi phạm tiêu chí theo quy chế đưa ra bình xét và rút danh hiệu theo mức độ vi phạm. [14, tr. 5] Đạt được những thành tích như đã nêu trên là nhờ Bạc Liêu xác định xây dựng đời sống văn hóa là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, tác động đến mọi mặt về kinh tế, đời sống 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất