Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tạ...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại bảo hiểm xã hội tỉnh bắc ninh.

.PDF
74
1641
57

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM KHOA HỘI HỌC VIỆTXÃ NAM KHOA HỌC VIỆNXÃ KHOA HỘI HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ MINH HOÀNG TRẦN XUÂN TRỌNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết luận nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN TRẦN XUÂN TRỌNG MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 Chƣơng 1. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮC NINH .................................................................. 6 1.1. Nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh .................................................. 6 1.2. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh ......................................... 17 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH ................................................................................ 23 2.1. Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh: những kết quả đạt được ................... 23 2.2. Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh: những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế ................................................................................... 33 Chƣơng 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH ................................................................. 43 3.1. Đổi mới nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng về công tác tổ chức cán bộ ................................................................................................ 43 3.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng về công tác tổ chức cán bộ ....................................................................................... 47 KẾT LUẬN .......................................................................................... 61 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 64 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. BHXH : Bảo hiểm xã hội 2. BHYT : Bảo hiểm y tế 3. HĐND : Hội đồng nhân dân 4. HĐLĐ : Hợp đồng lao động 5. HTCT : Hệ thống chính trị 6. UBND : Uỷ ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác tổ chức cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Nói cách khác, đây là khâu trọng yếu trong hoạt động của Đảng, đóng vai trò quyết định sự thành công của cách mạng. Công tác cán bộ được hợp thành bởi nhiều bước có tính chất liên hoàn, đan xen nhau như: đánh giá cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ. Việc chuẩn bị đường lối chính trị, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước ta không thể tách rời chiến lược cán bộ và xây dựng quy hoạch cán bộ. Đường lối cán bộ có mục đích phù hợp với đường lối chính trị và phải đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của quốc gia. Sinh thời, chủ tích Hồ Chí Minh đã từng ghi nhận: “Cán bộ là gốc của mọi công việc… Đặc biệt là trong hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh lại càng nhấn mạnh đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ đủ sức, đủ tài, vừa hồng vừa chuyên để có thể hoàn thành sự nghiệp cách mạng của Đảng. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng của nước ta. Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là nhân tố vô cùng quan trọng của bộ máy Đảng, Nhà nước, Nhân dân, “là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Tiếp thu tư tưởng đó, trong sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh tới yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt nói riêng một cách đồng bộ, toàn diện; coi đây là một trong những vấn đề mấu chốt, là điều kiện quyết định sự thành bại của cách mạng. Như vậy, công tác cán bộ có vị trí hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. 1 Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng phát triển sâu rộng, đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng, đưa Việt Nam vững bước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song thời cơ, nguy cơ, thách thức luôn đan xen nhau trong một thế giới hội nhập phức tạp. Hơn lúc nào hết, đội ngũ cán bộ chủ chốt trong các cơ quan nhà nước có vai trò quan trọng cho sự ổn định, phát triển của đất nước và cả hệ thống chính trị. Mặc dù Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách và nỗ lực xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhưng còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải nghiên cứu để có những giải pháp thực hiện có hiệu quả. Thấm nhuần tư tưởng đó, trong những năm qua, các cấp ủy Đảng thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh luôn quan tâm lãnh đạo xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ. Công tác tổ chức cán bộ của Bảo hiểm xã hội Bắc Ninh bên cạnh những ưu điểm vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Những hạn chế này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của cơ quan. Thực tiễn trên đòi hỏi các cấp ủy Đảng cần đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, chỉ đạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ để họ thực sự phát huy vai trò, năng lực, tiên phong trong việc vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn công tác, góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Nâng cao sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh” làm nội dung nghiên cứu của luận văn 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Công tác tổ chức cán bộ là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, vì thế nên trong những năm vừa qua đã có không ít các công trình nghiên cứu có liên quan đến công tác cán bộ cũng như các giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác này. 2 Các công trình được thể hiện đa dạng dưới nhiều hình thức và góc độ tiếp cận. Có thể kể đến một số công trình như: cuốn sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (của Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2002); cuốn sách “Công tác cán bộ trong quân đội, quá trình hình thành và phát triển: Biên niên sự kiện và tư liệu (1975 - 1990)” (của nhiều tác giả, Nxb Quân đội nhân dân, năm ...); cuốn sách “Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 2000)” (của Nguyễn Hữu Tri chủ biên, và Nguyễn Thị Phương Hồng, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2005); cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ” (của tác giả Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, năm 2007); cuốn sách “Xây dựng, chỉnh đốn, củng cố tổ chức Đảng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới” (của nhiều tác giả, Nxb Thanh niên, năm 2010); cuốn sách“Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước” (của nhiều tác giả, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2013); bài viết “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ góc nhìn chuỗi kết quả và chỉ số đánh giá” (của Đoàn Văn Dũng, Tạp chí lý luận chính trị, số 4 – 2014); và nhiều công trình khác. Những công trình trên đã đi sâu phân tích các quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về công tác cán bộ, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác này. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài: trên cơ sở làm sáng tỏ nội dung và phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ; thực trạng lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác cán bộ (những kết quả đạt được, 3 những hạn chế, khó khăn); luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là: - Làm rõ nội dung và phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ. - Phân tích thực trạng lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ (những kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn). - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh đối với công tác tổ chức cán bộ. Phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là Bảo hiểm xã hội ở địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp. Ngoài ra còn có một số phương pháp khác được vận dụng như: thống kê, đối chiếu, so sánh... Những phương pháp này sẽ được vận dụng phù hợp trong từng vấn đề nghiên cứu tại luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Cung cấp thêm những tư liệu về nội dung và phương thức lãnh đạo của các ấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ nói trong Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh. - Góp phần chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế trong sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh đối với công tác tổ chức cán bộ. 4 - Đề xuất được những giải pháp phù hợp và có tính ứng dụng cao nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác cán bộ 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh. Chương 2: Thực trạng lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh. Chương 3: Giải pháp nâng cao sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh. 5 Chƣơng 1 NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮC NINH 1.1. Nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh Trước khi phân tích nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh, chúng ta cần xác định nội hàm của khái niệm cán bộ và công tác tổ chức cán bộ. Cán bộ được hiểu bao gồm cả công chức, viên chức, người làm việc trong các tổ chức của hệ thống chính trị, người làm việc các doanh nghiệp nhà nước, người làm việc các đơn vị sự nghiệp công lập. Như vậy, cán bộ Việt Nam có các đặc điểm như sau. Thứ nhất, cán bộ là người được tuyển chọn thông qua chế độ bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm cán bộ. Đó là những người được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện. Riêng với cán bộ cấp xã thì chỉ được bầu cử không có chế độ phê chuẩn hay bổ nhiệm. Bởi bầu cử, phê chuẩn hay bổ nhiệm cán bộ chịu sự tác động của quy định, điều lệ đối với từng cơ quan, đơn vị, tổ chức đó. Theo đó, đảng viên có quyền ứng cử, đề cử, bầu các chức danh, chức vụ trong cơ quan lãnh đạo của Đảng như Tổng Bí thư. Theo Điều 24 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 qui định: “Việc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm chức vụ, chức danh cán bộ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước từ trung ương đến cấp huyện được thực hiện theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức 6 Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật kiểm toán nhà nước, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân”. Ví dụ: “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội do UBTV Quốc hội giới thiệu. Theo đề nghị của Chủ tịch nước, Quốc hội bầu Phó Chủ tịch nước trong số các đại biểu Quốc hội; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh” (Điều 81 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001). Thứ hai, cán bộ là người giữ các chức vụ, chức danh và hoạt động trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội. Thứ ba, cán bộ là người công tác theo nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ là thời hạn giữ chức danh, chức vụ. Thời hạn đó thường được định ra trước trong các văn bản chính thức. Ví dụ: nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước là 7 năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ (khoản 3 Điều 17 Luật kiểm toán nhà nước năm 2005). Thứ tư, cán bộ là người được sắp xếp theo biên chế và trả lương từ ngân sách của nhà nước. Theo Điều 12 Luật Cán bộ công chức năm 2008: cán bộ “Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước. Cán bộ, công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn hoặc trong các ngành, nghề có môi trường nguy hiểm, nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật. Và được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật”. 7 Công tác tổ chức cán bộ là toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của cấp có thẩm quyền nhằm phát huy cao nhất tiềm năng của cán bộ trong hệ thống chính trị và toàn xã hội, phát triển nguồn nhân lực và xâu dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ. Cấp có thẩm quyền trong công tác cán bộ ở Việt Nam là Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Với cách hiểu về cán bộ và công tác tổ chức cán bộ như trên, sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ ở Việt Nam nói chung và ở Bảo hiểm xã hội Bắc Ninh nói riêng gồm những nội dung sau Thứ nhất, Đảng phải biết cán bộ, dùng đúng cán bộ, cất nhắc đúng cán bộ, thương yêu cán bộ, phê bình đúng cán bộ. “Biết cán bộ” được hiểu là việc đánh giá đúng đắn phẩm chất và năng lực của cán bộ. Việc “biết cán bộ” có vai trò rất quan trọng. Đánh giá đúng cán bộ nhằm sử dụng cán bộ có hiệu quả cũng như là căn cứ cho công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ. Việc đánh giá cán bộ không chỉ được nhìn dưới góc độ là chỉ tập trung và phát hiện cái hay, cái tốt của họ để khuyến khích, phát huy, mà còn phải bao hàm của việc thấy được những thấy cái không hay, các còn tồn tại của họ để tìm cách giúp đỡ, khắc phục. Để làm tố việc này, Hồ Chí Minh đề cao các quan điểm và lý luận biện chứng. Trong số cán bộ, có người khi trước theo cách mạng mà nay phản cách mạng. Có người khi trước không cách mạng mà nay lại tham gia cách mạng. Vì thế, khi xem xét, đánh giá cán bộ, không nên nhìn phiến diện, mà phải nhìn toàn diện. Chủ tích Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng: Việc đánh giá cán bộ không thể chỉ căn cứ vào những biểu hiện bên ngoài của họ, mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của họ; không thể chỉ dựa vào một việc làm của họ, mà phải tìm hiểu tất cả các công việc mà 8 họ thực hiện; không thể chỉ xem xét cán bộ trong một thời điểm, mà phải thấy rõ lịch sử của họ. Có cái nhìn toàn diện như vậy, ta mới có thể đánh giá cán bộ một cách đúng đắn, khách quan [50, tr. 278]. Trên thực tế có không ít bệnh trong đánh giá cán bộ. Chẳng hạn đó là bệnh ưa người ta nịnh mình, bệnh đem một cái khuân khổ chật hẹp, nhất định mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau, v.v.. Đây đều là nhưng biểu hiện của sự không khách quan, toàn diện trong những người làm công tác cán bộ. Mình càng trong sang, “càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng” [50, tr. 278]. Biết mình là khó, song không biết mình thì không thể biết người. Đây còn được gọi là quan điểm “Tri kỉ để tri nhân” trong triết học chính trị kết hợp với căn hóa phương Đông đã được kết tinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ thời đại mới. “Dùng đúng cán bộ” là sử dụng đúng cán bộ. Việc dùng cán bộ thì phải tuân thủ nguyên tắc “tùy tài mà dùng người”, công việc giao cho cán bộ phải phù hợp với năng lực của họ. Nắm bắt được năng lực của cán bộ mà dùng người thì sẽ phát huy được tài, do đó mà công việc thành công. Việc này không những tránh lãng phí người tài, mà còn thúc đẩy họ phát huy năng lực của cán bộ và phát hiện ra được nhiều người có năng lực hơn nữa. Sử dụng cán bộ đúng năng lực, đúng sở trường thì sẽ phát huy được ưu điểm của mỗi người, hạn chế được những điểm yếu kém của họ. Yêu cầu của việc sử dụng cán bộ nhìn thì dễ nhưng trên thực tế có công việc này lại dễ bị chi phối bởi những biểu hiện tiêu cực như ưu ái người thân quen, thích người nịnh hót… Những biểu hiện này không chỉ gây hại cho công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước, mà còn gây hại cho chính những người cán bộ không đủ năng lực, tài đức, bởi khi được dung 9 túng, cái xấu trong họ sẽ càng có điều kiện phát triển và làm lu mờ, hạn chế những điểm tốt của họ. Người lãnh đạo đối với công tác cán bộ không được tự cao tự đại, mà phải nghe, phải hỏi ý kiến cấp dưới. Việc xây dựng môi trường làm việc dân chủ sẽ tạo nên động lực tích cực thúc đẩy cán bộ ngày càng có nhiều sáng kiến và hăng hái hơn trong công việc. Bên cạnh đó, người lãnh đạo đối với công tác cán bộ phải mạnh dạn trao quyền, giao việc cho cán bộ. Khi giao việc, ban đầu cần hướng dẫn họ những vấn đề cơ bản rồi sau đó rồi tạo điều kiện để họ chủ động thực hiện công việc của mình. Điều này đòi hỏi cũng cần phải có niềm tin đối với cán bộ. Việc đặt lòng tin vào cán bộ để giao việc vừa là một cách đào tạo cán bộ, vừa là cách tạo động lực hành động cho chính họ. “Cất nhắc đúng cán bộ” là bố trí cán bộ là công việc quan trọng hơn. Theo Hồ Chí Minh, khi cất nhắc cán bộ, phải vì công việc, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái; cất nhắc cán bộ phải xuất phát từ hiệu quả công tác thực tế của cán bộ, và phải có tác dụng khuyến khích các cán bộ khác vươn lên; cất nhắc cán bộ phải cho đúng; không nên cất nhắc cán bộ như “giã gạo”; trước khi cất nhắc thì phải xem xét kỹ; khi đã cất nhắc thì phải giúp đỡ; khi cán bộ mắc sai lầm thì hạ cấp, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên [50, tr. 282]. Cũng theo Hồ Chí Minh, đây là hoạt động có tác động trực tiếp đến “lòng tự tin, tự trọng” của cán bộ. Vì thế, người lãnh đạo phải biết “tôn trọng”, “vun trồng” lòng tự tin, tự trọng của cán bộ. Trong công tác cất nhắc cán bộ, thái độ đó thể hiện ở việc đánh giá đúng cán bộ, giao công việc phù hợp với phẩm chất và năng lực cán bộ, thường xuyên quan tâm, động viên, giúp đỡ và kịp thời nhắc nhở, uốn nắn sai lầm và khuyết điểm của cán bộ. Không nên đợi đến khi các sai lầm, khuyết điểm của cán bộ trở nên nặng nề thì mớ 10 mang ra xử lý một lần. Như thế là “đập” cán bộ. Cán bộ bị “đập” thì mất đi sự tự tin, từ chỗ hăng hái cũng hóa thành nản chí, từ nản chí mà trở nên vô dụng. “Yêu thương cán bộ” là tính nhân văn trong công tác cán bộ. Sử dụng cán bộ không phải là phó mặc, vỗ về. Theo Hồ Chí Minh: thương yêu cán bộ “là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm”, “giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn sinh hoạt, ngày thường thì điều kiện dễ chịu, khi đau ốm được chăm sóc, gia đình họ khỏi khốn quẫn” [50, tr. 283]. Việc thương yêu cán bộ phải luôn gắn liền với công tác của họ để khi có khuyết điểm thì giúp họ sửa chữa ngay cũng như động viên, khuyến khích kịp thời những lúc họ phát huy ưu điểm. “Phê bình đúng cán bộ” là chỉ ra sai lầm, khuyết điểm của cán bộ. Người cán bộ có thể có sai lầm và khuyết điểm. Người lãnh đạo phải là người chỉ ra cho cán bộ của mình những hạn chế, khuyết điểm và giúp họ nhìn nhận đúng đắn nhất, biết cách sửa chữa nhất. Muốn khỏi bệnh thì phải có gan nói ra bệnh của mình với bác sỹ và cố gắng chữa bệnh cho kỳ hết. Một người cán bộ chân chính cách mạng không phải là người không bao giờ có sai lầm, khuyết điểm, mà là những người có khả năng nhận thức được sai lầm, khuyết điểm của mình, tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục những sai lầm, khuyết điểm ấy. Cũng theo Hồ Chí Minh, đối với cán bộ mắc sai lầm, phải tìm cách để họ tự nhận rõ sai lầm đó, làm cho họ vui lòng tự nguyện sửa đổi ; tuyệt đối tránh thái độ qui chụp, công kích. Thứ hai, Đảng phải đánh giá đúng cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ được coi là động lực quan trọng thúc đẩy cán bộ phấn đấu vươn lên, tạo ra sự cạnh tranh trong chính các cán bộ, kích thích lòng nhiệt huyết, sáng tạo đóng góp cho sự phát triển của tổ 11 chức. Thông qua đánh giá cán bộ để các cấp lãnh đạo thấy được những chỗ còn thiếu sót trong chủ trương, đường lối, chính sách; trong công tác lãnh đạo, quản lý tổ chức, để từ đó có biện pháp điều chỉnh, hoàn thiện các công việc này ngày một tốt hơn. Khi đánh giá cán bộ thì phải: Phát hiện mặt mạnh và mặt yếu của cán bộ, có biện pháp khuyến khích, thúc đẩy mặt mạnh, khắc phục mặt yếu, hướng tới nâng cao hiệu quả công tác cán bộ; xác định đúng căn cứ để thực hiện đúng các công tác khác của công tác cán bộ (như: đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển); phải dựa trên những tiêu chí khách quan, hạn chế được những đánh giá theo ý chí chủ quan, cảm tính, phân biệt được người có thành tích nổi trội với người yếu kém, đánh đồng người làm tốt với người làm không tốt. Tiêu chuẩn cán bộ là một cơ sở khoa học để đánh giá cán bộ. Tiêu chuẩn cán bộ luôn thay đổi linh hoạt phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cách mạng trong mỗi giai đoạn phát triển. Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì các tiêu chuẩn chung cho cán bộ bao gồm: hết lòng phụng sự tổ quốc, tận tuỵ phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; kiên quyết không tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng; ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân; có trình độ về lý luận chính trị, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ sức khoẻ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao được học tập có hệ thống ở các trường của Đảng; đã trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả. 12 Ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang cần đáp ứng thêm các tiêu chuẩn sau: tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, sẵn sàng hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn bí mật quân sự, bí mật quốc gia; nắm vững và có khả năng vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; nắm được những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế, xã hội. Ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ, cán bộ khoa học, chuyên gia cần đáp ứng thêm các tiêu chuẩn sau: có tư duy độc lập, sáng tạo; có ý thức hợp tác, say mê trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ; bám sát đời sống xã hội, có khả năng tổng kết thực tiễn; có khả năng tập hợp và sáng tạo. Ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ, cán bộ quản lý kinh doanh cần đáp ứng thêm các tiêu chuẩn sau: có hiểu biết sâu sắc các quan điểm kinh tế của Đảng; có phẩm chất đạo đức, cần kiệm liêm chính, không lợi dụng chức quyền để tham ô, lãng phí, xa hoa; có kiến thức về kinh tế thị trường và quản trị doanh nghiệp, hiểu biết khoa học, công nghệ, pháp luật và thông lệ quốc tế; có khả năng tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế - xã hội. Ở các ngành, các cấp khác ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ trên đây đều có các tiêu chuẩn riêng, cụ thể, sát hợp với từng ngành, cấp. Thứ ba, Đảng phải quy hoạch đúng cán bộ. Hoạt động này diễn ra đối với lãnh đạo lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp, các lĩnh vực của hệ thống chính trị và nhằm mục đích 13 giúp họ hoàn thành có hiệu quả những nhiệm vụ đảm nhận và chuẩn bị những điều kiện tốt cho giai đoạn tiếp theo. Việc quy hoạch cán bộ là quan trọng vì đay là tiền đề để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho phù hợp, tạo cơ hội cho họ phấn đấu, rèn luyện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới của cách mạng nước ta. Để phát huy cao nhất hiệu quả của công tác quy hoạch cán bộ, Đảng phải thực sự gắn kết công tác này với tất cả các khâu khác trong công tác cán bộ như: nhận xét, đánh giá cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ. Đảng cần thực hiện quy hoạch “động” và “mở”. Quy hoạch “mở” là quy hoạch không khép kín trong từng ngành, từng địa phương, từng đơn vị, không hạn chế một số ít người được định sẵn một cách chủ quan. Trong quy hoạch, mỗi chức danh lãnh đạo cần có ít nhất từ hai đến ba cán bộ dự bị. Mỗi cán bộ có thể dự kiến đảm nhiệm từ hai đến ba chức danh. Quy hoạch “động” là quy hoạch được rà soát thường xuyên, được điều chỉnh theo sát với yêu cầu thực tế của sự phát triển cán bộ, kịp thời bổ sung những nhân tố mới vào quy hoạch. Đảng cần tạo ra “dòng chảy” trong công tác quy hoạch cán bộ; hằng năm, phải rà soát lại đội ngũ cán bộ trong quy hoạch để có sự điều chỉnh, bổ sung. Khi quy hoạch cán bộ, Đảng phải tiến hành đồng bộ từ trên xuống dưới; hướng dẫn cấp dưới quy hoạch cán bộ; lấy quy hoạch cán bộ cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cán bộ cấp trên; phải dựa trên căn cứ khoa học và thực tiễn; vừa tạo nguồn cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa tạo động lực thúc đẩy, phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu vươn lên của cán bộ; bảo đảm sự đoàn kết trong phát triển của toàn đội ngũ cán bộ; đề phòng tư tưởng cơ hội, chạy theo quy hoạch; không cứng nhắc, máy móc 14 trong xây dựng và thực hiện quy hoạch; phải thực hiện công khai công tác quy hoạch cán bộ theo đúng thẩm quyền quyết định quy hoạch. Thứ tư, Đảng phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là: trang bị hệ thống thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; hệ thống tri thức chuyên môn, kiến thức lãnh đạo, quản lý và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và quy hoạch các cấp có phẩm chất đạo đức, thái độ, hành vi ứng xử và kỷ luật nghề nghiệp, tận tụy với công vụ và sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giúp cho cán bộ, đặc biệt là các cán bộ lãnh đạo, quản lý, biết vận dụng linh hoạt phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều hành thực tiễn, có đủ năng lực lý luận, tri thức hiện đại của nhân loại. Yêu cầu về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là: phải gắn lý luận với sự vận động thực tiễn khách quan; phải nâng cao năng lực, trí tuệ cho đội ngũ đảng viên, cán bộ lãnh đạo trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn một cách khoa học; hạn chế tới mức có thể tình trạng kinh nghiệm, cảm tính; bảo đảm cập nhật kiến thức mới và kỹ năng nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn chức danh đối với từng đối tượng ở từng vị trí công tác, phù hợp tình hình mới và yêu cầu cụ thể của từng lĩnh vực, địa phương, vùng, miền; cung cấp cho người học tri thức khoa học, kỹ năng xử lý tình huống chính trị thực tiễn; bảo đảm cân đối giữa việc bổ sung kiến thức, nâng cao kỹ năng chuyên môn với giải đáp những vấn đề thực tiễn cụ thể mới đang diễn ra trong ngành, địa phương. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng cần phải: có tính thường xuyên, liên tục (bởi lẽ tri thức và các tình huống thực tiễn luôn vận động và thay đổi 15 theo thời gian); không rập khuôn nội dung đào tạo, bồi dưỡng sơ cứng và bất biến với sự vận động khách quan; gắn học với hành, gắn lý luận với thực tiễn. Để đạt được những yêu cầu cơ bản này, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, Đảng cần phải đổi mới trong từng khâu; phải thiết kế nội dung đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Thứ năm, Đảng phải điều động, luân chuyển cán bộ một cách đúng đắn. Điều động, luân chuyển cán bộ là sắp xếp cán bộ vào những vị trí công tác mới. Hoạt động này nhằm thực hiện các mục tiêu chính sau đây Thứ sáu, Đảng phải quản lý, sử dụng cán bộ một cách đúng đắn. Để quản lý, sử dụng cán bộ một cách đúng đắn, Đảng cầ phải áp dụng các nguyên tắc như sau. Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định về công tác cán bộ và thông qua các cấp uỷ, tổ chức Đảng, đảng viên trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận, đoàn thể, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp nhà nước để lãnh đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện quyết định của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ; Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị trên mọi lĩnh vực; Đảng trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ngành, các cấp; đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị; Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp uỷ và tổ chức Đảng, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp. - Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tập thể quyết định gắn với việc thực hiện trách nhiệm cá nhân trong công tác quản lý cán bộ. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan