LỜI MỞ ĐẦU
Việc huy động các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế,
hoạt động của các tổ chức tín dụng đã góp phần không nhỏ trong
việc thu hút lượng vốn lớn để cho các doanh nghiệp vay, thực
hiện tái đầu tư thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đây chính là hoạt
động truyền thống, chủ yếu của Ngân Hàng. Chính vì vậy, kết
quả huy động vốn và sử dụng vốn của tổ chức tín dụng cao hay
thấp có ảnh hưởng không chỉ đới với sựu tồn tại và phát triển của
bản thân tổ chức tín dụng mà nó còn tác động trực tiếp đến nền
kinh tế, dặc biệt là đối với một nền kinh tế vừa bước ra khỏi cơ
chế bao cấp và đang có những bước đầu khởi sắc như nước ta.
Hoà mình với công việc đổi mới chung của đất nước, cùng
góp phần vào những thành tựu đã đạt được trong thập niên qua,
ngành Ngân hàng đã phải vượt qua không ít khó khăn để phấn
đấu cho mục tiêu phát triển đất nước. Vì mục tiêu này, không ai
khác mà chính hệ thống Ngân hàng phải trở thành bàn đạp vững
chắc cho nền kinh tế. Tuy nhiên, 10 năm đổi mới chưa phải là
nhiều, Ngân hàng còn phải giải quyết nhiều những khó khăn trước
mắt mà một trong những vấn đề nổi cộm là hiệu quả công tác huy
động vốn của ngân hàng hiện nay.
Là một bộ phận cấu thành trong guồng máy của hệ thống
ngân hàng, Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn –
chi nhánh Trung Yên đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển
nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống Ngân Hàng Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam nói chung. Nâng cao
hiệu quả của hoạt động huy động vốn để củng cố sự tồn tại và
phát triển ngân hàng, đã đang và sẽ là những vấn đề được quan
tâm bởi Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn – chi
nhánh Trung Yên và hệ thống ngân hàng.
Chính vì vậy, trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn – chi nhánh Trung Yên , em đã
mạnh dạn đi sâu tìm hiểu và hoàn thành đề tài: “Nâng cao hiệu
quả huy động vốn tại Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển
Nông Thôn- chi nhánh Trung Yên”.
Kết cấu chuyên đề gồm ba phần:
Chương I
: Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân
hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng hoạt động huy động vốn tại
Ngân hàng NNo&PTNT – Trung Yên
Chương III : Giải pháp nâng cao hoạt động huy động
vốn tại Ngân hàng NNo&PTNT – Trung Yên
Hoàn thành chuyên đề này trước hết em xin chân thành cảm
ơn các cô chú, anh chị, cán bộ công nhân viên của Ngân hàng
NNo&PTNT – Trung Yên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong
quá trình thực tập. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Thầy
giáo- Tiến sỹ Nguyễn Võ Ngoạn đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn
cho em trong quá trình hoàn thành chuyên đề này. Em xin cảm ơn
các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng- Tài chính trường Đại học
Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội đã dạy dỗ và giúp đỡ em
trong những năm học vừa qua.
CHƯƠNG 1:
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
* Sự hình thành ngân hàng
Lúc đầu kinh doanh tiền tệ do nhà thờ đứng ra tổ chức vì
đây là nơi tôn nghiêm được dân chúng tin tưởng để ký gửi tài sản
và vàng bạc. Về sau, do nhận thấy việc kinh doanh này cũng có
nhiều lợi lộc nên nhiều giới nhảy vào kinh doanh tiền tệ.
Những tổ chức này được coi là tiền thân của ngân hàng.
Thời kỳ cuối thế kỷ 14 (thời kỳ phục hưng) phần lớn còn mang
tính chất gia đình, các tổ chức kinh doanh tiền tệ phát triển nhanh
và mở rộng thêm nhiều nghiệp vụ mới như chi trả bằng thương
phiếu, tổ chức thanh toán bù trừ … chủ yếu là các gia đình ở
Pháp, Ý, Anh, Đức. Ngân hàng ra đời sớm nhất ở Venise của Ý
năm 1580. Đầu thế kỷ 17 (thời kỳ cận đại) xuất hiện một số tổ
chức kinh doanh tiền tệ lớn, sở hữu tư nhân được coi là khởi điểm
của kỷ nguyên ngân hàng hiện đại như ngân hàng Amsterdam (Hà
Lan), ngân hàng Hamburg (Đức) Châu âu.
* Sự phát triển của ngân hàng
+ Đầu thế kỷ 15 của thế kỷ này, hoạt động ngân hàng còn
độc lập chưa tạo ra hệ thống chịu sự ràng buộc lẫn nhau, chức
năng hoạt động của các ngân hàng hầu như nhau bao gồm việc
nhận ký thác, chiết khấu cho vay và phát hành giấy bạc và nhận
thực hiện các dịch vụ tiền tệ.
+ Đến đầu thế kỷ 19, trong giai đoạn này, nhà nước bắt đầu
can thiệt vào hoạt động ngân hàng bằng cách ban hành các đạo
luật nhằm hạn chế bớt số các ngân hàng được phép phát hành tiền
tệ và đã hình thành hệ thống ngân hàng gồm hai loại:
=> Những ngân hàng được phép phát hành tiền gọi là ngân
hàng phát hành.
=> Những ngân hàng không được phép phát hành tiền gọi là
ngân hàng trung gian.
Đến đầu thế kỷ 20, hầu hết các nước đều thực hiện cơ chế
chỉ có 1 ngân hàng phát hành. Tuy nhiên ngân hàng phát hành vẫn
còn thuộc sở hữu tư nhân. Sau đó, cuộc khủng hoảng kinh tế
1929-1933, nhà nước mới bặt đầu quốc hữu hóa và nắm lấy ngân
hàng phát hành.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân
hàng cũng có những bước tiến rất nhanh. Trước hết đó là sự đa
dạng hoá các loại hình ngân hàng và các hoạt động ngân hàng. Từ
các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung vốn trong
ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần. Quá trình
gia tăng vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã
hình thành ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước. Các ngân hàng liên
doanh, các tập đoàn ngân hàng phát triển mạnh trong những năm
cuối thế kỷ 20. Nhiều nghiệp vụ truyền thống được giữ vững bên
cạnh các nghiệp vụ mới đang ngày càng phát triển. Quá trình phát
triển của ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày càng
chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các ngân
hàng. Vậy, Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng
tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế. Theo luật các tổ chức tín dụng nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng
các dịch vụ thanh toán". Như vậy, ngân hàng là một tổ chức trung
gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt, kinh
doanh dịch vụ tiền tệ. NHTM không trực tiếp sản xuất ra của cải
vật chất như những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất kinh
doanh nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho qúa trình sản xuất, lưu
thông và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng vốn tín
dụng, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế mở
rộng kinh doanh, góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Vai trò quan trọng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
được thể hiện qua các chức năng của nó như tạo phương tiện
thanh toán, trung gian tài chính, trung gian thanh toán.
* Tạo phương tiện thanh toán
Tiền- vàng có một chức năng quan trọng là phương tiện
thanh toán. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán
khi phát hành giấy nợ với khách hàng. Giấy nợ do ngân hàng phát
hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán
rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân
hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa
trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần
dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương
tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy. Việc
in tiền mang lại lợi nhuận lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền
quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực
phát hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ tài chính hoặc là
Ngân hàng
Trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương
mại tạo ra giấy bạc riêng của mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các
khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền
gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hóa dịch vụ theo
yêu cầu. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để
mua hàng hoá, dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay các ngân hàng
đã tạo ra phương tiện thanh toán. Toàn bộ hệ thống ngân hàng
cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được
mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho
vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để
chi trả thì tạo nên khoản thu của một khách hàng khác từ đó tạo ra
các khoản vay mới.
* Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay
ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực
hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán
thuận lợi và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng
nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm
chi, nhờ thu...cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối với
các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng
còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng
Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ
thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử
dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh
toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý sử dụng
rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần
tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng
trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới.
Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu
quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung
tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho
nền kinh tế toàn cầu.
* Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động
chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với
hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: một là các cá nhân
và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng
và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ cần bổ sung vốn; hai là
các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu tức là thu nhập
hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ
và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Trung gian tài chính đã tập hợp
những người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy giải quyết được mâu
thuẫn tín dụng trực tiếp. Trung gian tài chính đã làm tăng thu
nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng thời
giảm phí tổn tín dụng đối với nhà đầu tư, từ đó khuyến khích đầu
tư. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh
chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán
rủi ro.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Như chúng ta đã biết, NHTM là một tổ chức kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là
nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay, đầu tư, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán
và các nghiệp vụ trung gian khác nhằm thu được lợi nhuận tối đa
trên cơ sở đảm bảo khả năng thanh khoản. Có thể phân các hoạt
động của NHTM thành ba hoạt động cơ bản là:
- Hoạt động huy động vốn.
- Hoạt động sử dụng vốn (cho vay và đầu tư).
- Hoạt động trung gian thanh toán và các loại hình dịch vụ
khác.
Ba hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau
và có vai trò quan trọng trong việc quyết định đến sự thành công
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng:
1.2.1.
Khái niệm vốn huy động:
“Vốn huy động là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá
nhân mà ngân hàng đang tạm thời quản lý và sử dụng với trách
nhiệm hoàn trả. Vốn huy động còn được gọi là tài sản nợ ngân
hàng. Bộ phận nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu nhất
trong cơ cấu nguồn vốn của bất kỳ một NHTM nào.”
Chỉ có các NHTM mới được quyền huy động vốn dưới
nhiều hình thức khác nhau, mang tính đặc thù riêng vốn có của
NHTM. Đây cũng chính là điểm khác biệt giữa NHTM và các tổ
chức tín dụng phi ngân hàng.
1.2.2.
Đặc điểm của vốn huy động:
- Vốn huy động trong NHTM chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn vốn của NHTM. Các NHTM hoạt động được chủ yếu là
nhờ vào nguồn vốn này.
- Đây là nguồn vốn không ổn định vì khách hàng có thể rút
bất cứ lúc nào, do đó các NHTM cần phải duy trì một khoản dự
trữ thanh khoản để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách
hàng, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng, tránh sự
sụt giảm đột ngột về nguồn vốn của ngân hàng.
- Đây là nguồn vốn có tính cạnh tranh mạnh. Các ngân hàng
để thu hút khách hàng đến với mình không ngừng “hoàn thiện”
khung lãi suất thật hấp dẫn nên nguồn vốn này có chi phí sử dụng
vốn khá cao.
- Vì những đặc điểm trên nên các NHTM không được sử
dụng nguồn vốn này để đầu tư, chỉ được sử dụng trong các hoạt
động tín dụng và bảo lãnh.
1.2.3.
Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động
vốn:
* Đối với NHTM:
Nghiệp vụ huy động vốn là một nghiệp vụ rất quan trọng,
góp phần mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh. Không có nghiệp vụ huy động vốn xem
như không có hoạt động của NHTM, NHTM sẽ không đủ nguồn
vốn tài trợ cho mọi hoạt động của mình. Hay nói cách khác,
thông qua hoạt động huy động vốn NHTM có thể đo lường được
uy tín và sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. Từ đó,
ngân hàng có những biện pháp không ngừng hoàn thiện mọi hoạt
động của mình để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng.
Có thể nói, nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết “đầu
vào” của ngân hàng.
* Đối với khách hàng:
Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng một
kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lợi, tạo cơ
hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Nghiệp vụ
huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để
cất trữ và tích lũy nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi. Mặt khác, nghiệp
vụ huy động vốn giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ khác của ngân hàng như dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng, dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất, kinh
doanh hoặc cần tiền cho tiêu dùng. Vì vậy nghiệp vụ huy động
vốn có ý nghĩa rất lớn không chỉ với ngân hàng mà còn rất quan
trọng với khách hàng.
1.2.4.
Các nguồn vốn của ngân hàng thương mại:
1.2.4.1. Vốn chủ sở hữu:
Về mặt kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng của ngân hàng
do các chủ sở hữu đóng góp và nó còn được tạo ra trong quá trình
kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Vốn chủ sở hữu còn được
gọi là “ vốn riêng”.
Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng 1998, vốn chủ sở
hữu bao gồm phần giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ
và một số tài sản nợ khác của tổ chức tín dụng theo quy định của
ngân hàng nhà nước (NHNN).
Theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4
năm 2005, và quyết định 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 thì
vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu (vốn cấp1): Vốn điều lệ thực có (vốn đã
được cấp, vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự
phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không
chia. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định.
- Vốn chủ sở hữu bổ sung (vốn cấp 2): Đây là nguồn vốn có
tính ổn định thấp và phụ thuộc vào quy mô của nguồn vốn chủ sở
hữu cơ bản, bao gồm phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định và
của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại, trái phiếu
chuyển đổi hoặc cố phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành có
thời hạn dài.
1.2.4.2.
Vốn huy động:
NHTM huy động vốn thông qua các hoạt động: nhận tiền
gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và
vay vốn ngắn hạn của NHNN.
*a) Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng và từ NHTW:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng,
luôn tồn tại tình trạng tạm thời thừa hoặc thiếu vốn. Nếu trong tình
trạng thừa vốn, các NHTM có thể gửi vào hoặc cho các TCTD
khác vay để hưởng lãi. Ngược lại, nếu sau khi đã sử dụng hết
nguồn vốn chủ sở hữu và vốn đi vay mà vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc nhu cầu thanh toán, chi, rút
tiền của khách hàng, các NHTM có thể đi vay ở NHTW, các
NHTM và TCTD khác.
Vốn đi vay chỉ nên chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận
được trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí
rất quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động một cách bình
thường.
* b) Vốn vay của các tổ chức tín dụng khác:
Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị
trường liên ngân hàng (Interbank Market): đây là trường hợp ngân
hàng có lượng tiền gửi tại NHNN thấp không đủ đáp ứng cho nhu
cầu chi trả, khi đó dưới sự tổ chức của NHNN, ngân hàng này sẽ
được vay của một ngân hàng khác có lượng tiền gửi dư thừa tại
NHNN, vì khoản cho vay là một bộ phận của tiền gửi thanh toán
nên thời gian vay thường chỉ là một ngày (vay qua đêm). Ngoài ra
các ngân hàng có thể cho vay trực tiếp lẫn nhau không thông qua
thị trường liên ngân hàng. Phương thức này rất linh hoạt giúp các
NHTM cân đối vốn một cách kịp thời.
Nguyên tắc vay vốn từ các TCTD khác:
-
Các ngân hàng phải hoạt động hợp pháp.
-
Thực hiện việc cho vay và đi vay theo hợp
đồng tín dụng.
- Vốn vay phải được đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hoặc
bảo lãnh của NHTW.
* c) Vốn vay của NHTW:
Dù các NHTM có thận trọng đến mấy trong việc cho vay thì
cũng không thể tránh khỏi có lúc thiếu khả năng chi trả hoặc kẹt
tiền mặt tạm thời, lúc đó NHTW chính là cứu tinh của các NHTM,
là nguồn vay sau cùng.
Ở Việt Nam hiện nay, NHTW cho các NHTM vay vốn dưới
các hình thức sau:
- Tái cấp vốn.
- Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có
giá ngắn hạn khác.
- Cho vay có đảm bảo bằng thế chấp hoặc cầm cố thương
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
-
Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
Ngoài ra, NHTW còn cho NHTM vay bổ sung vốn thanh
toán bù trừ. Nhờ loại cho vay này mà hệ thống thanh toán bù trừ
được thực hiện một cách thuận lợi và trôi chảy. Trong trường hợp
đặt biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, NHTW còn
cho vay đối với các NHTM tạm thời mất khả năng chi trả có
nguy cơ gây mất an toàn cho toàn hệ thống.
*d) Nguồn vốn khác:
Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên, trong quá trình hoạt động
của các NHTM còn có thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn
khác:
- Vốn chiếm dụng: ngân hàng sử dụng các loại tiền gửi
nghĩa vụ của khách hàng trong quá trình tổ chức thanh toán
không dùng tiền mặt (như các khoản tiền khách hàng ký quỹ để
bảo chi séc, mở thư tín dụng, bảo lãnh ngân hàng…)
- Tiền đang chuyển: số vốn đã trích khỏi tài khoản của
người trả nhưng chưa chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng
do phải xử lý chứng từ thanh toán.
- Vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ, của các tổ chức
tài chính tiền tệ, các tổ chức đoàn thể - xã hội trong và ngoài
nước tài trợ cho các chương trình dự án về phát triển kinh tế, xã
hội, cải tạo môi trường… và được chuyển qua NHTM làm đại lý
ủy thác thực hiện.
- Các khoản phải trả mà chưa đến hạn trả, các khoản tiền
tạm gửi theo quyết định của tòa án… những nghiệp vụ này cũng
tạo thêm nguồn vốn cho ngân hàng.
Các nguồn vốn khác này của ngân hàng tuy không nhiều,
thời gian sử dụng lại ngắn, nhưng điều đặt biệt là đối với nguồn
vốn này, ngân hàng không những không phải tốn kém chi phí sử
dụng vốn mà đôi khi còn nhận được phí từ việc cung cấp các dịch
vụ ngân hàng, đồng thời có điều kiện mở rộng nghiệp vụ và dịch
vụ ngân hàng, làm cho hoạt động của ngân hàng càng đa dạng
hơn.
1.2.5.
Các nghiệp vụ huy động vốn của NHTM
1.2.5.1 Huy
động vốn qua tài khoản tiền gửi
1.2.5.1.1 Tiền
toán)
gửi không kỳ hạn (còn gọi là tiền gửi thanh
Với loại tiền này, khách hàng có thể gửi tiền vào và rút ra bất
cứ lúc nào có nhu cầu. Mục đích chính của người gửi tiền nhằm
đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua
ngân hàng nên còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Tài khoản này
mở cho các đối tượng khách hàng là cá nhân hoặc tổ chức có nhu
cầu thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
Để mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại NHTM, khách hàng
cần làm thủ tục sau:
- Đối với khách hàng cá nhân chỉ cần điền vào mẫu giấy đề
nghị mở tài khoản tiền gửi cá nhân, đăng ký chữ ký mẫu, xuất trình
và nộp bản sao giấy chứng minh nhân dân.
- Đối với khách hàng là tổ chức, chỉ cần điền vào mẫu giấy
đề nghị mở tài khoản tiền gửi thanh toán, đăng ký mẫu chữ ký và
con dấu của người đại diện, xuất trình và nộp bản sao các giấy tờ
chứng minh tư cách pháp nhân của tổ chức, và các giấy tờ chứng
minh tư cách đại diện hợp pháp của chủ tài khoản.
- Đối với khách hàng là đồng chủ tài khoản cần điền và nộp
giấy đề nghị mở tài khoản đồng sở hữu, các giấy tờ chứng minh tư
cách đại diện hợp pháp của người đại diện cho tổ chức tham gia tài
khoản đồng sở hữu, văn bản thỏa thuận quản lý và sử dụng tài
khoản chung của các đồng chủ tài khoản.
Theo thông lệ ở các nước phát triển, ngân hàng không trả lãi
cho khách hàng mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn vì mục đích
của khách hàng khi sử dụng tài khoản này là để thực hiện thanh
toán qua ngân hàng chứ không phải vì mục đích hưởng lãi. Hơn
nữa ngân hàng còn yêu cầu khách hàng phải duy trì một số dư tối
thiểu để được hưởng các dịch vụ của ngân hàng, nếu không có đủ
số dư này thì khách hàng phải trả phí cho ngân hàng khi sử dụng
các dịch vụ của ngân hàng.
Ở Việt Nam, do thói quen thanh toán bằng tiền mặt và dân
chúng chưa quen với việc sử dụng tài khoản để thanh toán nên để
thu hút khách hàng, ngân hàng vẫn trả lãi đối với loại tiền gửi này,
tuy nhiên với mức lãi suất rất thấp (khoảng 0,25% /tháng).
Lãi tiền gửi thanh toán được tính định kỳ hàng tháng theo
phương pháp tích số và lãi được nhập vào số dư có tài khoản tiền
gửi của khách hàng.
Để tăng nguồn tiền không kỳ hạn ngân hàng phải đa dạng
hóa và thực hiện tốt các dịch vụ trung gian, thu hút nhiều khách
hàng lớn. Với quy mô lớn, cơ cấu đa dạng, cơ chế hoán đổi thời
gian đáo hạn của các khoản tiền gửi được thực hiện tốt sẽ làm cho
mức dư tiền gửi bình quân tại ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo
điều kiện cho ngân hàng có thể sử dụng lượng tiền này để cho vay
mà không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng.
1.2.5.1.2
Tiền gửi có kỳ hạn:
Các khoản tiền gửi có kỳ hạn được đặc trưng bằng chứng chỉ
tiền gửi ghi rõ thời gian đáo hạn và số lượng. Khách hàng chỉ được
rút ra sau một thời gian nhất định theo kỳ hạn đã được thỏa thuận
khi gửi tiền. Tuy nhiên ngân hàng có thể giải quyết cho khách hàng
rút trước thời hạn khi có yêu cầu, nhưng phải chuyển từ mức lãi
suất tiền gửi có kỳ hạn sang áp dụng mức lãi suất không kỳ hạn.
Đối với loại tiền gửi có kỳ hạn, mục đích của việc gửi tiền là
lợi tức, không quan tâm tới việc tận dụng những tiện ích thanh toán
do ngân hàng cung cấp. Vì vậy để tăng tỷ lệ huy động vốn có kỳ
hạn ngân hàng có thể sử dụng các công cụ lãi suất và các chính
sách khuyến khích lợi ích vật chất khác như xổ số hoặc bốc thăm
trúng thưởng… để tạo ra sự quan tâm thu hút khách hàng, đặt biệt
với nhóm khách hàng là cá nhân.
Với đặc tính ổn định của tiền gửi có kỳ hạn, ngân hàng có thể
chủ động kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn, tìm kiếm những
khoản đầu tư có thời gian hợp lý và thu lợi nhuận cao.
1.2.5.1.3
Tiền gửi tiết kiệm:
a) Tiết kiệm không kỳ hạn:
Sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn được thiết kế dành
cho đối tượng khách hàng là cá nhân hoặc tổ chức, có tiền tạm thời
nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng vì mục tiêu an toàn và sinh lợi,
nhưng không thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương
lai. Đối với khách hàng khi lựa chọn hình thức tiền gửi này, thì
mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu sinh lợi.
Đối với ngân hàng, vì loại tiền gửi này khách hàng muốn rút bất cứ
lúc nào cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả
và không chủ động được khi lên kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp
tín dụng. Do vậy, ngân hàng thường trả lãi suất rất thấp cho loại
tiền gửi này.
Đối với loại tiền gửi này, khách hàng có thể gửi tiền và rút
tiền bất cứ lúc nào trong giờ giao dịch, mỗi lần giao dịch khách
hàng phải xuất trình sổ tiền gửi và chỉ có thể thực hiện được các
giao dịch ngân quỹ như gửi tiền hoặc rút tiền, không thể thực hiện
được các giao dịch thanh toán như trong trường hợp tiền gửi thanh
toán.Thủ tục mở sổ tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn rất đơn giản,
khách hàng đến bất kỳ chi nhánh nào của ngân hàng điền vào mẫu
giấy đề nghị gửi tiết kiệm không kỳ hạn có kèm theo giấy chứng
minh nhân dân và chữ ký mẫu. Nhân viên sẽ hoàn tất thủ tục nhận
tiền và cấp sổ tiền gửi ngay cho khách hàng.
b) Tiết kiệm định kỳ:
Tiền gửi tiết kiệm định kỳ được thiết kế dành cho khách
hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu an toàn,
sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai.
Đối tượng khách hàng chủ yếu của loại tiền gửi này lá các cá
nhân muốn có thu nhập ổn định và thường xuyên, đáp ứng cho
việc chi tiêu hàng tháng hoặc hàng quý. Đa số khách hàng thích
lựa chọn hình thức gửi tiền này là công nhân, nhân viên hưu trí.
Mục tiêu quan trọng của họ khi chọn lựa hình thức tiền gửi này là
lợi tức có được theo định kỳ. Do vậy, lãi suất đóng vai trò quan
- Xem thêm -