Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ công giáo ở kon tum hiện n...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ công giáo ở kon tum hiện nay

.PDF
92
346
134

Mô tả:

LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài. Kon Tum là một tỉnh vùng cao biên giới nằm ở cực bắc Tây Nguyên. Đây không chỉ là một vị trí quan trọng về kinh tế, quốc phòng và an ninh mà còn là một địa bàn phức tạp về tôn giáo. ở Kon Tum, bên cạnh tín ngưỡng - tôn giáo bản địa cổ truyền, còn có một số tôn giáo được ngoại nhập vào những thời điểm, hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Đạo Công giáo là một trong những tôn giáo như thế. Sự thâm nhập đạo Công giáo vào địa bàn tỉnh Kon Tum bắt đầu từ những năm giữa thế kỷ trước (1842), tồn tại và phát triển cho đến nay. Từ khi thành lập giáo phận Kon Tum đến nay đã trải qua 152 năm (1848 - 2000), trước sau vẫn là một giáo phận truyền giáo gắn bó chặt chẽ với Vatican, Tòa thánh Vatican cho rằng đây vẫn còn là một miền truyền giáo và giao cho hội truyền giáo thừa sai Paris cai quản. Giáo hội Công giáo vẫn tìm mọi cách để phát triển đạo lên vùng cao nguyên Kon Tum. Ngày nay, trong quá trình thực hiện chiến lược "Diễn biến hoà bình", các thế lực phản động đã triệt để sử dụng vấn đề tôn giáo như một phương thức, một ngòi nổ để thúc đẩy sự sụp đổ về thể chế chính trị ở các nước XHCN. Chúng cấu kết với bọn cầm đầu giáo hội ở Trung tâm Toà thánh Vatican, chỉ đạo, điều khiển các giáo sỹ cao cấp trong các nước XHCN lôi kéo quần chúng tín đồ, biến họ thành lực lượng đối trọng ngay trong lòng các nước đó, tạo nên mâu thuẫn xã hội bên trong và tách họ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Địa bàn tỉnh Kon Tum nằm trong phạm vi mà các thế lực phản động thực hiện chiến lược đó. Đạo Công giáo ở Kon Tum là một tôn giáo lớn nhất trong tỉnh, có số giáo dân chiếm hơn 70% tổng số đồng bào theo đạo trong tỉnh. Suốt hai cuộc kháng chiến, đông đảo quần chúng tín đồ Công giáo yêu nước đã đi theo cách mạng, theo Đảng và đã góp phần vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong thời kỳ xây dựng đất nước hiện nay, quần chúng tín đồ Công giáo vẫn là lực lượng có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong địa bàn dân cư. Đồng thời họ cũng đang là đối tượng mà các thế lực thù địch luôn triệt để tìm cách lợi dụng, thực hiện chiến lược "Diễn biến hoà bình" để chống phá công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Do vậy công tác vận động quần chúng tín đồ theo đạo Công giáo ở Kon Tum là một công tác vô cùng quan trọng, nó tác động sâu sắc đến quá trình phát triển phong trào cách mạng của quần chúng tại địa phương. Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị về "Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới" và thực hiện Nghị định 69/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo nói chung, quần chúng tín đồ theo đạo Công giáo ở Kon Tum nói riêng, bước đầu đã có những chuyển biến. Song vẫn còn nhiều thiếu sót, nhận thức về quan điểm, nguyên tắc và chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo trong một bộ phận cán bộ, đảng viên còn nhiều điều bất cập; đặc biệt là cách nhìn nhận và đánh giá chưa thật khách quan, nặng về nhìn nhận quá khứ chính trị của đạo Công giáo, mà không thấy được nỗi khổ cực của đại bộ phận quần chúng tín đồ theo đạo trong quá trình đấu tranh với sự du nhập của đạo Công giáo, không đánh giá và nhìn nhận đúng mức những cống hiến và hy sinh lớn lao của đại bộ phận giáo dân đối với sự nghiệp cách mạng qua suốt hai cuộc kháng chiến. Chính từ đó đã nảy sinh những cách làm, những phương pháp xử lý thiếu tế nhị (có thể nói là thô bạo), trong quá trình vận động quần chúng tín đồ, gây nên tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng tín đồ, dẫn đến cách biệt, thậm chí có những trường hợp gây thái độ đối lập trong quần chúng tín đồ; đồng thời ở một số nơi còn tồn tại khuynh hướng hữu khuynh, thiếu cương quyết và nhạy bén trong việc đấu tranh với kẻ thù lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng. Do vậy, nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum, phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của nó; xây dựng niềm tin vào sự nghiệp đổi mới, huy động được đông đảo quần chúng giáo dân vào sự nghiệp "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", qua đó thể hiện được ước nguyện sống "Tốt đời, đẹp đạo" của đông đảo quần chúng giáo dân ở Kon Tum là vấn đề bức xúc hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Đổi mới công tác đối với đạo Công giáo nói chung và đổi mới công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo nói riêng đang là một trong những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nhất là sau khi có Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị. Xung quanh vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả như: Nguyễn Văn Long, luận án tiến sỹ triết học "Vận dụng quan điểm khoa học về tôn giáo trong công tác đối với thiên chúa giáo hiện nay ở Việt Nam"(1999); Lê Văn Phụ, luận văn thạc sỹ "Công tác tư tưởng của tổ chức cơ sở Đảng đối với quần chúng theo đạo Thiên chúa" (1993). ở khu vực Thủ Đức - Thành phố Hồ Chí Minh có tác giả Lê Tăng, luận văn thạc sỹ "Giải quyết vấn đề Thiên chúa giáo ở huyện Thủ Đức - thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới" (1993). ở khu vực Miền Bắc có tác giả Hoàng Mạnh Đoàn, luận văn thạc sỹ "Công tác vận động quần chúng theo đạo Thiên chúa ở miền Bắc nước ta hiện nay" (1993). ở Kon Tum có tác giả Võ Sáu, luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị "Đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng đạo Công giáo ở tỉnh Kon Tum nhằm đảm bảo ổn định chính trị, an ninh Quốc phòng ở địa phương" (1998). Nhìn chung các công trình nghiên cứu đó đã đề cập đến công tác đối với đạo Công giáo trên nhiều góc độ, nhiều mặt; mang tính tổng quát trên phạm vi cả nước, hay từng khu vực. Riêng "Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay" vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến một cách trực diện, có hệ thống. Nghiên cứu công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum là vấn đề hết sức phức tạp, khó khăn: Tư liệu quá ít ỏi, tản mạn, thời gian tiếp cận thực tế có hạn. Hơn nữa trên thực tế chưa có một tài liệu nào của tỉnh bàn về lĩnh vực này một cách có hệ thống. Nhưng với mong muốn có thể góp được chút ít những hiểu biết còn hạn chế của mình vào công tác quan trọng này của địa phương, tôi đã chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay" để viết luận văn thạc sỹ. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn. - Mục đích: Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm rõ đặc điểm tình hình quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum, đánh giá đúng thực trạng công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum trong những năm đổi mới vừa qua, đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay. - Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau đây: Một là, làm rõ đặc điểm tình hình quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay. Hai là, phân tích thực trạng công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum từ khi đổi mới đến nay. Ba là, đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum trong thời gian tới. - Phạm vi nghiên cứu: Công tác tôn giáo bao gồm nhiều mặt..., ở những địa bàn, thời điểm và với các tôn giáo có sự khác nhau. Luận văn này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở địa bàn tỉnh Kon Tum; luận văn lấy mốc thời gian từ khi nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay (từ khi thực hiện Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị về "Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới"). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo. Đồng thời có kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan để làm rõ những vấn đề mà mục đích và nhiệm vụ của luận văn đặt ra. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn thực hiện theo các phương pháp kết hợp lôgic với lịch sử, kết hợp phân tích với tổng hợp, phương pháp so sánh, trong đó coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn... 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn. - Bước đầu phát hiện một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay. - Nêu phương hướng và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi, góp phần đổi mới công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay có hiệu quả hơn. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. - Luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học giúp cho việc thực hiện công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở tỉnh Kon Tum hiện nay có hiệu quả hơn. - Ngoài ra luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy, học tập ở trường chính trị tỉnh Kon Tum về những vấn đề có liên quan. 7. Kết cấu của luân văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2 chương 4 tiết. Chương 1 Tình hình quần chúng tín đồ Công giáo và công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum 1.1. Đạo Công giáo và đặc điểm tình hình quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum 1.1.1. Vài nét về đặc điểm tỉnh Kon Tum Đặc điểm tự nhiên - chính trị - kinh tế - xã hội Kon Tum là một tỉnh nằm ở cực bắc Tây Nguyên, với diện tích tự nhiên là 13.000 km2; phần lớn là rừng núi và cao nguyên, địa hình hiểm trở, vùng cao đất, dốc, đồi núi bị chia cắt mạnh. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam; phía nam giáp tỉnh Gia Lai; phía đông giáp tỉnh Quảng Ngãi; phía tây giáp tỉnh Ătêp, Sê Kông (Lào); phía đông bắc giáp tỉnh Ratanakili (Cămpuchia). Tỉnh Kon Tum có khoảng 650 km đường ranh giới, trong đó đường biên giới quốc gia chiếm 275 km. Nằm trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, nơi có điểm tựa của ngã ba Đông Dương, gắn chặt với các đặc trưng về địa lý, tự nhiên tạo cho tỉnh Kon Tum có tầm quan trọng chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh. Tỉnh Kon Tum có 6 huyện và một thị xã với 79 xã, phường, thị trấn; trong đó có 56 xã, phường có đạo. Số dân khoảng hơn 300.000 người. Người Kinh chiếm gần 46% dân số, phân bố chủ yếu ở trung tâm các huyện, thị; các dân tộc thiểu số bản địa và mật độ dân tộc khác di cư đến (Mường, Tày, Nùng...) chiếm 54%. Cộng đồng các dân tộc thiểu số hầu hết ở vùng ven thị xã, các huyện vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Do điều kiện địa lý tự nhiên, địa bàn cư trú nên vùng dân tộc thiểu số mang những nét riêng của miền núi và Tây Nguyên. Hoạt động kinh tế của các tộc người tỉnh Kon Tum bao gồm những hoạt động kinh tế sản xuất, kinh tế khai thác tự nhiên, nhưng nhìn trên tổng thể thì hầu hết các cư dân ở đây đều lấy kinh tế nông nghiệp làm phương thức sinh sống chính. Do đó, khi nói đến các đặc điểm của hoạt động kinh tế người ta thường bắt đầu từ hoạt động nông nghiệp. Canh tác nương rẫy: Các dân tộc ở Kon Tum đã tiến sâu vào giai đoạn nông nghiệp trồng trọt. Trong nền kinh tế truyền thống, rẫy có vị trí quan trọng hàng đầu, là nguồn sống chủ yếu của con người. Tại khoảnh rừng đã chọn, trên cơ sở xem xét độ dốc, đất đai và đã tiến hành các nghi thức tôn giáo xin phép thần linh suôn sẻ, việc đầu tiên là đốn cây, phát cỏ, khai quang mặt bằng. Khi sắp đến thời vụ gieo trồng, người ta chỉ dọn rẫy, rồi có thể dùng cây vót nhọn chọc hốc để tra hạt giống. Sau đó, rẫy được rào giậu, trông coi. Cuối cùng là đến kỳ thu hoạch với đặc điểm nổi bật là dùng đôi tay trần tuốt lấy thóc. Ngoài ra, trên rẫy còn trồng nhiều thứ khác để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống nặng tính tự cung tự cấp, nhưng cây lúa giữ vị trí chủ đạo, năng suất lao động thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn. Một bộ phận khá lớn của dân cư, gồm 9.241 hộ, 47.849 nhân khẩu còn du canh du cư, hay đã định cư chưa định canh. Canh tác ruộng nước: Tuy không phổ biến nhưng nó có mặt trong nền kinh tế của đồng bào khá lâu. Người dân thường làm ruộng theo kiểu "dao canh thủy nậu". Tại các thửa ruộng ngân nước, cả tập thể người hoặc cả đàn trâu quần đất thay vì việc cuốc hay cày bừa, rồi dùng cuốc hoặc bàn trang để san mặt ruộng. Người Xơ Đăng, Rơ Mâm tuy còn dùng kỹ thuật canh tác khá sơ khai nhưng lại biết đắp đập, khơi mương, bắt mảng lấy nước về làm ruộng. Sau mùa tuốt lúa hay xét trên bình diện chung của tỉnh, ruộng nước chỉ là một bộ phận nhỏ trong nền kinh tế cổ truyền của đồng bào các dân tộc tỉnh Kon Tum. Kinh tế hái lượm: Có tầm quan trọng đáng kể để cung cấp, bổ sung thức ăn cho người dân một cách thường xuyên. Thường ngày theo mùa, người dân có thể hái các loại rau, măng, nấm... Vào lúc giáp hạt hoặc mùa màng thất thu thì rừng còn là một nguòn lương thực cần kíp: các loại cây thân củ, rễ, quả... có thể giúp đồng bào chống đói. Hái lượm có ý nghĩa kinh tế nổi bật trong các sinh hoạt kinh tế khai thác tự nhiên nơi đây. Công việc này chủ yếu do phụ nữ và các em bé gái đảm trách. Trong khi đó, việc săn bắn hầu như thuộc riêng về nam giới. Săn bắn vừa đem lại thực phẩm, lại có tác dụng rèn luyện tinh thần thượng võ nhưng cũng vô cùng cần thiết vì lý do bảo vệ mùa màng. Cùng với hái lượm, săn bắn, trong lĩnh vực kinh tế chiếm đoạt tự nhiên thì đánh bắt cá cũng góp phần tăng thêm thực phẩm cho người dân. Chăn nuôi: Cũng là một hoạt động có tầm quan trọng đáng chú ý. Trâu bò được nuôi thả rong ngoài trời, sống ở rừng chiều tối kéo nhau về làng. Còn gà, lợn được đồng bào nuôi theo lối nửa thả rong, chúng tự lang thang kiếm ăn, nhưng vẫn được chủ cho ăn vào ban đêm. Có thể nói, về phương diện thực phẩm, việc chăn nuôi các con vật kể trên có hai mục đích: để cúng và để ăn, nhưng chỉ ăn sau khi cúng, chứ người dân không giết thịt chúng nhằm cải thiện bữa ăn. Đó là nếp truyền thống của người Tây Nguyên. Ngoài ra, ở Kon Tum còn có nghề đan lát, làm mộc, dệt vải, rèn, làm gốm... nhưng đó chỉ là các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống của bản thân từng gia đình và chưa xuất hiện - dù chỉ một làng, những người chuyên làm nghề thủ công để kiếm sống, mặc dù có nơi sản phẩm của họ có phần trở thành hàng hóa. Chợ không phải là địa điểm quan hệ giao lưu hàng hóa trong xã hội truyền thống, mà việc đó thường diễn ra tại nhà. Với họ không có sự khác biệt giữa cái đem bán và cái mình dùng. Họ không có tư duy của người sản xuất hàng hóa trong thương trường. Hơn nữa, những thứ trở thành hàng hóa được họ làm ra không nhằm mục đích hàng hóa đơn thuần, mà ở đó còn ẩn chứa cả lòng tự trọng, tình hữu hảo trong quan hệ với người mua và người sử dụng. ở Tây Nguyên nói chung, Kon Tum nói riêng, đến những năm 30 của thế kỷ 20, xã hội truyền thống vẫn còn chế độ thị tộc, bộ lạc. Quan hệ xã hội bó hẹp trong phạm vi buôn, làng. Đứng đầu buôn làng là các thủ lĩnh dân tộc, có năng lực giao tiếp xã hội, có tri thức và có tiềm năng kinh tế. Hôn nhân và gia đình tùy theo dân tộc mà tổ chức gia đình có khác nhau hoặc theo mẫu hệ (Gia Rai); hoặc theo song hệ (Xơ Đăng, Giẻ Triêng); hoặc theo phụ hệ (Ba Na). Do trình độ phát triển kinh tế, xã hội còn thấp nên vai trò của người có địa vị, có uy tín trong xã hội truyền thống rất quan trọng, như thủ lĩnh dân tộc, vua lửa (hỏa xá), vua nước (thủy xá), thầy cúng, trí thức dân tộc... Vua lửa, vua nước, thầy cúng không có quyền lực trong bộ máy cai trị, nhưng họ nắm dân thông qua thần quyền, tục quyền. Đây cũng là đặc điểm quan trọng mà các giáo Công giáo Pháp, Mỹ rất chú ý lợi dụng, tranh thủ để nắm dân, để tuyên truyền, phát triển đạo. Trong vùng dân tộc thiểu số còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán lạc hậu... Do đời sống kinh tế khó khăn, phương tiện sản xuất thô sơ, sản xuất phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, do trình độ dân trí thấp, nên quần chúng rất tin vào Giàng (Thần). Họ luôn luôn trông chờ vào sự giúp đỡ, che chở của Giàng hay những lực lượng siêu nhiên khác. Cũng chính vì vậy, họ chỉ quan tâm những vấn đề thiết thực đối với cuộc sống hàng ngày của họ, mang lại lợi ích cụ thể, trước mắt họ. Họ chỉ tin, nghe theo những gì họ có thể nhìn thấy, sờ thấy. Mặt khác, do sống xen kẽ với người Kinh, một dân tộc có đời sống và dân trí cao hơn, thì đồng bào dân tộc thiểu số lại luôn có tư tưởng mặc cảm, tâm lý tự ti. Và nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số ở đây sống chân thật, chất phác đơn giản và dễ hiểu. Đối với người dân tộc thiểu số, tệ ăn cắp, lấy vợ lấy chồng cùng dòng họ sẽ bị già làng phạt nặng, như phạt trâu, bò, heo, gà, rượu, chiêng... Trong dân tộc Xơ Đăng, Ba Na và Gia Rai mỗi làng đều xây dựng một nhà rông, biểu hiện sự mạnh mẽ, vững chắc, dùng cho thanh niên sinh hoạt và nghỉ ngơi, hay là nơi tụ tập để già làng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong làng. Đặc điểm về dân tộc Theo dấu tích di chỉ khảo cổ học, những yếu tố văn hóa cổ xưa còn lại trong lòng đất và đời sống của cư dân, các nhà khoa học đều xác định rằng ở Tây Nguyên từ ngàn xưa đã có người nguyên thủy sinh sống. Lớp cư dân bản địa đầu tiên giả định là giống người tóc quăn, vóc dáng lùn, da đen thuộc chủng tộc Ôxtraoit, đến nay chỉ còn lại những vết tích nhân chủng ở cộng đồng dân tộc thiểu số bản địa hiện đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Kon Tum, gồm: Xơ Đăng, Ba Na, Giẻ Triêng, Gia Rai, Brâu, Rơ Mâm... Dân tộc Xơ Đăng có các nhóm địa phương gồm: Xơ teng (H'đang), Tơdră, Rơ Mâm, Hà lăng, Cà dong, Châu, Ta trẻ; dân số trên 67.369 người (chiếm 25,2% dân số toàn tỉnh), có mặt hầu hết khắp các huyện, thị trong tỉnh. Dân tộc Ba Na có các nhóm khác nhau như: Gơlar, Tôlô, Giơlãng, Rơngao, Kram, Roh, Con kđê, Klacông, Kpăngcông, Bơnâm; dân số trên 30.863 người (chiếm 11,5% dân số trong tỉnh), sống tập trung chủ yếu ở thị xã Kon Tum và huyện Konplong. Dân tộc Giẻ Triêng cũng có nhiều nhóm địa phương như: Đgích, Tareh, Giang grẩy, Triêng, Tren, Tarieng, Ve, Lave, Catang cư trú chủ yếu ở huyện Đăkglei và phía bắc huyện Ngọc Hồi (cũng có một bộ phận nhỏ sống ở Lào), dân số hiện nay có khoảng 22.713 người (chiếm 8,5% dân số trong tỉnh). Dân tộc Gia Rai với nhiều nhóm địa phương như: Gơ rai, Tơ bua, Chơ rai, Hơ ban, H'đrung, Chor, A rap... cư trú chủ yếu ở huyện Sa Thầy và thị xã Kon Tum; dân số trên 13.895 người (chiếm 5,2% dân số toàn tỉnh). Dân tộc Brâu, Rơ Mâm là hai dân tộc có dân số ít, Brâu: 240 người, Rơ Mâm: 277 người. Hiện nay người Rơ Mâm định cư ở làng Le xã Mô Rây huyện Sa Thầy; người Brâu định cư ở làng Đăk Mề, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi. Đây là hai dân tộc đang có nguy cơ tuyệt chủng, cần đến sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng xã hội. Dân tộc Kinh là thành phần dân cư lên cư trú tại Kon Tum vào khoảng giữa thế kỷ 19, lập nên các làng: Phương Nghĩa (1882), Phương Qúy (1887), Phương Hòa (1892), Trung Lương (1914), Phụng Sơn (1924), Ngô Thạnh (1925), Ngô Trang (1925), Phước Cần (1927), Lương Khế (1927)... Đến nay, theo thống kê, người Kinh chiếm gần 46% dân số so với các dân tộc khác trong tỉnh. Họ cư trú hầu hết ở thị xã, thị trấn, ven các trục đường giao thông, các khu vực nông trường, kinh tế mới. Nhìn chung các dân tộc ở Kon Tum có mối quan hệ đoàn kết gắn bó, có tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng, có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước trước đây và cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhiều làng, xã là căn cứ cách mạng từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và chốn Mỹ. Kon Tum cũng là nơi có nhiều cán bộ, trí thức, anh hùng rất nổi tiếng là người dân tộc thiểu số. Đặc điểm về tín ngưỡng - tôn giáo Đối với người dân ở Kon Tum, tuy đời sống vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, nhưng đời sống tinh thần phong phú, đa dạng, luôn làm cho con người sống tràn ngập trong bầu không khí lễ hội như để tiếp thêm sức mạnh, giúp họ tự tin, vững vàng hơn trong cuộc sống. Tất cả dân tộc đều thống nhất một điểm bao trùm và chi phối quan trọng trong nhiều hoạt động của cá nhân cũng như cộng đồng, đó là tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Hiểu theo đó, thế giới có nhiều siêu nhiên ẩn tàng vô hình trong các khách thể vật chất ở khắp nơi xung quanh con người và cả trong bản thân của mỗi người. Xuất phát từ những tín niệm đó, các thần linh lại chi phối một cách sâu sắc, huyền bí đối với cuộc sống của họ. Những lễ thức tôn giáo gắn liền với hầu hết các lĩnh vực hoạt động nhằm ngăn ngừa tai họa, rủi ro, cầu xin sự tốt lành may mắn. Điểm chung nhất của người dân là trong cúng bái bao giờ cũng có việc hiến sinh, dân đồ ăn thức uống tế thần và lời khấn cầu mong sự tốt đẹp cho cuộc sống trần thế, nhờ trời phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, sinh sôi. Xã hội thần thánh của người Tây Nguyên rất phong phú, đa dạng. Theo tác giả Đỗ Hữu Nghiêm thì có hai loại: Thượng đẳng thần và Hạ đẳng thần (1). Trong linh giới, ngoài các thần còn có ma quỷ, trong các loài ma quỷ thì người ta sợ nhất là Ma Lai. Mai Lai được hình dung giống người quỷ sống chung lẫn với người, đêm đêm lần mò đi tìm ăn xác chết, hút máu, hút ruột người. Xưa kia Ma Lai cũng là người nhưng ăn phải thịt người nên trở thành ma. Người ta xa lánh những người bị tình nghi là Ma Lai. Khi phát hiện ai là Ma Lai người ta sẽ giết luôn người đó hoặc cả gia đình họ để trừ tuyệt căn. Người dân ở đây có nhiều kiêng cữ, họ tin rằng trong mối liên hệ bí ẩn với các thần linh, một thành viên dân làng có thể ảnh hưởng tới cả cộng đồng. Theo cách quan niệm của họ, ai đó vi phạm tập tục sẽ khiến thần linh nổi giận trừng phạt buôn làng. Muốn khỏi những tai họa đó, người dân thường tổ chức các hình thức cầu đảo khi thấy tình thế "có vấn đề". Họ rất coi trọng điềm báo thể hiện qua giấc mơ, tiếng thú, hướng bay của chim hoặc một số hình thức nào đó. ở người dân tộc, khái niệm Giàng được dùng phổ biến để chỉ đa số các siêu nhiên mà trong tiếng Kinh thường gọi là Thần. Có loại thần thiện phù hộ, đem lại lợi ích cho con người, có loại thần ác luôn gây tai họa. Người dân tộc đều tin có tinh linh trong mỗi người đang sống, giống như "hồn", "vía" ở người Kinh. Khi chết đi, hồn biến hóa khác nhau theo tín ngưỡng của từng dân tộc. Người Brâu cho rằng "hồn" ở đỉnh đầu, sau khi người chết thì hóa ra may gây tai họa cho người sống. Người Giẻ Triêng gọi hồn là phol, cho rằng phol ẩn náu trong lỗ tai, sau khi người chết đi thì phol biến thành chim teh hay chim king cang bay về với tổ tiên ở vùng Giằng bên Quảng Nam. Người Ba Na (1) Thượng đẳng thần gồm: Bok Kơi Doi: Nam tạo hóa, Vua của vạn vận; La Kon Keh: Nữ tạo hóa, vợ của Nam tạo hóa; Bok Glaik: Thần sấm sét; Lá Pom: Là một nữ thần con của Thần Tạo hóa; Yang Sơri: Thần Lúa; Yang Dak: Thần nước; Yang Kong: Thần núi. Hạ đẳng thần gồm: Kok Kla: Thần Cọp; Rơix: Thần Voi; Két Drơik: Thần Cóc bảo vệ mùa màng; Yang Xatok: Thần Ché; Yang Long: Thần Cây... tin mỗi người có 3 hồn, hồn chính ở xoáy đầu, còn hai hồn phụ ở trán và thân thể; hồn người chết hóa ra ma (atâu) và qua 8 lần biến hóa, bắt đầu từ thành hổ, thành mèo rừng, thành chồn, cheo, chuột, chuột không đuôi, sương mù và tan vào thiên nhiên. Thế giới người chết được người dân mường tượng mô phỏng cuộc sống của chính họ, nhưng có sự trái ngược, đối lập nhất định giữa đàng người và đàng ma, nếu bên này là đêm thì bên kia là ngày. Vì vậy, cả cộng đồng phải thực hiện những lễ thức tôn giáo và kiêng cữ nhất định, với sự ảo vọng nhận được sự bình yên, tránh được rủi ro, hiểm họa. Đó là dịp để cúng quải, hiến tế của tập thể, định kỳ và không định kỳ do buôn làng tổ chức. Trước các thần, dù để tạ ơn hay tạ lỗi, dù hứa hẹn hay xin điều gì, khi ấy lời cầu khấn phát ra với tư cách cộng đồng và cả cộng đồng đang trông chờ chung sự linh nghiệm ở những gì sẽ đến trong cuộc sống của buôn làng mình. Việc cúng bái theo truyền thống đến nay vẫn là gánh nặng đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vốn đời sống đã hết sức khó khăn, thiếu thốn; nhưng nó cũng không giải quyết được vấn đề họ mong muốn. Cùng với những tác động của thời đại, khi giao lưu được mở rộng, trình độ dân trí được nâng lên, các tín ngưỡng tôn giáo cổ truyền bắt đầu lung lay, mất dần sự thuyết phục, và tất nhiên nó phải nhường chỗ cho những tín ngưỡng tôn giáo hợp thời hơn. Tín ngưỡng cổ truyền hình thành và duy trì trong cộng đồng các dân tộc thiểu số một cách giải thích về thế giới bên ngoài, đồng thời là một chỗ dựa về tinh thần trong cuộc sống có nhiều bất trắc và trở lực từ thiên nhiên và con người. Thông qua các lễ hội tôn giáo cổ truyền mà liên kết cộng đồng, gắn bó cá nhân với gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó, các lễ nghi như tục chia của cho người chết, lễ tạ thần linh giúp cho mùa màng bội thu... xét về mặt đạo đức, nó giáo dục cho các thành viên trong cộng đồng ý thức về quan hệ tương thân tương ái, ăn quả nhớ người trồng cây... Giữa thế kỷ 19, Công giáo được truyền lên Tây Nguyên, trong đó có Kon Tum. Tuy nhiên, Công giáo đã gặp những trở lực và xung đột từ phía tín ngưỡng cổ truyền, vì nó cấm việc thờ cúng Giàng, cúng ma; bắt phải bỏ thờ đa thần, chỉ được thờ một mình Chúa Giêsu. Tuy nhiên trải qua năm tháng, Công giáo đã đứng vững, ăn sâu, bám rễ chắc chắn ở Tây Nguyên và Kon Tum. Một bộ phận khá đông đồng bào dân tộc thiểu số đã từ bỏ thờ cúng đa thần chuyển sang Công giáo, thờ cúng một thần. Cho đến nay, Kon Tum có 94.075 tín đồ Công giáo, trong đó 73.566 tín đồ Công giáo là đồng bào dân tộc thiểu số, 2 Giám mục, 19 Linh mục, 88 nữ tu, 519 giáo phu, câu biện. Đạo Tin Lành truyền lên Kon Tum năm 1960. Đến nay có 9.430 tín đồ, chủ yếu là đồng bào dân tộc, chức sắc tự phong có 72 người, 24 hội thánh, 25 ban chấp sự. Đạo Phật đến Kon Tum vào những năm 1930 cùng với sự có mặt của đạo Công giáo, hiện nay có 19.301 tín đồ, gồm 20 Đại đức, 11 Sadi, 17 chùa. Ngoài ra, còn có đạo Cao Đài, với số tín đồ ít (557 tín đồ), trình độ chức sắc có hạn, phần lớn tín đồ là nông dân nghèo, nên hoạt động có mức độ. Cơ sở thờ tự 1, ban cai quản họ đạo 1 ban 4 người, ban đại diện 1 ban 2 người. Có thể thấy rằng, tín ngưỡng tôn giáo ở Kon Tum khá phức tạp, có sự xen lẫn tín ngưỡng cổ truyền với tôn giáo ngoại nhập, có tôn giáo được hoạt động công khai, có đủ tư cách pháp nhân; có tôn giáo bị cấm hoạt động, chưa được công nhận tư cách pháp nhân... Nhưng điểm chung của các tôn giáo này là đang tìm mọi cách để phục hồi, phát triển, thu hút tín đồ, đào tạo chức sắc, xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự... Thực tế cho thấy những tôn giáo phát triển được ở Kon Tum đều phải tự hạn chế tính chất cực đoan của nó và phải hòa đồng, phải chấp nhận chung sống (ở một mức độ nào đó) với tín ngưỡng cổ truyền của cư dân bản địa. 1.1.2. Quá trình đạo Công giáo thâm nhập, phát triển trên địa bàn tỉnh Kon Tum - Trước ngày 30/4/1975 Vào giữa thế kỷ XIX đời vua Thiệu Trị, triều đình nhà Nguyễn đã ra những sắc chỉ gắt gao cấm đạo Thiên Chúa hoạt động và tổ chức đàn áp, bắt bớ dữ dội ở những vùng duyên hải Trung Bộ, nhưng những nhà truyền Giáo hội Thừa sai Paris đã nhìn thấy "ở địa phận đàng trong có một miền truyền giáo mới, nơi các dân tộc thượng lưu trú, vùng rừng núi ở giữa sông Mê Kông và biển Đông". Sự nghiệp truyền giáo lên vùng cao nguyên Trường Sơn được bắt đầu và Kon Tum trở thành miền đất thánh đầu tiên trên cao nguyên. Có thể khái quát lịch sử quá trình xâm nhập, phát triển của đạo Công giáo ở Kon Tum qua các mốc lịch sử và thời kỳ sau: Thời kỳ truyền giáo và gây cơ sở đầu tiên (1842 - 1870): Năm 1842, Giám mục Stephan Cuénot, đại diện tổng tòa, quản nhiệm địa phận Đàng Trong ở Quy Nhơn - tỉnh Bình Định, đã cử hai linh mục người Pháp tìm đường lên vùng thượng Tây Nguyên truyền giáo nhưng việc chưa thành thì đã bị nhóm lái buôn người Việt bắt nộp cho triều đình Huế, sau đó vài ba chuyến xâm nhập khác lên Tây Nguyên cũng bất thành. Sau nhiều lần thất bại, Cuénot đã nhận ra rằng trong giai đoạn mà nhà Nguyễn đang truy bắt những người theo đạo Kitô, thì một Thừa sai người Âu tìm đường xâm nhập lên vùng cao nguyên là liều lĩnh và khó thành công. Vì vậy cần phải có một người Việt nào đó đi thám thính trước, xem xét các nơi thường có các thương gia qua lại và thu thập các tin tức về các bộ lạc người thượng, ngoài tầm lui tới của các thương nhân người Kinh, chính ở đó mới có thể thiết lập được cơ sở truyền giáo đầu tiên. Với những ý đồ đó, năm 1848, Giám mục Cuénot đã tìm được một tu sĩ là Nguyễn Do người Hoài Ân - tỉnh Bình Định (thường gọi là thấy Sáu Do) và giao nhiệm vụ lên Tây Nguyên tìm đường truyền giáo. Nguyễn Do với một vài lái buôn người Kinh đã tìm được một con đường độc đạo, bí mật lên vùng cao nguyên và nghiên cứu được phong tục tập quán, ngôn ngữ của người thượng, ở Kon Tum đã đáp ứng được ý đồ của linh mục Pháp ở Đàng Trong chỉ đạo. Năm 1850 đã đánh dấu những bước chân đầu tiên của các nhà truyền giáo Pháp trên đất Tây Nguyên. Đó là hai linh mục Combé và Fontaine. Với sự dẫn dắt của Nguyễn Do, các cha cố dòng Thừa sai Paris đã trụ lại được gần một làng dân tộc người Ba Na, nơi đây là một thung lũng rộng mênh mông có một con sống lớn chạy qua, với nhiều hồ lớn nhỏ và được gọi theo tiếng dân tộc là Kon Tum. Để thực hiện được ý đồ đen tối, mặc dù sống trong một môi trường hết sức khó khăn, phức tạp, họ vừa đấu tranh với đói rét, bệnh tật, vừa tìm mọi cách để tạo thiện cảm với dân chúng tại chỗ, các nhà truyền giáo Pháp đã bằng các thủ đoạn gian ngoan, khôn khéo của mình, từng bước đẩy lùi tín ngưỡng cổ truyền đa thần, để xây dựng miền Kitô giáo trong từng người, từng bộ phận dân tộc. Ngày 01/01/852 một đứa trẻ người dân tộc thiểu số Kon Tum đầu tiên được làm phép rửa tội một cách vội vã, không chính thức trong lúc hấp hối và ngày 16/10/1953 hai cậu bé Ngui và Pat (dân tộc Xơ Đăng) đã lãnh nhận phép rửa tội do Linh mục thừa sai Dou Risboure (Cố Ân) thực hiện. Đây là hai tín đồ Thiên Chúa giáo đầu tiên trên đất Tây Nguyên chính thức được rửa tội, đánh dấu sự thành công bước đầu của các nhà truyền giáo thừa sai Pháp. Tuy nhiên việc truyền giáo của các vị thừa sai gặp rất nhiều trở lực. Vì tôn giáo mới đã xung đột với tín ngưỡng cổ truyền, như Công giáo cấm thờ cúng trời, cúng ma, gỡ bỏ đầu trâu, máng nước, bỏ tín ngưỡng đa thần, mà chỉ tôn thờ đức Chúa Giêsu. Từ những việc mâu thuẫn trên đã gây sự đối đầu giữa các cư dân bản địa và các vị truyền giáo, dẫn đến việc giáo sĩ Combé bị giết tại làng Kon Kơ Xâm đông nam thị xã Kon Tum khoảng 15 km và các cuộc tấn công bằng vũ lực của người Xơ Đăng chống lại các nhà truyền giáo đã lan rộng. Cùng thời gian này trong vùng có dịch đậu mùa gây nhiều cản trở nên công việc truyền giáo tạm chững lại. Trước tình hình đó buộc chính quyền Pháp phải khẩn trương thay đổi phương pháp truyền giáo ở đây, và nó được thể hiện rõ: Trong những năm 60 (thế kỷ XIX), sau khi Hiệp ước Nhâm Tuất (1882) được ký giữa Pháp và triều đình nhà Nguyễn, về việc bãi bỏ các sắc chỉ cấm đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, các nhà truyền giáo thuộc Hội Thừa sai Paris được sự trợ giúp của "Chính quốc" đã đẩy mạnh công cuộc truyền bá đức tin. Vượt qua những khoảng cách về ngôn ngữ, về thói quen tâm lý và dân tộc, những cản trở từ các tộc người bản địa, các nhà truyền giáo đã phát triển được khoảng 800 giáo dân là người dân tộc thiểu số, và Giáo hội Pháp đã công nhận sự thành công bước đầu trong việc truyền giáo ở vùng dân tộc thiểu số Kon Tum của Hội Thừa sai Paris. Thời kỳ phát triển đạo và hình thành địa phận Kon Tum (1870 - 1932): Sau khi Pháp xâm lược nước ta, với những tài liệu ban đầu về một miền đất cao nguyên hoang sơ của các cha cố thừa sai. Thực dân Pháp đã đặc biệt chú ý đến vùng chiến lược này, chúng tích cực bảo trợ và biến nó thành chỗ dựa cho hoạt động truyền giáo, giao cho các linh mục nhiệm vụ quản lý hành chính để họ trở thành những "cha đạo - thực dân" đầy quyền lực và giàu có trên Tây Nguyên. Đây là giai đoạn quan trọng trong quá trình truyền đạo đến Kon Tum, không những đã ổn định được các cơ sở truyền bá đức tin mà còn có cơ hội để các vị thừa sai đúc rút ra những kinh nghiệm, thủ đoạn truyền giáo, đồng thời là giai đoạn khai phá, phát triển đồn điền tạo cơ sở vật chất cho Giáo hội. Đến năm 1929 vùng truyền giáo Kon Tum đã hình thành được hệ thống đạo ở vùng đông dân, dọc các trục lộ giao thông, đồn bót địch đóng khắp ba tỉnh Kon Tum, Pleiku, Đăklăk và có khoảng 17.700 tín đồ và một số lượng dự tòng, mà trung tâm điểm là Kon Tum. Có 23 cơ sở, 146 họ đạo thượng, 23 linh mục và một trường nội trú đào tạo giảng viên giáo lý cho người dân tộc, mang tên trường Giáo phu Cuénot (số liệu trên của cả ba tỉnh). Có thể các nhà truyền giáo đã thành công trong công cuộc truyền đạo bằng biện pháp "vết dầu loang", như trong báo cáo của đạo Công giáo Kon Tum gửi về Hội Thừa sai Paris viết: "Tinh thần dân chúng thuận lợi, và một cuộc tiến lên với tài lực và nhân lực đầy đủ, đã đem lại kết quả mỹ mãn. Hãy cầu xin chủ nhân mùa thu hoạch gởi công nhân đến vườn nho cao nguyên của người". Thời kỳ thành lập địa phận và phát triển đạo: Trước sự phát triển nhanh chóng của cộng đồng Kitô giáo trong người dân tộc miền cao nguyên, và công nhận sự thành công trong công cuộc truyền giáo, ngày 18/01/1932, Tòa thánh Vatican đã có sắc chỉ thành lập Giáo phận Kon Tum (tách khỏi địa phận Quy Nhơn), bao gồm các miền: Kon Tum, Pleiku (Gia Lai), Đăklăk và Atapư (Lào), do Giám mục Martial, người Pháp cai quản. Thời kỳ này nhiều trường đào tạo, tổ chức tôn giáo được thành lập như: Trường Tiểu chủng viện, trường dòng, bệnh viện, cô nhi viện, các dòng tu v.v... Năm 1942, Tòa thánh tiến hành tách vùng Atapư (Lào) ra khỏi giáo phận Kon Tum, do vùng này thuộc nước Lào và điều kiện truyền giáo gặp khó khăn. Hiệp định Gieneve được ký kết (7/1954), sau đó Giáo phận Kon Tum tiếp nhận một số lớn giáo dân di cư từ miền Bắc vào và có cả 20 linh mục cùng đi theo, và hàng vạn tín đồ từ các tỉnh phía Bắc, duyên hải miền Trung lên "xây dựng" dinh điền ở các vùng biên giới theo chủ trương di dân của chính quyền Ngô Đình Diệm. Năm 1960 địa phận Kon Tum được Tòa thánh Vatican nâng lên thành địa phận chánh tòa, và trở thành giáo phận mẹ. Năm 1967 Tòa thánh quyết định tách miền Đăklăk ra khỏi giáo phận Kon Tum chỉ còn hai miền Kon Tum và Gia Lai. Cho đến đầu năm 1975, Giáo phận Kon Tum vẫn được đánh giá là vùng truyền giáo đang phát triển và có nhiều hoạt động sầm uất. Tại thời điểm này toàn tỉnh Kon Tum có: 68.443 tín đồ (trong đó 46.257 tín đồ là người dân tộc thiểu số), 26 cơ sở, 195 làng đạo, 01 giám mục, 17 linh mục (trong đó có 09 linh mục là người Pháp), 300 giáo phu, 10 trường học và 32 lớp học ở làng, 01 trường tiểu chủng viện với 255 tiểu chủng sinh, 01 trường đào tạo giáo phu với gần 200 học viên, 04 trường phổ thông do Giáo hội quản lý, 07 cơ sở nuôi dạy trẻ, 01 trường dạy nghề, 06 dòng nữ tu... - Từ năm 1975 cho đến nay Ngày 17/03/1975 tỉnh Kon Tum được hoàn toàn giải phóng. Đây cũng chính là cái mốc đánh dấu sự thay đổi lớn trong hệ thống Giáo hội Công giáo ở Kon Tum, chính quyền quân quản địa phương đã có những quyết sách đúng đắn đối với các hoạt động chống đối của đạo Công giáo và một số linh mục có hoạt động chống phá cách mạng, như việc ta bắt linh mục Lê, linh mục Hoàng và trục xuất 13 giáo sĩ người nước ngoài (ngày 12/8/1975), chấm dứt 135 năm có mặt của giáo sĩ người nước ngoài tại Kon Tum và giải tán các hội đoàn, đóng cửa các trường đào tạo, đồng thời tiến hành cải tạo Giáo hội, tiếp nhận nhiều cơ sở vật chất của Công giáo, phục vụ cho các yêu cầu công ích của địa phương. Bị mất chỗ dựa về chính trị và cả về quyền lợi vật chất, trong khi đó giáo dân lại bị xáo trộn lớn, không những phân tán và giảm về số lượng, mà còn suy sụp về niềm tin Kitô giáo là một thất bại lớn của đạo Công giáo ở Kon Tum. Sau thời kỳ khủng hoảng, hoạt động tôn giáo của giáo phận Kon Tum dần dần đi vào xu hướng chấp nhận và thích nghi với sự quản lý của chính quyền cách mạng. Một thời gian rất dài trước thế chiến thắng áp đảo của cách mạng và đối sách của ta đối với Công giáo trong thời gian đó, trên địa bàn Kon Tum, Công giáo không phát triển, thậm chí nhiều vùng trước đây, với số lượng đông giáo dân là đồng bào dân tộc thiểu số nay đã bỏ và "khô, nhạt" đạo, như huyện Đăk Tô, Ngọc Hồi, Kon Plong... Đất nước bước vào thời kỳ cách mạng mới, thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Giáo hội Kon Tum đã có những chuyển biến đáng khích lệ. Nhiều giáo sĩ, chức sắc Công giáo tham gia vào các hoạt động phong trào hành động cách mạng của địa phương, tích cực vận động quần chúng giáo dân xây dựng cuộc sống mới, xây dựng chính quyền cơ sở, thực hiện sống "tốt đời, đẹp đạo". Bên cạnh đó, hoạt động của Giáo hội Kon Tum dưới sự lãnh đạo của Vatican đã và đang có những nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động đáng quan tâm. Hướng chiến lược của Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay do Vatican chỉ đạo là không nên manh động, đối đầu với nhà nước mà phải tập trung vào các hoạt động để phát triển thế lực của Giáo hội, làm cho Giáo hội có đủ lực lượng để làm đối trọng với Nhà nước ta. Như vậy, ý đồ của Vatican là củng cố thế và lực cho Giáo hội Công giáo Việt Nam đủ mạnh để có thể sử dụng Giáo hội như một công cụ, phương tiện chống phá ta lâu dài; dùng Giáo hội Công giáo Việt Nam để làm xói mòn cơ sở quần chúng và các cơ sở của ta trong các vùng giáo, biến các địa phận Công giáo thành lãnh địa riêng (1). Cùng với Vatican, các thế lực phản động quốc tế đứng đầu là Mỹ coi việc lợi dụng Giáo hội Công giáo nước ta như một công cụ để thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" ở Việt Nam. Theo Giáo sư, tiến sĩ Chu Nguyên Chương, Việt kiều ở Mỹ: "Giáo hoàng John Paul II sẵn sàng cho Mỹ mượn đạo quân thứ 5 hiện đang nằm vùng ngay trong nước Việt Nam. Đạo quân gồm 5 triệu người Kitô giáo có tổ chức chặt chẽ, hết sức cuồng tín và sẵn sàng nhận lệnh của Vatican bất cứ lúc nào" (2). Biểu hiện rõ nét ở Kon Tum, hoạt động của Giáo hội là tăng cường, củng cố cơ sở vật chất thật vững, dùng nhiều biện pháp hấp dẫn, tâm lý phù hợp với lứa tuổi nhằm phát triển tín đồ, gây thanh thế Giáo hội. ở tất cả các xứ, Giáo hội dùng giáo quyền đưa tín đồ vào hội đoàn, củng cố hội đoàn cũ, hình thành các hội đoàn mới, tăng cường các hình thức hoạt động nhằm hợp thức các tổ chức mà Chính quyền không cho phép. Các (1) Nguyễn Văn Luyện, tìm hiểu mặt chính trị của vấn đề Thiên Chúa giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chuyên ngành CNXHKH, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, tr. 61 (2) Chu Nguyên Chương, ý nghĩa của một bài học lịch sử (tài liệu tham khảo). Linh mục trẻ có năng lực đến các vùng "khó khăn". Tăng cường đào tạo Linh mục. Tăng cường "rao giảng lời Chúa". Tổ chức các lớp học kinh bổn cho mọi lứa tuổi, đặc biệt chú trọng tới lớp trẻ, đưa nữ tu xuống dạy kinh bổn ở các giáo xứ. Sau khi học là tổ chức các kỳ thi, sát hạch dưới nhiều hình thức khác nhau, có đánh giá và khen thưởng từng đối tượng. Một số chức sắc, chức việc có tư tưởng cơ hội, vọng ngoại, vâng phục, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là việc một số Giám mục, Linh mục ở thị xã Kon Tum... có những việc làm cố ý không thông qua chính quyền. Có nơi, chức sắc, chức việc ngăn cản tín đồ tham gia các hoạt động xã hội, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cho các tổ chức quần chúng ở địa phương gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt, tổ chức hoạt động. Gần đây, ở các xứ đạo tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, tu sửa, cơi nới Tòa giám mục, tu viện và xây dựng lại nhà thờ ở những nơi đã bị hư hỏng, đòi lại đất nước đã bàn giao cho Nhà nước và các tổ chức xã hội hiện nay đang sử dụng (phụ lục 1 về đất đai, trang 85, 86, 87). Giáo hội tìm mọi cách khôi phục mở mang cơ sở tôn giáo ở những nơi "khô", "nhạt đạo", vùng dân tộc ít người, khôi phục và tổ chức lại cấp hành chính đạo (như tách họ đạo, tổ chức hoạt động ở địa phận giáo hạt). Tăng cường, củng cố, trẻ hóa ban hành giáo cả số lượng và chất lượng, chủ yếu tín đồ hoạt động tôn giáo tích cực; có nơi tranh thủ đảng viên gốc giáo để bầu vào ban hành giáo. Các chức sắc Giáo hội tăng cường quan hệ với Chính quyền, lợi dụng sự lơi lỏng trong quản lý để hoạt động vượt khỏi khuân khổ luật pháp trong một số việc, như: Hoạt động tôn giáo trái phép che đậy bằng hình thức hoạt động từ thiện, giáo dục, văn hóa,... Các sinh hoạt trong đời sống tôn giáo của tín đồ được Giáo hội quan tâm tổ chức chặt chẽ, hành lễ trang trọng, có dịp là tổ chức ở quy mô lớn để biểu dương lực lượng; quan tâm đầu tư cho tín đồ (như làm giếng nước, nhà vệ sinh, đường giao thông nông thôn, cho vay vốn phát triển kinh tế). Đáng chú ý là trong hoạt động của Giáo hội hiện nay là tìm cách lôi kéo cán bộ, đảng viên là tín đồ Công giáo tham gia sinh hoạt tôn giáo, bầu vào các ban hành giáo; cô lập những gia đình cán bộ, đảng viên tích cực là người Công giáo - nhất là cán bộ,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan