Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở tr...

Tài liệu Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở trường chính trị tỉnh bà rịa – vũng tàu hiện nay

.PDF
76
22
73

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1. ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN........................................................7 1.1. Khái niệm lý luận chính trị ..............................................................................7 1.2. Vai trò của lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên hiện nay ...................22 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở TRƢỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU HIỆN NAY ..................33 2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và con người của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ................................................................................................33 2.1.1. Điều kiện tự nhiên.......................................................................................33 2.1.2. Kinh tế - xã hội, văn hóa và con người .......................................................37 2.2. Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu………………………………………………………………………………40 2.2.1. Tổng quan về tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu hiện nay................................................................................................40 2.2.2. Những kết quả đạt được và hạn chế trong công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn hiện nay ........................................................................................................43 Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở TRƢỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU HIỆN NAY...........................................................................................................59 3.1. Nâng cao nhận thức, vai trò dạy và học lý luận chính trị cho giảng viên và học viên Ttrường Chính trị trong giai đoạn hiện nay ...........................................59 3.2. Đổi mới căn bản về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho học viên .........................................60 3.3. Nâng cao chất lượng và phát huy năng lực sáng tạo của đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị tại Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu trong thời gian tới ..................................................................................................................63 3.4. Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng về tổ chức và quản lý, đầu tư về trang thiết bị hỗ trợ dạy và học, chế độ chính sách tại Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu trong thời gian tới ................................................................................66 3.5. Cần coi trọng khâu đánh giá cán bộ, đảng viên sau đào tạo và tiếp tục đổi mới hoàn thiện chính sách, tạo động lực khuyến khích cán bộ, đảng viên tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị ...........................................................68 KẾT LUẬN ..............................................................................................................73 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là “công việc gốc của Đảng”. Nhận thức được điều đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ phục vụ cho nhiệm vụ chiến lược của Đảng và của cách mạng. Bước vào giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và giai đoạn hội nhập quốc tế, Đảng đã đưa ra nhiều chủ trương, chiến lược cán bộ, trong đó tập trung chấn chỉnh, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta nêu rõ: “Sớm xây dựng chiến lược cán bộ của thời kỳ đổi mới”, “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn” [21, tr. 420]. Bên cạnh đó, những biến động về kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới và khu vực đã tác động không nhỏ vào Việt Nam. Trước yêu cầu đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải nắm chắc lý luận và có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng. Trong đó, đặc biệt coi trọng việc học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, xác định học tập lý luận chính trị là một trong những nhiệm vụ chính trị của của cán bộ, đảng viên. Ở Việt Nam hiện nay, “tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên … Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”. Từ thực tiễn đó, công tác đào tào, nâng cao trình độ lý luận chính trị của Đảng nói chung và Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng càng trở nên cấp thiết. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ngày càng đổi mới về nội dung, phương pháp dạy và học lý 1 luận chính trị; luôn luôn phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên. Giáo dục nhà trường, đặc biệt là giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là đào tạo và bồi dưỡng những cán bộ vừa “hồng”, vừa “chuyên” để giúp họ thực sự trở thành đầy tớ, công bộc của nhân dân, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chung của toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu công cuộc phát triển đất nước. Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và những hạn chế, khuyết điểm. Là một giảng viên trực tiếp giảng dạy môn lý luận chính trị ở trường Đảng, qua thời gian công tác, tôi nhận thấy rằng, việc nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá thực trạng để qua đó đề xuất một số giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Qua đó, góp phần quan trọng vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị của tỉnh nói chung và đào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng. Vì vậy, tôi chọn đề tài:“Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay” làm luận văn thạc sĩ khoa học triết học, với mong muốn góp phần vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong thời gian tới được hiệu quả hơn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ khi Đảng được thành lập đến nay, Đảng luôn coi trọng vấn đề giáo dục, rèn luyện, nâng cao trình độ lý lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế trước những biến động của tình hình chính trị thế giới và khu vực. Đảng đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách và có những yêu cầu, quy định về trình độ lý luận chính trị đối với mọi đối tượng cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị ở Việt Nam. Là một trong những định hướng góp phần nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tình hình mới. Trong những thập kỷ gần đây, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được nhiều tổ chức và cá nhân quan tâm nghiên cứu, với nhiều 2 góc độ phương diện khác nhau như: “Quan hệ giữa lý luận và chính trị” của Nguyễn Thế Phấn, Tạp chí Cộng sản số 8/1992; “Mấy vấn đề trong công tác lý luận” của Đỗ Nguyên Phương, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa số 7/1992; Bài viết trên Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa (số 6) của TS Đào Duy Quát (2006) về “Đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong tình hình mới”; bài viết trên Tạp chí Tuyên giáo (số 11) của GS.TS Mạch Quang Thắng (2008), “Phương pháp đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lý luận chính trị theo quan điểm Hồ Chí Minh”; Đề tài cấp Bộ Mã số B08 – 22 do PGS.TS Ngô Ngọc Thắng chủ nhiệm (2008), “Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống các trường chính trị hiện nay” Luận án Tiến sĩ Triết học của Nguyễn Đình Trãi (2011) về “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ, giảng viên lý luận Mác – Lê nin ở các trường chính trị tỉnh”; “Vai trò của lý luận đối với quá trình đổi mới xã hội ở nước ta hiện nay” của Phạm Đình Đạt, Luận văn Thạc sĩ Triết học năm 1993; “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cơ sở ở miền núi Hòa Bình” của Bùi Văn Tính, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995; “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay của Trần Thị Yến Linh, Luận văn Thạc sĩ Triết học năm 1996; “Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay” của Vũ Đình Chuyên, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2000; “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hồng Lê, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2004;… Tuy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, tạp chí đề cập đến vấn đề lý luận chính trị và sự cần thiết phải nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới, với mọi đối tượng khác nhau, với nhiều góc nhìn khác nhau, nhưng cho đến nay việc nghiên cứu vấn đề lý luận chính trị, về tầm quan trọng của lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chưa có bài viết, nghiên cứu nào đề cập tới. Do đó, việc thực hiện nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm rõ một số vấn đế về lý luận chính trị và tầm quan trọng của công tác đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên để trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục đích trên, luận văn cần tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau: Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề về lý luận chính trị, vai trò của lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên hiện nay. Thứ hai, phân tích thực trạng đào tạo chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho học viên ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn đề cập đến đào tạo lý luận chính trị, tác giả không đi sâu nghiên cứu về lý luận chính trị nói chung mà chỉ làm rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lý luận Mác – Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và làm sáng tỏ vai trò và tầm quan trọng của việc đào tạo lý luận chính trị cho học viên ở trường Chính trị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Luận văn chủ yếu tập trung vào công tác đào tạo lý luận chính trị, mà không đi sâu về mãng đào tạo hành chính. Cũng như định hướng để nâng cao chất lượng đào tạo chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2018 – 2020, qua đó góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Về mặt phương pháp luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng, chính 4 sách và pháp luật của Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011). Hội nghị Trung ương 4 khóa XI ban hành Nghị quyết số 12NQ/TW, ngày 16/01/2012, về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng những tài liệu, Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Dự thảo Đề án 162 tháng 9 năm 2017 của Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu về “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đến năm 2020, định hướng đến năm 2025” (Lưu hành nội bộ). Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với một số phương pháp khoa học cụ thể như: Lôgic – lịch sử; phân tích, tổng hợp thống kê... Nguồn tài liệu của luận văn: Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Văn kiện đại hội Đảng các cấp, các Tạp chí Cộng sản, Triết học và các công trình nghiên cứu trước đó… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Nghiên cứu về đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có lý luận khoa học vừa thực tiễn, góp phần quan trọng trong quá trình thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay. Về ý nghĩa lý luận, luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, quan điểm chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ mới và trang bị về mặt lý luận cho cán bộ, đảng viên, góp phần vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, chủ chốt, cán bộ nguồn của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng, của Đảng và Nhà nước ta nói chung. Về ý nghĩa thực tiễn, từ việc phân tích thực trạng đào tạo lý luận chính trị cho học viên ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong thời gian qua, luận văn 5 đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, cho việc học, tập nghiên cứu và giảng dạy về lý luận chính trị. Hoặc có thể tham khảo cho việc xây dựng, kế hoạch chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn được cơ cấu gồm 3 chương, 9 tiết. 6 Chƣơng 1 ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1. Khái niệm lý luận chính trị Trong bất cứ thời kỳ nào, giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, cán bộ đảng viên luôn là một trong những nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, quyết định việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Cho nên nhà triết học C. Mác đã khẳng định rằng muốn thực hiện tốt những tư tưởng cần có con người sử dụng một thực tiễn. Lịch sử xã hội loài người, lịch sử của quá trình cách mạng đã chứng minh rằng, mọi chính đảng, giai cấp nào muốn giữ vững được quyền thống trị xã hội thì điều quan trọng là phải chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của giai cấp mình không ngừng nâng cao về trình độ, rèn luyện về kỹ năng và bồi dưỡng lý luận chính trị trong thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng:“Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Muốn làm được điều đó, Đảng phải có lý luận cách mạng của mình”. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lại quan điểm rất quan trọng của V.I. Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động…Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” [29, tr. 259]. Vì vậy, chỉ có chính đảng nào có được lý luận tiên phong dẫn đường thì đảng đó mới hoàn thành cách mạng tiền phong. Cho nên, khi nói đến Đảng chính trị là nói đến hệ thống lý luận – nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ấy. Như vậy, để làm rõ lý luận chính trị thì tác giả cũng đã xuất phát từ nhiều phương diện, góc độ, quan niệm khác nhau và làm rõ một số khái niệm có liên quan như :“lý luận” và “chính trị”. Theo Từ điển tiếng Việt: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là những 7 kiến thức được khái quát hóa và hệ thống hóa trong một lĩnh vực nào đó” [46, tr. 544-545]. Từ điển Triết học định nghĩa: “Lý luận là những tri thức đã được khái quát, tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên hệ cơ bản của hiện thực … Lý luận là sự khái quát hoạt động nhận thức và những kết quả của thực tiễn, lý luận góp phần cải tạo tự nhiên và đời sống xã hội” [42, tr. 341]. Trong giáo dục lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy “lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [25, tr. 497]. Có thể thấy rằng, dưới góc nhìn của Người không giống như nhiều học giả khác, khi họ chỉ nhìn lý luận ở góc độ lý luận chính trị. Với ý nghĩa trên, lý luận rất quan trọng vì nó đóng vai trò định hướng cho hoạt động nhận thức và là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của con người nói chung và đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng. Bởi vì, lý luận được tổng kết từ thực tiễn và quay trở lại chỉ đạo thực tiễn nên chủ thể nhận thức và hoạt động cần phải nắm bắt nguyên tắc này, nắm vững lý luận như người vĩ đại đứng trên vai của những người khổng lồ, để tổng kết và sáng tạo ra lý luận, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của chính đảng, của giai cấp và của dân tộc mình. Tuy có rất nhiều cách tiếp cận, quan niệm ở những phương diện khác nhau, nhưng xét cho cùng thì cũng có nhiều quan điểm đồng nhất với nhau. Vậy, lý luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội được tích lũy trong quá trình hoạt động sống của con người; là sự phản ánh bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan và có vai trò chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn thì thực tiễn đống vai trò là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận. Hay, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý, bởi lẽ chỉ có thông qua thực tiễn con người mới “vật chất hóa” được tri thức, “hiện thực hóa” được tư tưởng. Thông qua quá trình đó, chủ thể nhận thức có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm của lý luận. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định lý luận chân chính là: “Đem 8 thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh trong thực tế” [30, tr. 233]. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít, lịch sử xã hội loài người tất yếu trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội, trong đó có những giai đoạn, thời kỳ hay ở mỗi hình thái thì xã hội loài người không tồn tại giai cấp, nhà nước và đảng phái. Cụ thể, trong xã hội công xã nguyên thủy, sản xuất vật chất chưa phát triển, chưa xuất hiện tư hữu, chưa xuất hiện giai cấp, cũng vì thế trong xã hội chưa xảy ra mâu thuẫn và sự đối lập về lợi ích trong xã hội. Từ thực tiễn đó, chúng ta thấy rằng không có giai cấp, không có quan hệ giai cấp, không có nhà nước, tổ chức để giải quyết quan hệ đó thì cũng không có chính trị và hoạt động chính trị. Vậy thì trong xã hội công xã nguyên thủy, ai và tổ chức nào sẽ điều chỉnh sinh hoạt, duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội công xã, đó chính là các tộc trưởng, tù trưởng, những người cao tuổi có đạo đức và uy tín, hay tự quản theo tập quán. Cho nên Ph. Ăngghen viết:“Với tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức đẹp đẽ biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan tòa, không có nhà tù, không có những vụ xử án - thế mà mọi việc đều trôi chảy”. Từ đó, có thể khẳng định rằng trong xã hội nguyên thủy chưa có chính trị, chưa có tổ chức và hoạt động chính trị, tuy nhiên đó là mầm mống tiền đề cho sự nảy sinh vận động, phát triển của chính trị và hoạt động chính trị sau này. Vậy, chính trị là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của xã hội, xuất hiện trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử - xã hội loài người, gắn liền với sự phân chia xã hội thành những lực lượng đối kháng và sự chuyển đổi của một nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế sản xuất khi lực lượng sản xuất phát triển, mà kết quả tất yếu của sự chuyển biến xã hội này là sự ra đời của Nhà nước và các tổ chức chính trị. Chính trị là hình thái ý thức xã hội, là một trong những yếu tố của kiến trúc thượng tầng có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội và đối với các yếu tố khác trong kiến trúc thượng tầng. Từ khi ra đời, chính trị được hiểu ở rất nhiều 9 phương diện và nhìn nhận khác nhau từ thời cổ đại, trung đại và cận đại, các học giả phương Đông, phương Tây cố gắng tìm kiếm một hình thức nhà nước tối ưu để cai trị đất nước. Theo tiếng Hy Lạp cổ, thì chính trị là “politica” - tức là những công việc liên quan đến nhà nước, là nghệ thuật cai trị đất nước, quản lý xã hội. Cho nên: “Chính trị theo nguyên nghĩa của nó là sự tham gia vào các công việc của nhà nước, việc quy định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Lĩnh vực chính trị bao hàm các vấn đề chế độ nhà nước, quản lý đất nước, lãnh đạo các giai cấp, vấn đề đấu tranh đảng phái, v.v… Những lợi ích căn bản của các giai cấp và những quan hệ qua lại của các giai cấp biểu hiện ra trong chính tri, cũng là sự biểu hiện những quan hệ giữa các dân tộc và giữa các quốc gia” [42, tr. 85-86]. Hay “Chính trị theo nguyên nghĩa của nó là những công việc của nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [43, tr. 507]. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848) C. Mác và Ph. Ăngghen đã phân tích và làm rõ nội hàm của chính trị, các ông đã chỉ ra thực chất của chính trị, nguồn gốc xuất hiện và mất đi của chính trị, bản chất của chính trị và điều đặc biệt là hai ông đã phát hiện ra yếu tố cơ bản, giữ vị trí quan trọng của chính trị là yếu tố kinh tế, do vậy C. Mác và Ph. Ăngghen đã cho rằng chính trị thực chất là quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng người đối với vấn đề Nhà nước và xã hội. Chính trị là sự phản ánh tập trung của đời sống xã hội, giai cấp. Các ông quan niệm: “Mỗi bước phát triển của giai cấp tư sản đều cấp một bước tiến bộ chính trị tương ứng”. Khi bàn đến chính trị là nói đến chính trị của Đảng phái, để đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc thì phải thông qua một hệ thống chính trị như: chủ trương, quan điểm, đường lối, chính sách, pháp pháp luật của Đảng và Nhà nước một cách khoa học, không được sai lầm, mơ hồ về chính trị. Do phạm trù chính trị có tính đặc thù và tầm quan trọng như vậy, nên V.I. Lênin đã khẳng định: “Chính trị giống đại số hơn là số học, càng giống toán học cao cấp hơn toán học sơ cấp”, “Chính trị là vận mệnh thực tế của hàng chục triệu con người” [56, tr. 150]. Những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, xem xét 10 chính trị với tư cách là một hiện tượng xã hội - nó mang tính lịch sử và chính trị có vai trò to lớn trong đời sống xã hội, vì “Chính trị là sự tham gia vào công việc nhà nước, là sự vạch hướng đi cho nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội dung của nhà nước” [61, tr. 404]. Do đó, mục đích thống trị của một giai cấp, một chính đảng bất kỳ nào suy cho cùng là vấn đề lợi ích kinh tế, duy trì sự thống trị giai cấp về kinh tế. Vì thế, Lênin đã khẳng định: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” [57 tr. 349]. Từ những phân tích trên, có thể đi đến một quan điểm chung về chính trị như sau: Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Với góc độ tiếp cận khái niệm “lý luận” và “chính trị” như trên, có thể khái quát về khái niệm lý luận chính trị đó là: Lý luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của một đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Như vậy lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận chính trị của giai cấp vô sản, là hệ tư tưởng chân chính nhất của giai cấp vô sản và chính đảng của nó - Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, trong những năm ba mươi của thế kỷ XIX, đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn, khoa học và cách mạng; giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào đấu tranh của công nhân với chủ nghĩa yêu nước. Trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Luận điểm đó được Đảng khẳng định rất rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 6 năm 1991 tại Thủ đô Hà Nội: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [17, tr. 21]. 11 Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết về những quy luật chung nhất về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, là lý luận cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh chống áp bức bộc lột của chủ nghĩa tư bản đế quốc, là môn khoa học về xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, V.I. Lênin đã nhận xét: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đó đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống … vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga” [62, tr. 232]. Chủ nghĩa Mác - Lênin được cấu thành từ ba bộ phận cơ bản đó là Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong đó, Triết học Mác - Lênin là hệ thống tri thức lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, về vai trò, vị trí của con người trong thế giới đó, Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội loài người, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu làm sáng tỏ, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và những quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản và tiến tới cộng sản chủ nghĩa. Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin giúp chúng ta từng bước xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học, có phương pháp tiếp thu một cách hiệu quả lý luận mới, những thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại, có niềm tin vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, có cơ sở khoa học chống lại tư tưởng lạc hậu, phản động. Hiểu và nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi người có điều kiện hiểu rõ mục đích, con đường, lực lượng, cách thức bước đi của sự nghiệp giải phóng con người, không sa vào tình trạng mò mẫm, mất phương hướng, chủ quan, duy ý chí. 12 Có cách nhìn xa trông rộng, chủ động sáng tạo trong công việc, khắc phục chủ nghĩa giáo điều, máy móc, tư tưởng nôn nóng, đốt cháy giai đoạn và các sai lầm khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tiến tới giải phóng con người. Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa hết sức to lớn, nhằm trang bị hệ thống quan điểm và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, nâng cao lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, đạo đức cách mạng của mỗi người. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh chính là việc nghiên cứu và vận dụng hệ thống các quan điểm của Người, bao gồm các tư tưởng chủ yếu như: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân do dân và vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Trên cơ sở đó, chúng ta nắm bắt được yếu tố cốt lõi trong tư tưởng của Người, đó là: tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Từ đó, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trang bị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên những hiểu biết cơ bản về sự ra đời của Đảng, đường lối của Đảng 13 trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đường lối của Đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bồi dưỡng cho người học niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, định hướng phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng; nâng cao ý thức trách nhiệm công dân, trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trước những nhiệm vụ, thách thức của đất nước. Qua học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, học viên có cơ sở vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích cực giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội theo đường lối, chính sách của Đảng. Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta khẳng định: Lý luận chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về đoàn kết dân tộc và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, là lý luận về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Đảng đã chỉ rõ: “Ở những bước ngoặt cách mạng, trước những diễn biến phức tạp của tình hình, Đảng kịp thời có định hướng tư tưởng đúng dắn, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, chống những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho thống nhất tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân” [19, tr. 136]. Đất nước trải qua hơn ba mươi năm đổi mới, từ Đại hội VI (1986) - Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đến Đại hội XII (2016) qua quá trình tổng kết thực tiễn, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thực tế chỉ rõ, ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số khó khăn, khuyết điểm cần tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất 14 nước phát triển bền vững, trong đó công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng thực tiễn, cung cấp lý luận khoa học làm cơ sở cho hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ. Bốn nguy cơ mà Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1994) nêu lên vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc chống phá Nhà nước ta. Đặc biệt, trong Nghị quyết 04/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 30/10/2016, về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Theo đó, Trung ương chỉ rõ các biểu hiện suy thoái thuộc 3 nhóm tư tưởng - chính trị, đạo đức - lối sống, và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Theo như nhận diện những biểu hiện thì thực trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang ở mức nguy hiểm; bởi vì nó xuất hiện ở nhiều trạng thái, diễn ra ở mọi cấp độ, trong mọi hoạt động, mọi đối tượng, bất kể đó là “cấp thấp” hay “cấp cao” và không loại trừ chủ chốt hay không chủ chốt. Có thể nói, đây là “bộ quy tắc” làm gương soi cho tất cả cán bộ, đảng viên và công chức; nhìn vào 27 biểu hiện thuộc 03 nhóm trên ít ai có thể “miễn dịch” 100%. Nhưng đó cũng là lúc mà tất cả những người đang hưởng lương từ ngân sách, mang danh phận “công bộc” làm việc trong những trụ sở nguy nga, lộng lẫy, ngồi trên những chiếc xe tiền tỷ, tiêu xài những đồng tiền mồ hôi nước mắt của nhân dân, cần đối chiếu lại mình với những gì mà Nghị quyết đã nói. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, đòi hỏi sự nghiệp giáo dục, đào tạo phải đổi mới để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng ngày càng cao, đạt trình độ của khu vực và theo kịp thế giới. 15 Từ thực tiễn của yêu cầu cách mạng đó, Đảng đã xây dựng hệ thống lý luận chính trị cho mình và chú trọng công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị của Đảng, Nhà nước. Lý luận chính trị của Đảng ta hiện nay, được thông qua các chương trình đào tạo với những hình thức khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng cán bộ, đảng viên của Đảng, với mục đích không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cũng như nhận thức lý luận chính trị của Đảng trong tình hình mới. Khi đề cấp đến học tập lý luận chính trị, đó là lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, trong đó Đảng luôn quán triệt tinh thần học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên đó là nhiệm vụ chính trị, bắt buộc và cần thiết. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận cốt lõi của Đảng mang những đặc trưng cơ bản như sau: Thứ nhất, đó là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là cơ sơ phương pháp luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật mácxit, là nguyên tắc cơ bản của triết học Mác - Lênin có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người nói chung và đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng. Điểm yếu và thiếu của các nhà triết học trước Mác, là họ không thấy được vai trò của thực tiễn đối với sự tồn tại của xã hội cũng như với sự nhận thức và cải tạo xã hội. Vì thế, họ không giải thích được những động lực của sự phát triển một cách khoa học, như quan điểm của Phoiơbắc nhà triết học duy vật cao nhất trước Mác vẫn xem thực tiễn có tính chất bẩn thỉu của con buôn. Triết học Mác - Lênin ra đời là một trong những thành tựu vĩ đại của của trí tuệ nhân loại đã thấy được vai trò của thực tiễn, triết học Mác là duy vật, nói một cách khác, nhờ vận dụng và quán triệt chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu xã hội, Mác đã giải quyết vấn đề xã hội một cách duy vật trên quan điểm thực tiễn. Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử xã hội của 16 con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Hoạt động thực tiễn có nhiều hình thức, nhưng có thể quy về ba những hình thức cơ bản, chủ yếu là: Hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, qui luật phổ biến của sự vật, hiện tượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [33, tr. 788]. Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo Người phải được hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận (khoa học) soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, không rơi vào mò mẫm, vòng vo, mù quáng mất thời gian. Còn lý luận (khoa học) phải dựa trên cơ sở thực tiễn, nảy sinh từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn, luôn liên hệ với thực tiễn và được bổ sung, hoàn thiện, phát triển thông qua tổng kết thực tiễn có lý luận nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn và lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn và bổ sung cho nhau. Không có thực tiễn sẽ không có lý luận và ngược lại không có lý luận thì thực tiễn sẽ mất phương hướng. Thấm nhuần tinh thần ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới luôn quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là rất quan trọng, chỉ đạo sự phát triển của chúng ta. Lý luận phải luôn luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn. Yêu cầu quan trọng đối với hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người là phải bám sát vào thực tiễn để khái quát, rút ra được những kinh nghiệm từ thực tiễn, thống nhất được lý luận vào thực tiễn và thực tế của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã chứng minh cho ý nghĩa phương pháp luận này. Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác lý luận của Đảng hiện nay, là đẩy mạnh việc tổng hợp thực tiễn, mọi lĩnh vực đều phải tổng hợp và khái quát 17 thành lý luận, bổ sung lý luận, một trong những sức mạnh của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là thường xuyên tổng hợp lý luận. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận phải phù hợp điều kiện lịch sử cụ thể, phải khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng máy móc vào thực tiễn hiện nay mặc dù nó đã thay đổi. Vi phạm quan điểm lịch sử cụ thể, đây chính là tư duy siêu hình, không thấy được sự vận động của lịch sử - xã hội, dẫn đến xem thường lớp trẻ - những người được xem là ít kinh nghiệm thực tiễn. Từ đó, làm mất đi tính sáng tạo, chủ động trong hoạt động thực tiễn của họ, đó chính là bệnh xem thường lý luận. Để khắc phục bệnh này thì không được xa rời thực tiễn, phải bám sát thực tiễn, phải tăng cường học tập, nâng cao trình độ lý luận, bổ sung lý luận thường xuyên để đáp ứng với sự thay đổi của thực tiễn. Bệnh giáo điều là bệnh tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng lý luận một cách máy móc, không tính đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nguyên nhân là do hiểu lý luận một cách nông cạn, chưa nắm được bản chất của lý luận. Lý luận chưa được vận dụng vào thực tiễn, chưa được thực tiễn kiểm nghiệm nên vẫn chỉ là lý luận thuần túy. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Để khắc phục bệnh giáo điều, cần quán triệt sâu sắc nguyên tắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận luôn gắn với thực tiễn và phải vận dụng lý luận một cách sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra trong thực tiễn và không ngừng phát triển trong thực tiễn. Vì vậy, C. Mác đã khẳng định: “Vũ khí của sự phên phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng của vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [13, tr. 580]. Trong học tập và nghiên cứu lý luận, phải gắn với thực tiễn công tác, vậy học lý luận chính trị là học “tinh tập tinh thần của chủ nghĩa mác - Lênin; lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, để áp dụng lập trường, quan điểm 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan