Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây dựng mô hình xã phường phù hợp với...

Tài liệu Một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây dựng mô hình xã phường phù hợp với trẻ em (qua khảo sát tại 2 xã an lão và hưng công, huyện bình lục, tỉnh hà n

.PDF
91
553
75

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------- LÊ THỊ LAN ANH MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HIỆU QUẢ VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH “XÃ, PHƯỜNG PHÙ HỢP VỚI TRẺ EM” (Qua khảo sát tại 2 xã An Lão và Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI HỌC Hà Nội, 2009 TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------LÊ THỊ LAN ANH MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HIỆU QUẢ VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH “XÃ, PHƯỜNG PHÙ HỢP VỚI TRẺ EM” (Qua khảo sát tại 2 xã An Lão và Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam) Chuyên ngành: XÃ HỘI HỌC MÃ SỐ: 60 31 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đặng Cảnh Khanh Hà Nội, 2009 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 4 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 8 4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu. 8 5. Giả thuyết nghiên cứu và sơ đồ tương quan giữa các biến số 9 6. Phương pháp nghiên cứu 11 7. Kết cấu luận văn 12 PHẦN NỘI DUNG 13 Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 13 1. Từ quan điểm xây dựng “Một thế giới phù hợp với trẻ em” của 13 Liên Hiệp Quốc đến việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” ở Việt Nam. 1.1 Quan điểm của Liên Hiệp Quốc về xây dựng “Xã, phường phù 13 hợp với trẻ em” 1.2 Việt Nam và việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với 15 trẻ em” 2. Một số khái niệm công cụ liên quan đến đề tài. 16 2.1 Khái niệm trẻ em 16 2.2 Khái niệm “Xã, phường phù hợp với trẻ em” 17 3. Một số lý thuyết và quan điểm của các nhà xã hội học được vận 17 dụng trong đề tài nghiên cứu. Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC 26 ĐỘNG ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH “XÃ, PHƯỜNG PHÙ HỢP VỚI TRẺ EM”. 1.Điều kiện kinh tế, xã hội của hai xã An Lão, Hưng Công 26 2. Thực trạng và một số yếu tố tác động đến việc xây dựng “Xã, 27 phường phù hợp với trẻ em” 2.1 Thực trạng công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và việc 27 xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em” tại hai xã An Lão và Hưng Công. 2.2 Một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây dựng mô hình 50 “Xã, phường phù hợp với trẻ em” 3. Hiệu quả 52 Chương 3: Giải pháp 54 1.Giải pháp thực hiện môi trường xã hội phù hợp với trẻ em. 54 2.Giải pháp thực hiện môi trường gia đình đảm bảo để trẻ em phát 60 triển toàn diện. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 64 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Ngày nay, nhân loại đã và đang bước vào nền kinh tế tri thức, một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nền kinh tế tri thức là tập trung đầu tư phát triển con người, trong đó xác định rõ đầu tư cho con người là sự đầu tư có hiệu quả nhất. Đầu tư cho con người, hướng đến con người cũng chính là mục tiêu của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đó vừa được coi là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Khi các chính sách của Việt Nam coi con người là động lực của sự phát triển, điều đó cũng có nghĩa là tạo mọi điều kiện để phát huy hết tiềm năng cho mỗi cá nhân nói riêng và con người nói chung hướng đến sự phát triển toàn diện. Khi con người được phát huy hết vai trò là động lực, họ sẽ tạo ra nguồn của cải to lớn, tạo ra sự phát triển kinh tế. Mặt khác, khi kinh tế phát triển, thì con người cũng có điều kiện được chăm sóc tốt hơn, phát triển ở tầm cao hơn. Như vậy, con người lại trở thành mục tiêu của sự phát triển, mọi sự nỗ lực, cố gắng của con người đều hướng đến mục tiêu cho chính con người. Vì vậy, đầu tư cho con người là hết sức quan trọng. Đầu tư cho con người đòi hỏi một quá trình lâu dài, bền bỉ và kéo dài trong suốt cuộc đời mỗi con người, dù con người đó ở bất kỳ lứa tuổi nào, trong bất kỳ giai đoạn nào hay thuộc bất kỳ dân tộc, giới tính nào. Tuy nhiên, giai đoạn đầu tiên của cuộc đời là giai đoạn cần đến sự đầu tư nhiều nhất, con người có khỏe mạnh về thể chất, có kiến thức, trình độ, học vấn, văn hóa, nhân cách và một tâm hồn phong phú hay không...đều phụ thuộc vào giai đoạn đầu tiên đó. Nhiều nghiên cứu khoa học và thực tế cuộc sống đã chỉ ra rằng nếu ở giai đoạn đầu đời, con người có được sự đầu tư bài bản, toàn diện và khoa học, thì đây là tiền đề quan trọng để các giai đoạn sau con người có cơ hội và điều kiện phát triển tốt hơn. Do đó, các chính sách đầu tư cho con người hiệu quả nhất là đầu tư trong giai đoạn đầu tiên. Những chính sách đầu tư cho thế hệ trẻ đòi hỏi có tính chiến lược, toàn diện, không chắp vá, bị động. Tình hình kinh tế có thể biến đổi nhưng đầu tư cho con người, đặc biệt là thế hệ trẻ phải có chiến lược lớn và không thể thay đổi. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã đầu tư rất nhiều cho trẻ em, Ủy ban Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em (nay là Cục trẻ em thuộc Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội) đã được thành lập và làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước về công tác trẻ em. Đến nay, mặc dù đã thay đối tên gọi nhiều lần, nhưng về bản chất là không thay đổi, vẫn luôn hướng đến mục tiêu cao nhất là đầu tư, phát triển, chăm sóc cho trẻ em. Thời gian qua, những chính sách và nỗ lực của Việt Nam trong chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em nói chung, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nói riêng đã đạt được nhiều kết trong các vấn đề cụ thể như: dinh dưỡng và sức khỏe, y tế và giáo dục, đạo đức, lối sống và nhân cách,... Bản thân Liên Hiệp Quốc cũng đã đánh giá rất cao những thành quả mà Việt Nam đã đạt được. Tuy nhiên, sự đầu tư, phát triển trẻ em mang tính chiến lược không chỉ dừng lại ở những vấn đề chi tiết, cụ thể mà còn phải hướng đến một tầm cơ bản hơn, đó là xây dựng môi trường xã hội để trẻ em lớn lên có đủ điều kiện phát triển tốt nhất, như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”... Sự “trồng người”, đòi hỏi những vấn đề rất cơ bản: đất đai - không gian văn hóa, môi trường xã hội để trẻ phát triển. Điều đó có nghĩa là để phát triển trẻ em, chúng ta không thể chỉ dừng lại ở việc chăm sóc, giáo dục mà phải xây dựng một môi trường xã hội, một không gian văn hóa xung quanh để trẻ có cơ hội được sinh ra, lớn lên, trưởng thành và được nuôi dưỡng trong cái nôi vững chắc, nhân ái đó. Trong các thập kỷ gần đây, những đòi hỏi về khía cạnh xây dựng môi trường sống phù hợp với trẻ em đã được Liên Hiệp Quốc đề cập và khẳng định rõ trong Tuyên bố của Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em (1959), Công ước Quốc tế quyền Trẻ em (CRC - được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989). Trong các văn bản quan trọng này, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra hệ thống các tiêu chí mang tính căn bản, chiến lược rất cần thiết để xây dựng một môi trường sống mà bất kỳ trẻ em nào cũng có cơ hội và điều kiện phát triển tốt nhất. Ở Việt Nam, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thời gian gần đây đã hướng đến việc tạo cho trẻ em có điều kiện sống, học tập và phát triển tốt nhất. Đây được coi là bước chuyển biến quan trọng đối với công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em. Chuyển từ những chăm sóc mang tính trải rộng theo chiều ngang sang những chăm sóc mang tính chiến lược, tổng thể và căn bản theo chiều sâu bao gồm: bảo vệ trẻ em, chăm sóc trẻ em, giáo dục trẻ em, tạo điều kiện để trẻ được vui chơi, giải trí và được tham gia các hoạt động xã hội trong một môi trường sống thuận lợi nhất. Đó cũng chính là bốn tiêu chuẩn cụ thể nhất, trọng điểm nhất được các nhà khoa học, các nhà quản lý đưa ra nhằm hướng toàn bộ xã hội vào mục tiêu xây dựng một môi trường sống tốt đẹp nhất cho sự phát triển của trẻ em. Bộ tiêu chuẩn “Xã phường phù hợp với trẻ em” sau một thời gian nghiên cứu, thẩm định được Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban dân số gia đình và trẻ em (nay là Vụ trẻ em) ra quyết định ban hành ngày 01/6/2004 với tên gọi “Hướng dẫn Tiêu chuẩn xã/phường phù hợp với trẻ em”1 nhằm hướng tới việc thực hiện cam kết của Nhà nước Việt Nam với Liên Hiệp Quốc về thực hiện xây dựng “Một thế giới phù hợp với trẻ em”. “Xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em là xã, phường, thị trấn có môi trường sống an toàn, thân thiện với trẻ em mà ở đó tất cả trẻ em đều có sự khởi đầu tốt đẹp nhất trong cuộc sống, được hưởng các quyền cơ bản của mình (quyền được sống, quyền được phát triển, quyền được bảo vệ và quyền được tham gia) và có cơ hội phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và nhân cách.”2 Sau khi xây dựng bộ tiêu chuẩn, Vụ trẻ em (thuộc Ủy ban dân số gia đình và trẻ em) đã tiến hành triển khai thử nghiệm ở một số địa bàn trong cả nước. Theo quy định, các tỉnh, thành phố nào đạt được các tiêu chí đề ra trong bộ tiêu chuẩn sẽ được cấp Bằng công nhận xã phường phù hợp với trẻ em. Trên thực tế, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em, Quyết định số 03/2004/QĐ-DSGĐTE ngày 01/6/2004 v/v ban hành Hướng dẫn tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em. 2 Vụ trẻ em, Dự thảo 2 (tháng 12/2008) Tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em, Điều 1. 1 việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” đã bước đầu thu được những kết quả nhất định nhưng cũng cho thấy rất nhiều khó khăn hạn chế. Điều đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá để mô hình này có thể được triển khai một cách hiệu quả trên bình diện rộng lớn hơn. Nhiệm vụ của luận văn “Một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây dựng mô hình xã phường phù hợp với trẻ em” là tập trung nghiên cứu quá trình xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em” tại hai xã An Lão, Hưng Công (huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam), trên cơ sở đó, xem xét, đánh giá việc xây dựng bộ tiêu chuẩn này những mặt tốt hay chưa tốt, có tích cực đối với sự nghiệp chăm sóc, giáo dục trẻ em hay không, từ đó có những đóng góp nhằm chuẩn hóa, hướng tới hoàn thiện bộ tiêu chuẩn để có thể áp dụng sâu rộng đến tất cả các vùng/miền trong cả nước. 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu. Việc nghiên cứu về mục tiêu, chiến lược phát triển trẻ em ở tầm vĩ mô nói chung và các chương trình, kế hoạch phát triển trẻ ở cấp độ vi mô nói riêng đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau. Trẻ em là thế hệ tương lai của đất nước, là một bộ phận quan trọng trong mục tiêu và chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta, vì vậy, đầu tư phát triển cho trẻ em chính là sự đầu tư cho tương lai quốc gia, dân tộc. Trên thế giới, nhiều chính sách, chương trình hành động về trẻ em đã và đang được xây dựng như: Tuyên bố của Hội Quốc liên về quyền trẻ em (1924), Tuyên bố của Liên hiệp quốc (LHQ) về Quyền trẻ em (1959), Công ước Quốc tế quyền Trẻ em (CRC) được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989, Nghị định không bắt buộc của Công ước LHQ về quyền trẻ em về việc sử dụng trẻ em tham gia quân sự, Nghị định không bắt buộc của công ước Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em về buôn bán mại dâm. Trong đó, Công ước quốc tế về quyền trẻ em là một trong những văn bản được nhiều quốc gia trên thế giới ký cam kết thực hiện. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này vào năm 1990. Từ đó đến nay, Việt Nam đã từng bước đưa các vấn đề về trẻ em vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2006-2010, đây là văn kiện quan trọng tạo khung pháp lý cho các Bộ, ngành xây dựng kế hoạch hành động riêng của mình đến năm 2010. Nỗ lực hành động và phấn đấu để có môi trường phát triển tốt nhất cho trẻ em luôn là một chặng đường rất dài và rất động. Những giá trị ở hiện đang phù hợp trong giai đoạn này nhưng có thể dễ dàng trở nên lạc hậu sau một vài thập kỷ tới. Chính vì thế, ở khắp nơi trên thế giới, các chính sách, chương trình hành động luôn có sự chỉnh sửa, bổ sung sao cho phù hợp nhất với từng giai đoạn, từng lứa tuổi và đặc thù văn hóa, kinh tế của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, Sự nghiệp đổi mới đất nước từ Đại hội Đảng VI năm 1986 đã mang lại những kết quả đáng khích lệ, một mặt khiến cho kinh tế tăng trưởng, thu nhập bình quân tăng, đời sống nhân dân được cải thiện; mặt khác, nó còn là động lực thúc đẩy sự phát triển giao lưu văn hóa xã hội. Chúng ta cũng đã quan tâm nhiều hơn đến các chính sách xã hội, đến việc coi con người với tính cách vừa là nguồn lực, lại vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển đất nước. Công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em cũng dành được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước. Với quan điểm trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, vấn đề trẻ em hiện nay nhận được sự quan tâm của rất nhiều các cơ quan hữu quan nhằm mục đích tạo điều kiện để các em có thể phát triển toàn diện, được sống trong tình yêu thương và được hưởng mọi quyền trẻ em. Có thể nói đầu tư cho công tác chăm lo giáo dục trẻ em là đầu tư cho tương lai, tạo cơ sở, điều kiện cho các em học tập, vui chơi lành mạnh chính là một hướng đầu tư hiệu quả cho sự phát triển nước nhà trong một tương lai xa, mang tính lâu dài và bền vững. Ngày 12/8/1991, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được Quốc hội Việt Nam thông qua và chính thức có hiệu lực thi hành. Có thể nói, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chính là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho việc triển khai và thực thi các phúc lợi cho trẻ em. Nghiên cứu về trẻ em trong những năm qua cũng nhận được sự quan tâm, vào cuộc của nhiều cơ quan, đơn vị. Có thể nói, có rất nhiều học giả, tổ chức trong và ngoài nước dày công cho mảng nghiên cứu này. Trong phạm vi có hạn, luận văn chỉ xin điểm qua một số những công trình nghiên cứu tiêu biểu, cung cấp cho chúng ta những nền tảng, những hiểu biết cần thiết khi tiếp cận nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em”. Viết về gia đình và vấn đề xã hội hóa trẻ em, trong cuốn sách “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới”, (Nxb Khoa học xã hội, 2002) tác giả Lê Thi đã phân tích và khẳng định rằng: “Gia đình là thiết chế giáo dục cơ sở, trung tâm đào tạo đầu tiên giúp đứa trẻ tập sự đi vào cuộc sống. Gia đình chuẩn bị cho trẻ có thể phát triển đầy đủ tiềm lực của nó và đóng vai trò hữu ích trong xã hội khi đến tuổi trưởng thành” (sđd, tr.3). Tác giả cũng phân tích những biến động của gia đình ngày nay cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Việc xã hội hóa trẻ em không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt những giá trị văn hóa truyền thống, bên cạnh đó, trẻ cũng cần phải học cách thích nghi với những chuẩn mức và giá trị văn hóa đang biến động từng ngày. Do vậy, tác giả khẳng định quá trình xã hội hóa trẻ em có sự ảnh hưởng đầu tiên và quan trọng từ phía gia đình. Tác giả Đặng Cảnh Khanh với cuốn sách “Gia đình, trẻ em và sự kế thừa các giá trị truyền thống”, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội, 2003 và bài viết “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục các giá trị truyền thống” đăng trong cuốn Thế hệ trẻ Việt Nam – Nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã đi sâu nghiên cứu vị trí, vai trò của gia đình, những mối quan hệ trong gia đình, sự biến đổi của gia đình dưới tác động của sự thay đổi các điều kiện kinh tế, xã hội. Nghiên cứu khẳng định vai trò to lớn của gia đình đối với việc giáo dục thanh thiếu niên và trẻ em trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời cũng chỉ ra một số vấn đề trong gia đình và những giải pháp tăng cường vai trò của gia đình đối với việc giáo dục, chăm sóc và bảo vệ thế hệ trẻ. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Đặng Cảnh Khanh và Lê Thi chủ yếu hướng tới vai trò của gia đình đối với thế hệ trẻ chứ chưa thực sự quan tâm cụ thể đến vấn đề tạo ra một môi trường an toàn, lành mạnh cho trẻ em phát triển toàn diện – một vấn đề đã và đang được quan tâm trong sự nghiệp trồng người – đặc biệt là trẻ em, thế hệ tương lai của đất nước. Đề tài “Khảo sát thực trạng và nhận thức về các hình thức xâm hại trẻ em tại một số địa phương của Việt Nam” (đề tài được thực hiện bởi sự phối hợp giữa Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em và Tổ chức Plan tại Việt Nam do ông Nguyễn Đức Mạnh làm chủ nhiệm năm 2006. Đây là kết quả hợp tác giữa Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em với Tổ chức Plan trong khuôn khổ dự án thực hiện Chiến lược Bảo vệ trẻ em Việt Nam giai đoạn 2005-2010) cũng quan tâm nghiên cứu về các hình thức xâm hại đến trẻ em. Kết quả nghiên cứu, điều tra, khảo sát tại 5 tỉnh: Hà Nội, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên và Quảng Bình đã xác định sự tồn tại của các hình thức xâm hại trẻ em hiện hữu trong thực tiễn với nhiều dạng khác nhau: hình thức xâm hại thân thể và tinh thần, hình thức xâm hại tình dục trẻ em, hình thức sao nhãng trẻ em, hình thức bóc lột sức lao động trẻ em. Đồng thời, qua đó cũng khẳng định các hình thức xâm hại trẻ em như trên đã trực tiếp đe dọa đến sự an toàn trong môi trường sống của trẻ. Đề tài “Phân tích nhu cầu và khả năng tiếp cận các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại một số địa phương ở Việt Nam” (nằm trong khuôn khổ hợp tác giữa Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em và Tổ chức Plan tại Việt Nam) do TS. Nguyễn Đức Mạnh làm chủ nhiệm cũng quan tâm, nghiên cứu về thực trạng trong tiếp cận các lĩnh vực giáo dục, chăm sóc sức khỏe, văn hóa và tinh thần của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thực trạng chưa được công bằng đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong việc tiếp cận các lĩnh vực trên. Cũng trong khuôn khổ hợp tác như trên, tháng 3 năm 2007, đề tài “Khảo sát thực trạng và nhận thức của trẻ em, cộng đồng về tai nạn thương tích trẻ em” đã được thực hiện. Ông Nguyễn Đức Mạnh và nhóm tác giả đã mô tả thực trạng và các nguyên nhân dẫn đến tai nạn thương tích trẻ em tại vùng dự án. Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ em bị các loại tai nạn thương tích từ nhẹ đến nặng chiếm tỷ lệ rất cao, tới 87,2%. Trong đó, một số loại hình tai nạn thương tích phổ biến (chiếm tỷ lệ từ 32 – 70%) như: bị vấp ngã; bị chảy máu do vật sắc nhọn đâm phải; bị động vật cào cắn, đốt; bị bỏng; bị hóc sặc ở miệng... Một số loại tai nạn thương tích khác có tỷ lệ không cao (từ 10 – 30%) nhưng rất nguy hiểm đến tính mạng trẻ em như: bị chết đuối hụt, bị điện giật, bị ngã từ trên cao, bị bom mìn nổ, tai nạn giao thông... Báo cáo cũng chỉ ra một số nguyên nhân, khuyến nghị đối với trẻ em, gia đình, cộng đồng, nhà trường và các ngành đoàn thể địa phương trọng việc nâng cao nhận thức, hạn chế các tai nạn thương tích cho trẻ, tạo điều kiện cho trẻ có được môi trường sống an toàn. Ngoài ra, còn có nhiều công trình khác cũng đề cập đến trẻ em như: Ngô Huy Đức (2003), “Ngân sách cho giáo dục hòa nhập của trẻ khuyết tật”, Nxb Đại học Sư phạm; Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em và Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển (2004), “Báo cáo kết quả khảo sát thực trạng trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em tại Việt Nam”; Reina Michaelson (2004), “Báo cáo: Lạm dụng trẻ em ở Việt Nam”; Nxb Chính trị quốc gia (2004) “Trừng phạt thân thể trẻ em, điều này có thực sự cần thiết”; Lê Thi (1997), “Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam”, (Nxb Phụ Nữ, Hà Nội) v.v.. Tuy nhiên, những nghiên cứu này thường tập trung vào một vấn đề riêng biệt chứ chưa quan tâm nhiều đến việc xây dựng một môi trường xã hội, cộng đồng, gia đình và nhà trường an toàn, lành mạnh cho sự phát triển của trẻ em. Do vậy, đề tài nghiên cứu “Một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” được thực hiện với hi vọng bổ sung thêm một phần vào khoảng trống trên và đóng góp thêm một nghiên cứu nữa trong lộ trình xây dựng một môi trường sống phù hợp với trẻ em. Nó cũng có thể làm phong phú hơn phần nào mảng nghiên cứu về trẻ em đã và đang có sức hấp dẫn đối với nhiều nhà nghiên cứu hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 3.1 Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu thực tiễn công tác xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” hiện nay, phân tích những mặt thành công và hạn chế của việc xây dựng này. Trên cơ sở đó, đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện hơn nội dung và phương thức xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em”. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu, điều tra việc xây dựng mô hình xã phường phù hợp với trẻ em tại hai xã An Lão và Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, qua đó nêu lên những nhận xét cụ thể về việc thực hiện các chỉ tiêu cơ bản về Tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em, cung cấp thêm những thông tin thực tiễn đáp ứng nhu cầu nhận thức một cách chính xác hơn về việc triển khai thực hiện mô hình “Tiêu chuẩn xã phường phù hợp với trẻ em” trong thực tế. Đề xuất những ý kiến về việc điều chỉnh bộ tiêu chuẩn và giải pháp thực hiện cho phù hợp với tình hình hiện nay. 4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em”. 4.2 Khách thể nghiên cứu - Trẻ em được sống, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tại môi trường xã hội, gia đình tại hai xã An Lão, Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. - Cán bộ lãnh đạo, chính quyền, đoàn thể, cán bộ dân số gia đình và trẻ em trong địa bàn khảo sát. - Các thầy, cô giáo tại các trường Mầm non, Tiểu hoc và Trung học cơ sở của hai xã. - Các thành viên trong gia đình. 4.3 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi địa lí: Do thời gian và kinh phí hạn chế, tác giả chỉ tiến hành nghiên cứu tại hai xã An Lão và Hưng Công thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam (một xã có báo cáo đã thực hiện được 24/28 chỉ tiêu, một xã thực hiện dưới 24 chỉ tiêu1). Phạm vi về nội dung: 1 Ủy ban dân số gia đình và trẻ em, quyết định số 03/2004 QĐ-DSGĐTE ngày 1/6/2004, Hướng dẫn tiêu chuẩn XPPHTE. Luận văn tập trung phân tích những nội dung của bản tiêu chuẩn “Xã, phường phù hợp với trẻ em” được vận dụng vào quá trình áp dụng trong thực tế của công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em của hai xã An Lão, Hưng Công. (Nội dung, cách thức của bản tiêu chuẩn được vận dụng như thế nào). Tập trung phát triển rõ những yếu tố, những bài hoc kinh nghiệm tác động đến sự thành công, hạn chế của việc xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em”. Đề xuất những ý kiến và hoàn thiện những nội dung, những quy chuẩn của bộ tiêu chuẩn để việc xây dựng xã phường phù hợp với trẻ em có thể tiến hành có hiệu quả và phù hợp với nhiều vùng miền trong cả nước. Nội dung các tiêu chuẩn “Xã, phường phù hợp với trẻ em” có 28 chỉ tiêu bao quát nội dung rộng và được xếp đặt trong 4 tiêu chuẩn1 cơ bản. Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả chỉ lựa chọn tiêu chuẩn 1 và tiêu chuẩn 2. Tiêu chuẩn 1: Môi trường xã hội phù hợp với trẻ em Tiêu chuẩn 2: Môi trường gia đình bảo đảm bảo để trẻ em phát triển toàn diện. 5. Giả thuyết nghiên cứu và sơ đồ tương quan giữa các biến số. 5.1 Giả thuyết nghiên cứu Việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” là một ý tưởng tốt nhưng triển khai trong điều kiện thực tế Việt Nam còn rất nhiều khó khăn. Những tiêu chuẩn xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em” trong thực tế cần phải được sửa chữa, hoàn thiện, bổ sung, hoàn chỉnh. Mặc dù có những khó khăn như vậy, nhưng việc triển khai mạnh mẽ mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” sẽ tạo điều kiện thuận lợi tốt và cơ bản cho công tác giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em. 4 tiêu chuẩn đó là: (1) Môi trường xã hội phù hợp với trẻ em, (2) Môi trường gia đình đảm bảo để trẻ em phát triển toàn diện, (3) Mọi trẻ em đều được hưởng các quyền cơ bản, (4) Bảo vệ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. 1 5.2. Khung lý thuyết. Điều kiện kinh tế, xã hội của hai xã An Lão, Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Các yếu tố bên ngoài + Nhà trường + Cộng đồng và tổ chức đoàn thể địa phương. + Phương tiện truyền thông đại chúng +Chính sách của Đảng và nhà nước Gia đình – yếu tố bên trong + Điều kiện kinh tế + Nhận thức của gia đình + Truyền thống gia đình. Các yếu tố môi trường + Nền kinh tế thị trường + Sự giao lưu, hội nhập quốc tế. Công tác xây dựng XPPHTE Hiệu quả việc xây dựng mô hình XPPHTE - Chăm sóc trẻ em - Giáo dục trẻ em Hệ quả xã hội 6. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận Sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em. Vận dụng một số lý thuyết về tư tưởng của một số nhà xã hội học trong nghiên cứu về gia đình và trẻ em. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện tốt mục đích, yêu cầu đặt ra, Luận văn dụng phương pháp phân tích các số liệu thống kê cơ bản kết hợp với cách tiếp cận cụ thể, đa chiều, đa đối tượng. Cách tiếp cận cụ thể là tiếp cận từng đối tượng khảo sát trên nguyên tắc của phương pháp nghiên cứu tham dự thông qua phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm và tọa đàm. Phương pháp này có khả năng cung cấp những thông tin chính xác, cụ thể và trực tiếp, không phải qua một khâu trung gian nào. Trong đó, số lượng phỏng vấn sâu là 28 và 12 cuộc thảo luận nhóm, tọa đàm. Cách tiếp cận đa phương, đa chiều là cách tiếp cận bằng nhiều phương pháp. Trong đó, phương pháp phân tích xã hội học là chủ đạo. Ngoài ra, Luận văn cũng coi trọng phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu từ các nguồn sẵn có như: báo cáo của địa phương, cơ sở, các dự án, công trình, đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan. Tiếp cận đa đối tượng là cách tiếp cận có khả năng đưa đến một kết quả toàn diện, sâu sắc và khách quan về các vấn đề khảo sát. Đa đối tượng ở đây là từ trẻ em, bố mẹ, ông bà, anh chị trong gia đình, những người có uy tín trong cộng đồng và cán bộ Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể, xã hội, cán bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số, gia đình và trẻ em. Phương pháp thực chứng Đây là phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp các nguồn tin, tư liệu, số liệu thứ cấp. Nó bao gồm các báo cáo có liên quan của Nhà nước, các Bộ, Ngành ở trung ương; báo cáo của địa phương, cơ sở; báo cáo của các dự án, các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học. Ở đây có thể dùng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh giữa 2 xã nằm trong địa bàn khảo sát của luận văn. Phương pháp phân tích, so sánh Do nhiều điều kiện khác nhau nên địa bàn khảo sát chỉ là 2 xã An Lão, Hưng Công của huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Nhưng để tìm ra những yếu tố tác động đến hiệu quả của việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em”, tác giả đã lựa chọn 1 xã đảm bảo 24 tiêu chí, 1 xã đạt dưới 18 tiêu chí trong bộ tiêu chuẩn xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em”. 7. Kết cấu luận văn. Phần mở đầu Phần nội dung Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. 1.Từ quan điểm xây dựng môi trường sống phù hợp với trẻ em của Liên hiệp quốc đến việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” ở Việt Nam. 1.1 Quan điểm của Liên hiệp quốc về xây dựng “Một thế giới phù hợp với trẻ em” 1.2 Việt Nam và việc xây dựng mô hình “Xã phường phù hợp với trẻ em”. 2. Một số khái niệm công cụ liên quan đến đề tài. 3. Một số lý thuyết và quan điểm của các nhà xã hội học được vận dụng trong đề tài nghiên cứu. Chương 2: Thực trạng và một số yếu tố tác động đến việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em”. 1. Điều kiện kinh tế, xã hội của hai xã An Lão và Hưng Công 2. Thực trạng và một số yếu tố tác động đến việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em”. 2.1. Thực trạng công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và việc xây dựng “Xã, phường phù hợp với trẻ em” tại hai xã An Lão và Hưng Công. 2.1 Một số yếu tố tác động đến hiệu quả việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em”. 3. Hiệu quả Chương 3: Giải pháp Phần kết luận, khuyến nghị PHẦN NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Từ quan điểm xây dựng “Một thế giới phù hợp với trẻ em” của Liên hiệp quốc đến việc xây dựng mô hình “Xã, phường phù hợp với trẻ em” ở Việt Nam. 1.1 Quan điểm của Liên hiệp quốc về xây dựng “Một thế giới phù hợp với trẻ em” Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em là văn bản pháp luật quốc tế đầy đủ nhất về trẻ em được đại đa số các quốc gia phê chuẩn, ký và thừa nhận. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này. Vào những năm cuối của thế kỷ hai mươi, phong trào xây dựng một thế giới phù hợp với trẻ em đã được phát động ở nhiều nơi trên thế giới và ngày càng được thúc đẩy trong bối cảnh toàn cầu hóa để đảm bảo cho mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng và gia đình sự phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo và ngăn chặn sự bất bình đẳng. Bản tuyên bố “Một thế giới phù hợp với trẻ em” đã được phiên họp đặc biệt của Liên hiệp quốc thông qua với sự đồng thuận và cam kết thực hiện của tất cả các quốc gia tham dự, trong đó có Việt Nam. Tên gọi của Tuyên bố cũng đồng thời là phương châm hành động trong thế kỷ mới. “Các chính quyền và nhà chức trách địa phương thông qua bộ máy của mình tại tất cả các cấp có thể đảm bảo rằng trẻ em là trung tâm của sự phát triển. Bằng việc xây dựng những sáng kiến hiện nay như các cộng đồng bạn hữu với trẻ em, các thành phố không có nhà ổ chuột, các thị trưởng và lãnh đạo địa phương có thể cải thiện một cách có ý nghia cuộc sống của trẻ em”1. 1 Vụ trẻ em (2004), Tài liệu hướng dẫn xây dựng Xã phường phù hợp với trẻ em, tr.3 Các nguyên tắc1 sau được nêu trong bản Tuyên bố “Một thế giới phù hợp với trẻ em”: 1) Đặt trẻ em lên trên hết. Trong mọi công việc của chúng ta, quyền lợi tốt nhất của trẻ em phải luôn được đặt lên hàng đầu. 2) Xóa bỏ đói nghèo: đầu tư cho trẻ em. Phá bỏ vòng đói nghèo trong vòng một thế hệ, cùng nhau hợp lực đoàn kết với niềm tin tưởng rằng đầu tư vào trẻ em và thực hiện các quyền của các em là những cách xóa bỏ đói nghèo hiệu quả nhất. 3) Không được đặt vấn đề trẻ em đằng sau mọi việc. Mỗi trẻ em trai hay gái sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tất cả các hình thức phân biệt đối xử có ảnh hưởng đến trẻ em đều phải chấm dứt. 4) Chăm sóc cho mọi trẻ em. Trẻ em phải được khởi đầu bằng cuộc sống tốt đẹp nhất. Sự sống còn, bảo vệ và phát triển về sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em là những nền tảng cơ bản nhất cho sự phát triển của con người. Tạo điều kiện cho các em có cuộc sống vật chất khỏe mạnh, tinh thần sảng khoái, tình cảm đảm bảo, có khả năng về xã hội và học tập. 5) Giáo dục cho mọi trẻ em. Tất cả trẻ em trai và gái đều phải được tiếp cận và hoàn thành giáo dục tiểu học miễn phí, bắt buộc và có chất lượng tốt. 6) Ngăn chặn sự xâm hại và bóc lột trẻ em. Trẻ em phải được bảo vệ khỏi bất kỳ hành động nào xâm hại, bóc lột, lạm dụng và phân biệt. Phải có những hành động ngay tức khắc để loại trừ các hình thức lao động tồi tệ nhất ở trẻ em. 7) Bảo vệ trẻ em khỏi các cuộc chiến tranh. Trẻ em phải được bảo vệ để tránh khỏi những sự khủng khiếp của các cuộc xung đột vũ trang. 8) Chiến đấu chống lại HIV/AIDS. Trẻ em và các gia đình phải được bảo vệ để tránh sự lây nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. 9) Lắng nghe ý kiến trẻ em và đảm bảo sự tham gia của các em. Trẻ em và vị thành niên là những công dân đầy tiềm năng có khả năng xây dựng một tương lai tốt đẹp cho tất cả mọi người. Chúng ta phải tôn trọng các quyền của 1 Vụ trẻ em (2004), Tài liệu hướng dẫn xây dựng Xã phường phù hợp với trẻ em, tr.4 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi trẻ em được tự bày tỏ và tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng đến chính các em theo lứa tuổi và sự khôn lớn. 10) Bảo vệ trái đất cho trẻ em. Môi trường tự nhiên với sự đa dạng của cuộc sống, các nguồn lực và vẻ đẹp sẽ đẩy mạnh chất lượng cuộc sống con người cho các thế hệ hiện tại và tương lai. Chúng ta sẽ tọ mọi điều kiện để bảo vệ trẻ em và giảm thiểu ảnh hưởng của thiên tai và sự xuống cấp của môi trường tới các em. Những nguyên tắc mà Liên hiệp quốc đưa ra cho chúng ta thấy “Một thế giới phù hợp với trẻ em”, một cộng đồng bạn hữu với trẻ em hay xã phường phù hợp với trẻ em đều có nghĩa là phải xây dựng một môi trường sống phù hợp với tất cả mọi người trong cả hiện tại và tương lai. Công ước quốc tế về quyền trẻ em cũng nêu rất rõ về trách nhiệm của cộng đồng, cơ sở trong việc thực hiện quyền trẻ em và hỗ trợ gia đình, cha mẹ chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em. Điều 18 của Công ước quy định: Các quốc gia thành viên phải dành sự giúp đỡ thích hợp cho cha mẹ và người giám hộ pháp lý trong việc thực hiện trách nhiệm nuôi nấng trẻ em và phải đảm bảo sự phát triển những cơ quan, cơ sở và dịch vụ cho việc chăm sóc trẻ. Điều 27 nêu rõ: Các quốc gia thành viên công nhận quyền của mọi trẻ em được có mức sống đủ để phát triển về thể chát, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội. 1.2 Việt Nam và việc xây dựng mô hình “Xã phường phù hợp với trẻ em”. Quan điểm của Liên hiệp quốc trong Tuyên bố “Một thế giới phù hợp với trẻ em” đã thể hiện được sự khái quát hóa, sự kỳ vọng trong việc xây dựng môi trường tốt đẹp phù hợp với trẻ em, đồng thời cũng là phù hợp với tất cả mọi người, mọi thời đại. Trên cơ sở quan điểm hết sức nhân văn và tiến bộ đó, Việt Nam cũng đã thể hiện sự tán thành, ủng hộ không chỉ bằng việc ký cam kết tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc mà hơn thế nữa, những Tuyên bố của Liên hiệp
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan