ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THU HƯỜNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THU HƯỜNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ :
LUẬT QUỐC TẾ
60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Trung Tín
Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục
Hà Nội - 2011
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
5
1.1.
Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu
tố nước ngoài
5
1.1.1.
Định nghĩa bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
5
1.1.2.
Định nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu
tố nước ngoài
10
1.2.
Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có
yếu tố nước ngoài
14
1.2.1.
Chủ thể không cùng quốc tịch, nơi cư trú hay trụ sở
14
1.2.2.
Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại được thực hiện tại nước ngoài
17
1.2.3.
Thiệt hại của hành vi trái pháp luật xảy ra ở nước ngoài
17
1.2.4.
Đối tượng của hành vi trái pháp luật ở nước ngoài
18
1.3.
Xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có yếu tố nước ngoài.
19
1.3.1.
Định nghĩa xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
20
1.3.2.
Nguyên nhân xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
21
1.3.3.
Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
21
1.4.
Cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
có yếu tố nước ngoài
23
1.4.1.
Các điều ước quốc tế
24
1.4.1.1. Điều ước quốc tế đa phương
24
1.4.1.2. Điều ước quốc tế song phương
29
1.4.2.
Nguồn quốc nội của quốc gia
31
4
CHƢƠNG 2: GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
35
2.1.
Áp dụng quy phạm xung đột
35
2.1.1.
Điều ước quốc tế
35
2.1.1.1.
Điều ước quốc tế đa phương
35
2.1.1.2.
Điều ước quốc tế song phương
43
2.1.2.
Pháp luật một số quốc gia
47
2.1.2.1.
Pháp luật Nhật Bản
47
2.1.2.2.
Pháp luật Trung Quốc
53
2.1.2.3.
Pháp luật Thái Lan
62
2.1.3
Pháp luật Việt Nam
67
2.2.
Áp dụng quy phạm thực chất thống nhất
76
2.3.
Áp dụng nguyên tắc tương tự
79
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ
YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
83
3.1.
Thực tiễn giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
83
3.1.1.
Pháp luật các nước
83
3.1.2.
Pháp luật Việt Nam
88
3.2.
Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định Việt Nam về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài.
93
3.2.1
Ký kết và thực hiện các Điều ước quốc tế về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
93
3.2.2.
Hoàn thiện các văn bản pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
94
KẾT LUẬN
103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
105
5
MỞ ĐẦU
Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (BTTHNHĐ) là một trong những chế
định quan trọng trong ngành luật dân sự của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Tuy nhiên, mỗi quốc gia đều có những quy định không giống nhau về căn cứ bồi
thường, cách thức xác định việc bồi thường, các thiệt hại phải bồi thường hay
mức bồi thường cũng không giống nhau. Đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay khi các giao lưu dân sự đang diễn ra ngày càng đa dạng và
phức tạp giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau thì trách nhiệm BTTHNHĐ
có yếu tố nước ngoài đã trở thành một vấn đề mang tính pháp lý quốc tế, là một
trong những nội dung quan trọng của Tư pháp quốc tế.
Hiến pháp năm 1992 tại Điều 74 quy định: “Mọi hành vi xâm phạm lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải
được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường
về vật chất và phục hồi về danh dự”. Với căn cứ pháp lý cao nhất được quy định
tại Hiến pháp thì bất kỳ một chủ thể nào khi xâm phạm đến tài sản, sức khỏe,
tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân thì chủ thể đó phải có trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại
mà mình gây ra không phụ thuộc vào chủ thể đó là ai. Điều này đã trở thành một
nguyên tắc quan trọng trong các giao lưu dân sự hiện nay.
Xuất phát từ các nguyên tắc mang tính chất nền tảng được quy định trong
Hiến pháp, trách nhiệm BTTHNHĐ nói chung và BTTHNHĐ có yếu tố nước
ngoài nói riêng đã được Bộ luật Dân sự năm 2005 và các điều ước quốc tế song
phương, đa phương đề cập đến tương đối chi tiết. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng
các quy định này đã bộc lộ một số hạn chế cần phải khắc phục nhằm đảm bảo
quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể khi tham gia các quan hệ dân sự quốc tế,
góp phần hoàn thiện các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam.
6
Vì vậy, việc tìm hiểu, phân tích, so sánh và đối chiếu những vấn đề pháp
lý liên quan đến trách nhiệm BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài theo pháp luật
Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của Nhật Bản, Trung Quốc và
Thái Lan – những quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Việc nghiên cứu này sẽ góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực
tiễn áp dụng trách nhiệm BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài, trên cơ sở đó đánh
giá các quy định cụ thể của pháp luật trong nước, rút ra những bài học kinh
nghiệm và đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp
luật Việt Nam. Vì vậy, đề tài: “Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo pháp
luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài” không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận
mà còn có ý nghĩa rất thiết thực trong thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích
Luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và các phương pháp giải
quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài theo
Tư pháp quốc tế Việt Nam và một số nước trên thế giới.
Xây dựng một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam về trách nhiệm BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài.
Nhiệm vụ của luận văn
Nghiên cứu cơ sở lý luận về trách nhiệm BTTHNHĐ có yếu tố nước
ngoài.
Đối chiếu các quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế và
pháp luật một số quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc và Thái Lan trong việc
giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài
từ đó rút ra những kinh nghiệm thực tiễn hữu ích cho pháp luật Việt Nam.
Phân tích và chỉ ra những bất cập trong quá trình thực thi các quy định về
BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài trong thực tiễn. Trên cơ sở đó, nêu một số
7
kiến nghị góp phần xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam
về trách nhiệm BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quan hệ BTTHNHĐ có
yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và các nước.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào các quan hệ về BTTHNHĐ
có yếu tố nước ngoài theo các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nhật
Bản, Trung Quốc, Thái Lan và một số điều ước quốc tế.
4. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề
Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và
phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: Phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh.
5. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về bồi thường thiệt hại có yếu tố nước ngoài là một chế định
quan trọng của pháp luật dân sự nói chung và của tư pháp quốc tế nói riêng nên
đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều cuốn sách và
công trình khoa học đề cập đến vấn đề này như: Giáo trình luật dân sự – Trường
đại học Luật Hà nội, Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong
tư pháp quốc tế hiện đại – PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, Bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng – TS.Phùng Trung Tập, Luật bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và bình luận bản án – TS. Đỗ Văn
Đại, Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường – TS.Vũ Thị Hạnh,
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài – TS.
Nguyễn Hồng Bắc, luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hương về “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra”, luận văn thạc sĩ
của tác giả Trần Thị Thu Thủy về “Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra”… Nhìn chung, trong các công
trình khoa học kể trên, vấn đề bồi thường thiệt hại đã được nghiên cứu tương đối
8
cụ thể. Tuy nhiên, các tác giả đã nghiên cứu vấn đề theo một số khía cạnh khác
nhau chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu mang tính chất toàn diện về BTTHNHĐ
có yếu tố nước ngoài dưới góc độ của Tư pháp quốc tế trong tương quan so sánh
với pháp luật một số nước trên thế giới nên tác giả đã lựa chọn vấn đề này làm
đề tài luận văn của mình.
6. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm:
Mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Chương 3: Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam
trong việc giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Kết luận.
9
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố
nƣớc ngoài
1.1.1. Định nghĩa bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
Trong các giao lưu dân sự nói chung thì BTTHNHĐ là một loại nghĩa vụ
dân sự đặc biệt phát sinh trong đời sống xã hội. Điểm đặc biệt này thể hiện
thông qua việc các chủ thể bị gây ra những thiệt hại nhất định. Thiệt hại đó có
thể xuất phát từ những lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của con người, của pháp nhân hay
nhà nước và bên gây thiệt hại phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý nhất định: Bồi
thường thiệt hại.
Theo Từ điển luật học của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp thì thiệt
hại được định nghĩa là “tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản,
quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản, danh dự, uy tín của pháp
nhân hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo vệ” [29, tr.713]. Như vậy, thiệt hại ở
đây không chỉ là các thiệt hại về mặt tài sản mà còn có thể là các thiệt hại về mặt
nhân thân như uy tín, danh dự thậm chí thiệt hại đó còn có thể là sức khỏe, tính
mạng của con người. Trong khi đó, Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan quy
định tại Điều 420: “Một người cố tình hay vô tình làm tổn thương một cách trái
pháp luật đến đời sống, thân thể, sức khỏe, tự do, tài sản hoặc bất cứ quyền nào
của người khác, thì bị coi là phạm một hành vi sai trái và có nghĩa vụ bồi thường
cho sự tổn thương đó”, những hành vi này có thể làm “tổn thương đến uy tín
hoặc lòng tin của người khác, hoặc thu nhập hay sự thịnh vượng của người
khác” [43, Điều 423]. Như vậy, bằng quy định này, pháp luật Thái Lan xác định
thiệt hại trong quan hệ bồi thường là thiệt hại về thân thể, sức khỏe, tự do, tài
sản, các quyền con người.
10
Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định về trách nhiệm của bên vi phạm:
“Người nào cố ý hoặc vô ý xâm phạm quyền của người khác, hoặc các lợi ích
của người khác được pháp luật bảo vệ, sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường bất
kỳ thiệt hại nào là hậu quả phát sinh từ hành vi trái pháp luật đó” [41, Điều 709].
Còn theo Luật trách nhiệm do xâm phạm quyền và lợi ích dân sự của Trung
Quốc được thông qua ngày 26 tháng 12 năm 2009 và có hiệu lực ngày 01 tháng
7 năm 2010 quy định: “Người nào xâm phạm đến quyền và lợi ích dân sự của
người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Quyền và lợi ích dân
sự theo quy định của luật này bao gồm quyền sống, quyền được bảo đảm sức
khỏe, quyền đối với họ tên, quyền đối với uy tín, danh dự, hình ảnh cá nhân,
quyền riêng tư, hôn nhân tự nguyện, giám hộ, sở hữu, quyền bảo mật, bản
quyền, quyền sáng chế độc quyền, quyền sử dụng nhãn hiệu, quyền phát minh,
góp cổ phần, thừa kế, các quyền tài sản và lợi ích cá nhân khác” [38, Điều 2].
Như vậy, pháp luật các nước và pháp luật Việt Nam dù trực tiếp hay gián
tiếp cũng đều quy định về thiệt hại. Thiệt hại đó chính là các thiệt hại về tài sản,
về các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật thừa nhận và
bảo vệ nhưng đã bị các chủ thể khác xâm hại một cách cố ý hoặc vô ý. Đối với
những hành vi xâm phạm những quyền lợi ích hợp pháp đó pháp luật các quốc
gia đều quy định các chủ thể gây thiệt hại đều phải chịu trách nhiệm pháp lý trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Điều 604 Bộ luật Dân sự Việt Nam quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc
lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín tài sản của
pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” [1].
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Bộ luật Dân sự năm 2005 về BTTHNHĐ quy định: Thiệt hại bao gồm thiệt
hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất tinh thần.
11
- Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm hại, thiệt hại do
sức khỏe bị xâm hại, thiệt hại do tính mạng bị xâm hại và thiệt hại do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
- Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính
mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau
thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè
xa lánh do bị hiểu nhầm… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp
tổn thất mà họ phải chịu.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác
không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín
bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất tín nhiệm, uy tín, lòng tin... vì bị
hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ
chức đó phải chịu [22, tr.1].
Thiệt hại xảy ra, điều này có nghĩa là quyền và lợi ích hợp pháp của một
bên thậm chí có trường hợp là các bên đã bị tác động, bị ảnh hưởng tiêu cực từ
bên kia. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ thể đã bị thiệt hại. Pháp luật các quốc gia đều quy định về trách nhiệm của
bên vi phạm đối với bên bị vi phạm. Bên gây thiệt hại có bổn phận, có nghĩa vụ
bồi thường cho những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra, nghĩa
vụ đền bù, bù đắp cho những tổn thất đã xảy ra cho bên bị thiệt hại. Theo quy
định tại Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2005 việc bồi thường có thể được thực
hiện theo các hình thức: Bồi thường bằng tiền, bồi thường bằng hiện vật và bồi
thường bằng cách thực hiện một công việc nhất định nhằm khắc phục thiệt hại.
Mục đích của việc quy định trách nhiệm bồi thường của bên vi phạm
chính là việc “dịch chuyển” thiệt hại từ bên bị thiệt hại sang bên gây thiệt hại.
Việc bồi thường thiệt hại có ý nghĩa như một chế tài dân sự nhằm buộc bên thực
hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại phải “trả giá” cho hành vi của mình bằng
cách trả một khoản tiền để bù đắp, khôi phục lại tình trạng ban đầu, khắc phục
12
những thiệt hại đã xảy ra. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp việc bồi
thường đều đạt được mục đích của mình là bù đắp thiệt hại xảy ra theo nguyên
tắc thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu và các thiệt hại đều được bồi
thường dưới cách thức phổ biến là bồi thường bằng tài sản. Điều này có thể thấy
rõ trong những trường hợp như thiệt hại về tính mạng, sức khỏe thì cho dù mức
bồi thường có lớn đến đâu đi chăng nữa thì thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của
con người là không gì bù đắp được.
Thiệt hại xảy ra là điều kiện xuất hiện quan hệ bồi thường không phân
biệt chủ thể gây thiệt hại hay chủ thể bị thiệt hại là ai. Tham gia quan hệ
BTTHNHĐ có nhiều loại chủ thể khác nhau: cá nhân, pháp nhân hay nhà nước.
Tuy nhiên, đối với mỗi loại chủ thể pháp luật cũng có những quy định riêng và
có sự điều chỉnh pháp lý riêng đối với từng loại chủ thể. Điều 619 và Điều 620
của Bộ luật Dân sự quy định cơ quan nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do cán bộ, công chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ. Điều 30
của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 13 của Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng có
những quy định tương tự. Theo quy định của Hiến pháp mọi hành vi xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức do bất cứ cơ quan nhà nước nào
gây ra thì về nguyên tắc người bị thiệt hại có quyền được bồi thường. Trong
trường hợp các cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thi hành công vụ mà
gây thiệt hại thì cơ quan nhà nước có trách nhiệm bồi thường.
Bồi thường thiệt hại của nhà nước xét dưới góc độ pháp lý là BTTHNHĐ.
Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt là chủ thể gây ra thiệt hại lại là các cán bộ, công
chức - những người đại diện cho quyền lực nhà nước gây thiệt hại trong khi thi
hành công vụ, trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ mà nhà nước giao phó nên
được điều chỉnh bằng văn bản pháp lý riêng - Luật trách nhiệm bồi thường nhà
nước. Luật đã được Quốc hội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2009 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, gồm 8 chương với 67 điều. Luật quy
định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại
do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng,
13
thi hành án; thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại; quyền, nghĩa vụ của cá nhân,
tổ chức bị thiệt hại; kinh phí bồi thường và trách nhiệm hoàn trả của người thi
hành công vụ đã gây ra thiệt hại. Bên cạnh Luật trách nhiệm bồi thường của nhà
nước thì Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH 11 ngày 17 tháng 3 năm 2003
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về bồi thường thiệt hại cho người bị
oan do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Luật bồi
thường nhà nước do tính chất đặc thù của mình được nghiên cứu trong nhiều đề
tài nghiên cứu khoa học khác nên trong luận văn này, tác giả không đề cập tới
mà tập trung vào nghiên cứu bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực dân sự nói
chung.
Một điểm cần lưu ý là cần phân biệt rõ bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Đây là hai loại trách nhiệm của
pháp luật dân sự. Tuy nhiên, trên thực tế, Bộ luật Dân sự năm 2005 tại Chương
XXI quy định về trách nhiệm BTTHNHĐ mà không có một quy định nào về bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu pháp luật thừa nhận trách
nhiệm BTTHNHĐ thì có nghĩa là tồn tại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng. Đối chiếu với Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Bồi
thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi
phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm
giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây
ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm” [17, Điều 302]. Như vậy, Luật Thương mại đã thừa nhận một
loại trách nhiệm pháp lý khác - bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự được áp
dụng đối với các chủ thể không thực hiện, thực hiện không đúng hay không đầy
đủ hợp đồng đã giao kết. Loại trách nhiệm này chỉ phát sinh khi một bên vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng đã giao kết, gây ra thiệt hại và phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại. Như vậy, điều kiện đầu tiên để áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng là giữa các bên phải có quan hệ hợp đồng. Điều
14
kiện thứ hai là hành vi vi phạm của một bên làm phát sinh thiệt hại cho bên kia
phải phát sinh từ việc thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng. Ngoài ra, còn cần có
thiệt hại xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy
ra. Nếu không có các điều kiện này thì quan hệ bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng không phát sinh. Ngoài ra, đối với bồi thường thiệt hại trong hợp đồng các
bên có thể dự liệu và thỏa thuận trước với nhau về những trường hợp xảy ra thiệt
hại, những hành vi được coi là vi phạm hợp đồng, mức bồi thường, phương thức
thực hiện việc bồi thường cũng như những biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ bồi thường.
BTTHNHĐ là một loại trách nhiệm dân sự của bên có lỗi (cố ý hoặc vô
ý), gây hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, gây hại đến danh dự, uy tín, tài sản
của pháp nhân hoặc các chủ thể khác [29, tr.85]. Đây là loại trách nhiệm pháp lý
phát sinh khi trước thời điểm xảy ra thiệt hại các bên không có thỏa thuận hay
không có giao kết hợp đồng hoặc trong các trường hợp các bên có giao kết hợp
đồng nhưng hành vi trái pháp luật làm phát sinh trách nhiệm bồi thường không
xuất phát từ việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu
bên vi phạm phải bồi thường cho những tổn thất đã xảy ra mà mình phải gánh
chịu. Như vậy, cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề BTTHNHĐ không dựa vào
hợp đồng dân sự như bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mà phát sinh ngay khi
có thiệt hại thực tế đã xảy ra do hành vi trái pháp luật.
Như vậy, “BTTTHNHĐ là một loại quan hệ dân sự phát sinh ngoài hợp
đồng trong đó bên xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh sự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác mà gây ra thiệt hại
thì phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra”.
1.1.2. Định nghĩa trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố
nƣớc ngoài
Thiệt hại xảy ra, lợi ích của các bên đã bị xâm hại. Chính vì vậy, pháp luật
quy định bên có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi
15
thường thiệt hại do mình gây ra. Đối chiếu với quy định tại Điều 280 Bộ luật
Dân sự: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây
gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền
hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công
việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là
bên có quyền)”. Như vậy, trường hợp này, có thể đồng nhất trách nhiệm bồi
thường thiệt hại là một dạng của nghĩa vụ dân sự - nghĩa vụ bồi thường do “gây
thiệt hại do hành vi trái pháp luật” hay nói cách khác trách nhiệm bồi thường
thiệt hại chính là một loại nghĩa vụ dân sự, một trách nhiệm dân sự đặc biệt chỉ
phát sinh khi có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại.
Mục đích của việc áp dụng trách nhiệm BTTHNHĐ đó là nhằm khắc
phục, bù đắp những thiệt hại đã xảy ra nhưng điều này không có nghĩa là chủ thể
khi đã bị áp dụng trách nhiệm bồi thường là đã hoàn toàn hết trách nhiệm cũng
không có nghĩa là thiệt hại xảy ra được khắc phục hoàn toàn. Điều này có thể
thấy rõ đối với những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con người hay những
thiệt hại cho môi trường… thì cho dù mức bồi thường có lớn đến đâu đi chăng
nữa những mất mát, tổn thất về tinh thần đối với những người bị thiệt hại hay
đối với những người thân trong gia đình họ là không gì bù đắp được. Do vậy,
việc xác định thiệt hại và áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong mọi
trường hợp không phải là mục tiêu hàng đầu được người bị thiệt hại quan tâm
hay các cơ quan nhà nước mong muốn đạt đến trong quá trình áp dụng pháp
luật. Điều các nhà làm luật mong muốn thông qua chế định này là các bên hãy
biết lựa chọn cách hành xử của mình phù hợp với quy định của pháp luật, tránh
những thiệt hại có thể xảy ra cho các chủ thể khác và việc áp dụng các quy định
này chỉ như là một biện pháp cuối cùng.
Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 307 quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi
thường bù đắp tổn thất về tinh thần. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu
như là chế tài dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải bù đắp, đền
16
bù những tổn thất về vật chất hay tinh thần cho bên bị vi phạm, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể cũng như bảo đảm nguyên tắc công bằng trong
các giao lưu dân sự. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các
nước đều quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên gây thiệt hại với
mục đích để bù đắp, khắc phục những thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra.
Khác với quan điểm về trách nhiệm BTTNNHĐ theo quan điểm của pháp
luật dân sự như đã trình bày trên đây, tư pháp quốc tế với tư cách là một ngành
luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam có đối tượng điều chỉnh là các
quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài lại điều chỉnh các quan hệ
trách nhiệm bồi thường thiệt hại có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài đã
được Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 758 quy định rất cụ thể: “Quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là
cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam
nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước
ngoài”. Như vậy, yếu tố nước ngoài trong quan hệ bồi thường được xác định khi
có ít nhất một trong các yếu tố sau:
Thứ nhất, các bên chủ thể tham gia trách nhiệm BTTHNHĐ bao gồm bên
gây hại và bên bị thiệt hại không cùng quốc tịch, không cùng nơi cư trú hoặc
không cùng trụ sở trên lãnh thổ một quốc gia.
Trách nhiệm BTTHNHĐ do luật dân sự điều chỉnh là các quan hệ bồi
thường không có yếu tố nước ngoài hay cụ thể là các chủ thể tham gia phải có
cùng quốc tịch hoặc cùng nơi cư trú trên lãnh thổ quốc gia. Trong khi đó, tư
pháp quốc tế lại điều chỉnh các quan hệ mà trong đó bên gây thiệt hại và bên bị
thiệt hại phải có quốc tịch khác nhau hay nơi cư trú khác nhau đối với cá nhân
hay trụ sở khác nhau đối với pháp nhân.
Thứ hai, hành vi gây ra thiệt hại hoặc hậu quả thực tế của hành vi gây ra
thiệt hại xảy ra ở nước ngoài.
17
Hành vi làm phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ phải là hành vi trái pháp
luật. Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện
thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.
Tính trái pháp luật của hành vi thể hiện thông qua việc xâm phạm đến tài sản,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân một cách trái pháp luật. Tính
trái pháp luật của hành vi có thể được thể hiện dưới dạng: Không làm những
việc pháp luật bắt buộc phải làm; Làm những việc mà pháp luật cấm hoặc làm
những việc vượt quá giới hạn cho phép của pháp luật.
Hành vi trái pháp luật được thực hiện tại nước ngoài gây ra thiệt hại làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp này thì không bắt buộc các
chủ thể phải không cùng quốc tịch, nơi cư trú hay trụ sở. Chỉ cần hành vi trái
pháp luật được thực hiện tại nước ngoài gây ra thiệt hại hoặc hành vi trái pháp
luật được thực hiện ở trong nước nhưng hậu quả thực tế của hành vi này lại phát
sinh tại nước ngoài thì quan hệ bồi thường thiệt hại đó cũng được coi là
BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài.
Thứ ba, đối tượng của hành vi gây thiệt hại ở nước ngoài. Trường hợp
này đối tượng của hành vi gây thiệt hại này có thể là tài sản và tài sản này phải ở
nước ngoài. Tài sản trong quan hệ bồi thường không bắt buộc phải là động sản
hay bất động sản, tài sản hữu hình hay tài sản vô hình, cũng không bắt buộc về
nguồn gốc xuất xứ, nhưng có điều tài sản này phải đang tồn tại ở một quốc gia
khác với quốc gia các bên chủ thể mang quốc tịch hay khác với quốc gia nơi
hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại được thực hiện.
Như vậy, việc xác định quan hệ BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài hay
không phải dựa vào ba căn cứ cơ bản là chủ thể, nơi thực hiện hành vi, nơi có
đối tượng của hành vi để xác định. Một quan hệ bồi thường có thể mang một
yếu tố hoặc cũng có thể mang cả ba yếu tố trên. Trường hợp quan hệ bồi thường
mang các dấu hiệu này thì quan hệ này đã trở thành đối tượng chịu sự điều chỉnh
của Tư pháp quốc tế - một ngành luật mà đối tượng điều chỉnh lại là các quan hệ
18
dân sự, lao động, thương mại, hôn nhân gia đình và tố tụng dân sự có yếu tố
nước ngoài.
Qua phân tích trên, tác giả rút ra định nghĩa sau về trách nhiệm
BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài: “Trách nhiệm BTTHNHĐ có yếu tố nước
ngoài là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phát sinh khi có thiệt hại xảy ra và
có ít nhất một trong ba yếu tố nước ngoài sau: Thứ nhất, các bên tham gia quan
hệ không cùng quốc tịch hoặc nơi cư trú; Thứ hai, sự kiện gây thiệt hại hoặc
hậu quả thiệt hại xảy ra ở nước ngoài; Thứ ba, đối tượng bị thiệt hại ở nước
ngoài”.
1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu
tố nƣớc ngoài.
1.2.1. Chủ thể không cùng quốc tịch, nơi cƣ trú hay trụ sở
Đặc điểm nổi bật đầu tiên của các quan hệ xã hội được Tư pháp quốc tế
điều chỉnh là yếu tố nước ngoài của các quan hệ này. Yếu tố nước ngoài đầu tiên
phải kể đến đó là điểm khác biệt về chủ thể. Chủ thể đó có thể là cá nhân, pháp
nhân, trường hợp cá biệt có thể là nhà nước. Trường hợp chủ thể của các quan
hệ này là cá nhân thì các cá nhân đó phải không cùng quốc tịch hoặc không cùng
nơi cư trú. Trường hợp chủ thể là pháp nhân thì các pháp nhân này phải không
cùng quốc tịch hay không được có trụ sở trên cùng lãnh thổ quốc gia.
Theo Luật quốc tịch Thái Lan (luật B.E. 2508) quy định tại Điều 4:
“Người nước ngoài là người không có quốc tịch Thái Lan”. Như vậy, theo cách
quy định này thì đối tượng được coi là người nước ngoài theo pháp luật Thái
Lan sẽ bao gồm những người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc
tịch. Cách hiểu này cũng tương tự như các quy định của pháp luật Việt Nam.
Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài Điều 3, khoản 2 quy định: “Người nước ngoài là người không có
quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không có
19
quốc tịch”[20]. Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại khác quốc tịch
thì quan hệ bồi thường này sẽ chịu sự điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.
Tuy nhiên, cách thức xác định quốc tịch, nơi cư trú của cá nhân hay xác
định trụ sở của pháp nhân theo pháp luật các nước cũng có nhiều điểm khác
nhau. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định: “Nơi cư trú pháp lý
của một thể nhân là nơi người đó có địa chỉ cư trú chính”; “Nếu một thể nhân có
nhiều nơi cư trú khác nhau hoặc nhiều chỗ làm việc thường xuyên khác nhau, thì
một trong số nơi cư trú hoặc chỗ làm việc này phải được coi như là nơi cư trú
pháp lý của người đó”; “Nếu không rõ nơi cư trú pháp lý thì nơi cư trú hiện tại
sẽ được coi như nơi cư trú pháp lý của người đó” [43, Điều 44, 45, 46].
Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 tại Điều 52 quy định: “1. Nơi cư trú
của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. 2. Trường hợp không xác
định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư
trú là nơi người đó đang sinh sống”. Cụ thể hoá quy định này của Bộ luật dân
sự, Điều 12 Luật cư trú năm 2011 quy định: “Nơi cư trú của công dân là chỗ ở
hợp pháp người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi
thường trú hoặc nơi tạm trú”. Như vậy, giữa pháp luật Việt Nam và Thái Lan
cũng có điểm tương đồng khi xác định nơi cư trú của cá nhân khi cùng dựa trên
cơ sở là nơi có địa chỉ cư trú hay còn gọi là nơi đăng ký thường trú (Việt Nam
còn gọi là nơi có hộ khẩu). Trường hợp không xác định định được nơi thường
trú thì xác định theo nơi tạm trú.
Đối với pháp nhân thì sự khác biệt thể hiện ở quốc tịch hay nơi có trụ sở
của pháp nhân. Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về căn cứ xác định
quốc tịch của pháp nhân. Phần lớn các nước Châu Âu xác định quốc tịch của
pháp nhân theo nơi đặt trung tâm quản lý của pháp nhân như Pháp, Italia, Thụy
Sĩ... Các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ và một số nước Châu Mỹ
latinh xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi đăng ký điều lệ, còn các nước ở
khu vực Ả rập như Ai Cập, Xyri… lại xác định quốc tịch pháp nhân theo nơi
kinh doanh, sản xuất chính [28, tr.48]. Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005
20
không quy định về cách thức xác định quốc tịch của pháp nhân. Tuy nhiên, Luật
Doanh nghiệp năm 2005 quy định: “Quốc tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của
nước, vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh” [15, Điều
4, khoản 20]. Như vậy, có thể khẳng định pháp luật Việt Nam xác định quốc tịch
của pháp nhân theo quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi pháp nhân được thành
lập mà không phụ thuộc vào pháp nhân đó hoạt động ở đâu hay có trụ sở ở quốc
gia nào.
Bên cạnh sự khác biệt về quốc tịch, trường hợp các bên đều là pháp nhân
thì pháp nhân phải có trụ sở ở các nước khác nhau. Bộ các nguyên tắc pháp luật
dân sự Trung Hoa quy định tại Điều 36: “Một pháp nhân là một tổ chức có các
quyền dân sự và năng lực dân sự và độc lập hưởng các quyền dân sự và nghĩa vụ
dân sự theo quy định của pháp luật”. “Trụ sở của pháp nhân là nơi đặt văn
phòng hành chính” [35, Điều 39]. Như vậy, pháp luật Trung Quốc xác định trụ
sở pháp nhân căn cứ vào nơi đặt cơ quan quản lý, điều hành của pháp nhân.
Tương tự như pháp luật Trung Quốc, Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan
Điều 71 quy định: “Nơi cư trú pháp lý của một pháp nhân là nơi mà pháp nhân
có trụ sở chính của mình hoặc là nơi được lựa chọn làm nơi cư trú pháp lý đặc
biệt trong điều lệ hoặc trong văn bản thành lập pháp nhân đó. Nơi mà pháp nhân
có trụ sở chi nhánh cũng có thể được coi là nơi cư trú pháp lý của nó đối với
những hành vi thực hiện tại đó”. Bộ luật Dân sự Việt Nam quy định tại Điều 90:
“Trụ sở của pháp nhân là nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân”. Như vậy,
pháp luật Việt Nam, Trung Quốc hay Thái Lan cũng đều quy định trụ sở của
pháp nhân theo nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân.
Như vậy, trong trách nhiệm BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài nếu các bên
chủ thể là cá nhân thì phải có quốc tịch khác nhau hoặc cư trú ở các quốc gia
khác nhau; đối với pháp nhân thì phải có trụ sở hay quốc tịch khác nhau. Trường
hợp các bên chủ thể có cùng quốc tịch, cùng nơi cư trú hay trụ sở, hành vi trái
pháp luật lại được thực hiện trong nước thì không chịu sự điều chỉnh của tư pháp
quốc tế mà sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự của mỗi quốc gia.
21
- Xem thêm -