Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số kinh nghiệm nhằm áp dụng hiệu quả phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học...

Tài liệu Một số kinh nghiệm nhằm áp dụng hiệu quả phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học môn khoa học lớp 4

.PDF
26
87
113

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ TRUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM NHẰM ÁP DỤNG HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT VÀO DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 4. MINH HỌA QUA BÀI: NƯỚC CÓ NHỮNG TÍNH CHẤT GÌ? Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường TH Thị Trấn Hà Trung SKKN thuộc lĩnh vực: Khoa học THANH HOÁ NĂM 2017 MỤC LỤC Nội dung Trang 1. MỞ ĐẦU 1 1 1 1 1 2 2 3 3 3 1.1. Lí do chọn đề tài 1.2. Mục đích nghiên cứu 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Nghiên cứu kĩ tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” và một số kinh nghiệm để áp dụng hiệu quả vào thực tế dạy học 2.3.1.1. Nghiên cứu tiến trình dạy học theo phương pháp“Bàn tay nặn bột” 2.3.1.2. Một số điều cần lưu ý để vận dụng hiệu quả tiến trình dạy học trên vào thực tế dạy học 2.3.2. Tiến hành thực nghiệm dạy học: Bài 12: Nước có những tính chất gì? theo phương pháp Bàn tay nặn bột 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục và bản thân 2.4.2. Khả năng ứng dụng và triển khai đối với đồng nghiệp và nhà trường 2.4.3. Ý nghĩa sáng kiến 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận 3.1.1. Cần định hướng cho học sinh 3.1.2. Cần thực hiện tốt các công việc của người thầy trong khâu tổ chức 3.1.3. Cần làm tốt khâu tổ chức lớp học 3.2. Kiến nghị 3.2.1. Đối với giáo viên 3.2. 2. Đối với nhà trường 4 5 11 15 15 16 16 17 17 17 17 19 19 19 20 DANH MỤC KÍ HIỆU, CHỮ CÁI VIẾT TẮT BTNB: Bàn tay nặn bột GV: Giáo viên HS: Học sinh Hoạt động cá nhân Hoạt động cặp đôi Hoạt động nhóm Hoạt động chung cả lớp 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài    "Bàn tay nặn bột" là một chiến lược về giáo dục khoa học, được Giáo sư Georges Charpak (người Pháp) sáng tạo ra và phát triển từ năm 1995 dựa trên cơ sở khoa học của sự tìm tòi - nghiên cứu, cho phép đáp ứng những yêu cầu dạy học mới. Phương pháp "Bàn tay nặn bột" (BTNB) đã được vận dụng, phát triển và có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ ở Pháp mà còn ở nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.    Ở nước ta, đề án phương pháp “Bàn tay nặn bột” giai đoạn 2011 - 2015 được Bộ GD&ĐT triển khai thử nghiệm từ năm 2011 và chính thức triển khai trong các trường phổ thông từ năm học 2013 - 2014 và đưa vào áp dụng đại trà từ năm học 2014 - 2015. Đây là phương pháp dạy học hiện đại, có nhiều ưu điểm trong việc: “Tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp Bàn tay nặn bột còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh” [2]. Từ đó, giúp HS phát triển tư duy khoa học. Xác định phương pháp “Bàn tay nặn bột” là phương pháp dạy hình thành kiến thức cho học sinh (HS) bằng các thí nghiệm, thông qua cách HS chia nhóm để tự làm, tự trao đổi, nghiên cứu, quan sát để tìm ra câu trả lời cho các vấn đề trong cuộc sống, người thầy chỉ đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn. Trong quá trình thực hiện phương pháp mới này, thầy và trò đều phải nỗ lực nhiều hơn. Dạy học theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên (GV) phải có tầm hiểu biết rộng, có sự chuẩn bị công phu cho mỗi giờ học từ dụng cụ thí nghiệm, trang thiết bị học tập đến các tình huống có thể xảy ra trong quá trình HS làm thí nghiệm. Bởi lúc bắt tay vào làm thí nghiệm, khi thấy có bất cứ hiện tượng gì xảy ra, các em đều đặt ngay câu hỏi “Vì sao?”. Điều này đòi hỏi GV phải vững kiến thức để cùng các em giải đáp các thắc mắc, lý giải các hiện tượng một cách khoa học. Tuy nhiên, khi tiến hành các tiết dạy theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”, bản thân tôi cũng như nhiều GV còn gặp rất nhiều khó khăn. Làm thế nào để giải đáp các thắc mắc của HS? Lí giải các hiện tượng cho HS như thế nào để đảm bảo tính khoa học, đảm bảo tính tự nhiên?... Trước những trăn trở đó, tôi đã suy nghĩ, tìm tòi xây dựng “Một số kinh nghiệm nhằm áp dụng hiệu quả phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học môn Khoa học lớp 4”. Minh họa qua bài: Nước có những tính chất gì? 1.2. Mục đích nghiên cứu Đề tài này nghiên cứu, đưa ra một số kinh nghiệm nhỏ nhằm áp dụng hiệu quả phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học môn Khoa học ở lớp 4, minh họa qua bài: Nước có những tính chất gì? 1.3. Đối tượng nghiên cứu   Đề tài tập trung nghiên cứu việc sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học môn Khoa học cho học sinh khối 4 sao cho có hiệu quả nhất. 1.4. Phương pháp nghiên cứu 1 Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết; điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin; thống kê, xử lí số liệu; quan sát; thực nghiệm; thực hành luyện tập; gợi mở, vấn đáp; giải thích. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm        Theo quan điểm của Georges Charpar: “Bàn tay nặn bột” vượt quá sự tách đôi truyền thống giữa phương pháp và chương trình. Trong đó, trẻ em hành động, thí nghiệm, nghiên cứu, tìm kiếm và có những câu hỏi đi kèm, hướng tới xây dựng những kiến thức cơ bản để hiểu biết thế giới tự nhiên và kỹ thuật” [2]. Đây là phương pháp dạy học tiên tiến và hiện đại đang được áp dụng nhiều trong dạy học ở các nước trên thế giới, giúp học sinh chiếm lĩnh được tri thức một cách trực quan, sinh động và lâu bền nhất. Ở Việt Nam, trong năm học 2016-2017, phương pháp “Bàn tay nặn bột” đang được tiến hành, đặc biệt chiếm ưu thế trong giảng dạy môn Khoa học vì: Khoa học là môn học chiếm vị trí quan trọng ở Tiểu học, tích hợp kiến thức nhiều ngành học, bước đầu hình thành và phát triển cho các em những kỹ năng cần thiết như quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học đơn giản, gần gũi với đời sống sản xuất, nêu thắc mắc và đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm thông tin để giải đáp; biết diễn đạt những biểu cảm bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, phân tích so sánh rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một số sự vật hiện tượng đơn giản trong tự nhiên…. Để đạt được mục tiêu giáo dục, Hs cần chủ động chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng môn học. Tên các bài học trong sách giáo khoa thường được trình bày dưới dạng một câu hỏi, lúc hoàn thành bài học cũng là lúc HS tìm được câu trả lời cho câu hỏi. Điều này rất hợp với phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Đồng thời, phương pháp này phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của HS Tiểu học - đang ở giai đoạn bắt đầu tìm hiểu mạnh mẽ các kiến thức khoa học, hình thành các khái niệm về khoa học, tò mò, thích thú, muốn tự trải nghiệm, tự lĩnh hội, muốn thể hiện mình trước tập thể và được tập thể lớp tôn trọng. Phương pháp này rất thích hợp với chương trình Dự án Mô hình Trường học mới Việt Nam bởi hình thức dạy học có điểm tương đồng giúp HS được trải nghiệm, tự lĩnh hội kiến thức thông qua: Hoạt động cá nhân - Hoạt động cặp đôi - Hoạt động nhóm - Hoạt động chung cả lớp - Hoạt động với cộng đồng. “Bàn tay nặn bột” chính là phương pháp học tập độc lập, sáng tạo, đáp ứng được mục tiêu yêu cầu đổi mới hiện nay. Việc áp dụng phương pháp này sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng là vấn đề hết sức cần thiết góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Có như vậy mới hình thành cho HS phương pháp học tập đúng đắn, giúp các em thực sự trở thành “chủ thể” tìm kiếm tri thức. Tôi hy vọng rằng phương pháp dạy học này được sử dụng thường xuyên, liên tục và quen thuộc bởi GV trong các nhà trường Tiểu học hiện nay.  2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2 “Bàn tay nặn bột” là phương pháp dạy học hướng tập trung vào HS, phát huy tính chủ động của các em. Với phương pháp này, HS tự tìm tòi, nghiên cứu, thí nghiệm để giải quyết vấn đề và đưa ra kết luận. Từ năm học 2011-2012 đến nay gần được 6 năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn khuyến khích đưa phương pháp này vào giảng dạy ở các trường Tiểu học. Tuy nhiên, trong thực tế một số GV vẫn còn chưa mạnh dạn áp dụng phương pháp mới này vào dạy học. Nhiều giáo viên vẫn có thói quen dạy học môn Khoa học, Tự nhiên & Xã hội theo cách dạy học trước đây. Họ chưa dành nhiều thời gian để học tập, nghiên cứu phương pháp dạy học mới, ngại sự chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm. Trong quá trình thực hiện, thay vì để học sinh tự tìm tòi nghiên cứu trước các sự vật, hiện tượng tự nhiên thì không ít giáo viên lại để học sinh đọc trước nội dung bài học, học sinh công nhận kiến thức một cách miễn cưỡng không phát huy được tính tò mò ham hiểu biết của HS. Tiến hành dự giờ các tiết dạy theo phương pháp BTNB tôi thấy: GV đã sử dụng chưa đúng 5 bước dạy của phương pháp này, không đúng quy trình nên hiệu quả chưa cao do đó ảnh hưởng đến chất lượng học của HS. Ngoài một số ít HS biết làm việc tập thể, hợp tác, trao đổi, trình bày các ý kiến cá nhân, biết làm một số thí nghiệm thực hành đơn giản thì đa số HS chưa thực sự hứng thú học tập, chưa dám bày tỏ những điều mình nghĩ, không được trực tiếp làm thí nghiệm, chỉ đọc sách và ghi nhớ kiến thức một cách thụ động. Dẫn đến, giờ học thiếu sinh động, không khí học tập còn nặng nề, các em chưa thật sự chú tâm tới bài học, ít tò mò, ít đặt ra những câu hỏi thắc mắc và hầu như mơ hồ về biểu tượng của những sự vật, hiện tượng mà các em được tìm hiểu, sự lập luận còn kém, các kỹ năng thực hành còn vụng về, lúng túng. Việc vận dụng những kiến thức mà các em thu thập được vào thực tiễn là khoảng cách khá xa, bởi vì các em thiếu hẳn kỹ năng thực hành, chưa có thói quen ghi lại những gì mà các em quan sát được. Việc xác lập mục đích quan sát và mục đích thí nghiệm còn kém. Vì vậy, đầu năm học này, tôi tiến hành khảo sát các kĩ năng học tập theo PP BTNB - đã tiếp thu được từ lớp dưới - của học sinh lớp 4A (Trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm) kết quả như sau: Lớp Tổng số 4A 25 Kĩ năng phán đoán (Đặt câu hỏi) SL 4 TL 16% Kĩ năng quan sát, làm thí nghiệm SL 5 TL 20% Hoàn thành KTKN bài học BTNB SL TL 13 52% 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Nghiên cứu kĩ tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” và một số kinh nghiệm để áp dụng hiệu quả vào thực tế dạy học 2.3.1.1.Nghiên cứu tiến trình dạy học theo phương pháp“Bàn tay nặn bột” 3 Để vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” đúng mục đích, chúng ta thường tuân theo tiến trình dạy học gồm 5 bước [3]. Cụ thể như sau: Các bước Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề [3] Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh[3]. Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm [3]. Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu [3]. Nhiệm vụ của HS - Quan sát, suy nghĩ Nhiệm vụ của GV - GV chủ động đưa ra một tình huống mở có liên quan đến vấn đề khoa học đặt ra. - Câu hỏi nêu vấn đề đảm bảo ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu… - Bộc lộ quan niệm ban đầu nêu - GV khuyến khích HS nêu những suy nghĩ từ đó hình những suy nghĩ … bằng nhiều thành câu hỏi, giả thuyết... bằng cách: nói, viết, vẽ. nhiều cách: nói, viết, vẽ. - GV quan sát nhanh để tìm các Đây là bước quan trọng hình vẽ khác biệt. đặc trưng của PP BTNB. a. Đề xuất câu hỏi - GV giúp HS đề xuất câu hỏi - Từ các khác biệt và phong liên quan đến nội dung bài học phú về biểu tượng ban đầu, HS - Kiểm soát lời nói, cấu trúc câu đề xuất câu hỏi liên quan đến hỏi, chính xác hoá từ vựng của nội dung bài học HS. b, Đề xuất phương án thực - GV đặt câu hỏi đề nghị HS đề nghiệm xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên - Bắt đầu từ những vấn đề khoa cứu để trả lời cho câu hỏi đó. học được xác định, HS xây - GV ghi lại các cách đề xuất dựng giả thuyết. của HS (không lặp lại) HS trình bày các ý tưởng của - GV nhận xét chung và quyết mình, đối chiếu nó với ý tưởng định tiến hành PP thí nghiệm đã của những bạn khác. chuẩn bị sẵn (Nếu HS chưa đề xuất được GV có thể gợi ý hay đề xuất phương án cụ thể) (chú ý làm rõ và quan tâm đến sự khác biệt giữa các ý kiến) HS hình dung có thể kiểm - Nêu rõ yêu cầu, mục đích thí chứng các giả thuyết bằng… nghiệm sau đó mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm thí nghiệm (Ưu tiên thí - GV bao quát và nhắc nhở các nghiệm trực tiếp trên vật thật) nhóm chưa thực hiện, hoặc thực …quan sát, hiện sai… Tổ chức việc đối chiếu các ý …điều tra 4 …nghiên cứu tài liệu. - HS sinh ghi chép lại vật liệu thí nghiệm, cách bố trí, và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay hình vẽ), - HS kiểm chứng các giả thuyết của mình bằng một hoặc các phương pháp đã hình dung ở trên (thí nghiệm, quan sát, điều tra, nghiên cứu tài liệu). Thu nhận các kết quả và ghi chép lại để trình bày HS kiểm tra lại tính hợp lý của Bước 5: các giả thuyết mà mình đưa ra Kết luận * Nếu giả thuyết sai: quay lại và bước 3. hợp thứchoá * Nếu giả thuyết đúng: kiến thức Thì kết luận và ghi nhận chúng. [3]. kiến sau một thời gian tạm đủ mà HS có thể suy nghĩ Khẳng định lại các ý kiến về phương pháp kiểm chứng giả thuyết mà HS đề xuất. - GV không chỉnh sửa cho HS Tập hợp các điều kiện thí nghiệm nhằm kiểm chứng các ý tưởng nghiên cứu được đề xuất. Giúp HS phương pháp trình bày các kết quả. Động viên HS và yêu cầu bắt đầu lại tiến trình nghiên cứu. Giúp HS lựa chọn các lý luận và hình thành kết luận. - Sau khi thực hiện nghiên cứu, các câu hỏi dần dần được giả quyết, các giải thuyết dần dần được kiểm chứng tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chính xác một cách khoa học. - GV tóm tắt, kết luận và hệ thống lại kiến thức bài học. - GV khắc sâu kiến thức bằng cách đối chiếu biểu tưởng ban đầu. 2.3.1.2 Một số điều cần lưu ý để vận dụng hiệu quả tiến trình dạy học trên vào thực tế dạy học a. Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do GV chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với HS. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. GV phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề. Ví dụ: Khi dạy: Bài 7: Bạn có biết các bệnh về dinh dưỡng?(Trang 39 - Hướng dẫn học KH 4 - Tập 1) [1]. Gv cần nêu vấn đề: Nếu ăn thiếu chất dinh dưỡng cơ thể chúng ta sẽ bị mắc bệnh gì ? Nếu ăn thừa chất dinh dưỡng cơ thể con người sẽ như thế nào ? 5 Bài 8: Sử dụng thức ăn sạch và an toàn, phòng bệnh lây qua đường tiêu hóa (Trang 45 - Hướng dẫn học KH 4 - Tập 1) [1]. GV có thể nêu vấn đề: Nếu sử dụng thức ăn không sạch và không an toàn chúng ta sẽ bị mắc bệnh gì? Cần làm gì để phòng bệnh lây qua đường tiêu hóa? Bài 19: Gió, bão (Trang 109 - Hướng dẫn học KH 4 - Tập 1) [1]. Gv cần nêu vấn đề: Làm thế nào để tạo ra gió? Gió khác gì so với bão? b. Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh Làm bộc lộ quan niệm ban đầu hay biểu tượng ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi hay giả thuyết của HS là bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp BTNB. Khi yêu cầu HS trình bày quan niệm ban đầu, GV có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức biểu hiện của HS như có thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ. Khi thực hiện bước này, GV cần lưu ý các vấn đề sau: - Biểu tượng ban đầu của HS thường là quan niệm hay khái quát chung chung về sự vật hiện tượng, có thể sai hoặc chưa thực sự chính xác về mặt khoa học. Vì là lần đầu tiên được hỏi đến nên HS ngại nói, sợ sai và sợ bị chê cười. Do đó, GV cần khuyến khích HS trình bày ý kiến của mình. Cần biết chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai của HS khi trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng ban đầu có thể trình bày bằng lời nói hay viết, vẽ ra giấy. Biểu tượng ban đầu là quan niệm cá nhân nên GV phải đề nghị HS làm việc cá nhân để trình bày biểu tượng ban đầu.   - Nếu một vài HS nào đó nêu ý kiến đúng, GV không nên vội vàng khen ngợi hoặc có những biểu hiện chứng tỏ ý kiến đó là đúng vì nếu làm như vậy GV đã vô tình làm ức chế các HS khác tiếp tục muốn trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng ban đầu của HS càng đa dạng, phong phú, càng sai lệch với kiến thức đúng thì tiết học càng sôi nổi, thú vị, gây hứng thú cho HS và ý đồ dạy học của GV càng dễ thực hiện hơn. - Khi HS làm việc cá nhân để đưa ra biểu tượng ban đầu bằng cách viết hay vẽ ra giấy thì GV nên tranh thủ đi một vòng quan sát và chọn nhanh những biểu tượng ban đầu không chính xác, sai lệch lớn với kiến thức khoa học. Nên chọn nhiều biểu tượng ban đầu khác nhau để đối chiếu, so sánh ở bước tiếp theo của tiến trình phương pháp. Làm tương tự khi HS nêu biểu tượng ban đầu bằng lời nói. Giáo viên tranh thủ ghi chú những ý kiến khác nhau lên bảng. Những ý kiến tương đồng nhau thì chỉ nên ghi lên bảng một ý kiến đại diện vì nếu ghi hết sẽ rất mất thời gian và ghi nhiều sẽ gây khó khăn việc theo dõi các ý kiến khác nhau của GV cũng như của HS. - Chú ý chỉ ghi những quan niệm nào phục vụ cho mục tiêu, nội dung yêu cầu hoạt động đang đề cập, tránh ý kiến “lạc” mục đích yêu cầu hoạt động đang tìm hiểu. - Sau khi có các biểu tượng ban đầu khác nhau, phù hợp với ý đồ dạy học, GV giúp HS phân tích những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa các ý kiến, từ đó hướng dẫn cho HS đặt câu hỏi cho những sự khác nhau đó. Ví dụ: 6 Khi dạy: Bài 4: Các chất dinh dưỡng có vai trò gì? (Trang 18 - Hướng dẫn học KH 4 - Tập 1) [1]. Yêu cầu HS làm việc và phát biểu cá nhân trước lớp. Chẳng hạn: Hs nêu: Các chất dinh dưỡng giúp ta học giỏi. Các chất dinh dưỡng giúp cơ thể hoạt động. Các chất dinh dưỡng giúp ta lớn lên. Các chất dinh dưỡng giúp ta chạy nhảy. Các chất dinh dưỡng làm ta béo phì. Các chất dinh dưỡng giúp ta sáng mắt. Các chất dinh dưỡng giúp ta thông minh hơn. Các chất dinh dưỡng ăn nhiều nặng bụng. Gv cần khen ngợi HS về tinh thần học tập đồng thời dẫn dắt tiếp: Để biết được ý kiến nào phù hợp, chúng ta tiếp tục khẳng định qua: Bài 4: Các chất dinh dưỡng có vai trò gì? nhé. Bài 7: Bạn có biết các bệnh về dinh dưỡng? (Trang 39 - Hướng dẫn học KH4 - Tập 1) [1]. HS vẽ hình hoặc đưa ra ý kiến: Bệnh béo phì. Bệnh gầy còm, còi xương Mẹ tớ nói thế. Bệnh quáng gà, mờ mắt. Bệnh suy nhược cơ thể Bài 13: Sự chuyển thể của nước (Trang 68 - Hướng dẫn học KH4 - Tập 1) [1]. Gv gợi mở: Nước trong tự nhiên tồn tại ở những thể nào? HS phát biểu hoặc vẽ: Nước ở thể lỏng. Nước đá. Nước bốc hơi. Nước tan chảy. Nước ở thể rắn, ... Lưu ý: Hs có thể nêu nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều thì GV phải kiên nhẫn lắng nghe, ghi nhanh hay bằng câu hỏi dẫn dắt để giúp HS tiếp tục khám phá bài học. c. Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm * Đề xuất câu hỏi: Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của HS, GV giúp HS đề xuất câu hỏi. Chú ý xoáy sâu vào những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học. Đây là một bước khá khó khăn vì GV cần phải chọn lựa các biểu tượng ban đầu tiêu biểu trong hàng chục biểu tượng của HS một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt giúp các em đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó theo ý đồ dạy học. * Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu: Từ các câu hỏi được đề xuất, GV nêu câu hỏi cho HS suy nghĩ đề xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó. Sau khi HS đề xuất phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, GV nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương pháp thí nghiệm phù hợp. Trường hợp HS không đưa ra được phương án thích hợp, GV có thể gợi ý hay đề xuất cụ thể phương án (nếu gợi ý mà HS vẫn chưa nghĩ ra). Bước đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay các giải pháp tìm câu trả lời của HS cũng là một bước khá phức tạp, đòi hỏi GV phải có kỹ năng sư phạm để điều khiển tiết học, tránh để HS đi quá xa yêu cầu nội dung của bài học. Tùy từng 7 trường hợp cụ thể mà GV có phương pháp phù hợp, tuy nhiên cần chú ý mấy điểm sau: - Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm chứng minh thì GV có thể cho HS trả lời trực tiếp phương án mà HS đề xuất.        - Đối với các kiến thức phức tạp, thí nghiệm cần thực hiện để kiểm chứng, HS khó đề xuất đầy đủ và chuẩn xác, GV có thể chuẩn bị một loạt các vật dụng liên quan đến việc làm thí nghiệm (không dùng để làm thí nghiệm) sau đó yêu cầu các nhóm lên lấy các đồ dùng cần thiết để làm thí nghiệm chứng minh. Như vậy, HS sẽ phải suy nghĩ để tìm những vật liệu hợp lý cho ý tưởng thí nghiệm của mình. Với phương pháp này, GV có thể định hướng HS làm thí nghiệm không quá xa với thí nghiệm cần làm, đồng thời cũng dễ dàng chuẩn bị vật liệu thí nghiệm cho tiết học. Chú ý khi đưa các vật liệu làm thí nghiệm phải ghi chú rõ tên các vật dụng hoặc giới thiệu nhanh cho học sinh biết các vật dụng trong hộp đựng dụng cụ thí nghiệm. Nên để một số vật dụng có công dụng gần giống nhau để HS có thể thiết kế các thí nghiệm với nhiều kiểu thí nghiệm khác nhau cùng chức năng. - Phương án tìm câu trả lời hay thí nghiệm kiểm chứng đều xuất phát từ những sự khác biệt của các ý tưởng ban đầu (biểu tượng ban đầu) của HS, vì vậy GV nên xoáy sâu vào các điểm khác biệt gây tranh cãi đó để giúp HS tự đặt câu hỏi thắc mắc và thôi thúc học sinh đề xuất các phương án để tìm ra câu trả lời.        - Một số phương án tìm câu trả lời có thể không phải làm thí nghiệm mà tìm câu trả lời bằng cách nghiên cứu các tài liệu (sách giáo khoa, từ rơi thông tin khoa học do GV cung cấp…), hoặc quan sát (trên vật thật, trên mô hình, tranh vẽ khoa học,…).        - Đối với HS tiểu học, GV nên giúp các em suy nghĩ đơn giản với các vật liệu thí nghiệm thân thiện, quen thuộc, hạn chế dùng những thí nghiệm phức tạp hay dùng những vật dụng thí nghiệm quá xa lạ đối với HS.        - Khi HS đề xuất phương án tìm câu trả lời, GV không nên nhận xét phương án đó đúng hay sai mà chỉ nên hỏi ý kiến các HS khác nhận xét, phân tích. Nếu các HS khác không trả lời được thì GV gợi ý những mâu thuẫn mà phương án đó không đưa ra câu trả lời được nhằm gợi ý để HS tự rút ra nhận xét và loại bỏ phương án. GV cũng có thể ghi chú trên bảng một lượt các ý kiến khác nhau rồi yêu cầu cả lớp cho ý kiến nhận xét. - GV cũng nên chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống HS không nêu được phương án tìm câu trả lời hoặc các phương án đưa ra quá ít, nghèo nàn về ý tưởng (đối với những trường hợp có nhiều phương án tìm câu trả lời). Ví dụ: Khi dạy bài: Bài 7: Bạn có biết các bệnh về dinh dưỡng? (Trang 39 Hướng dẫn học KH4 - Tập 1) [1]. HS đề xuất phương án thực nghiệm: Làm sao biết được các bệnh về dinh dưỡng? Muốn biết các bệnh về dinh dưỡng ta nên ăn thử xem; Ta nên hỏi mẹ vì mẹ là người nội trợ nên hiểu hết; Quan sát hình ảnh; Ta đọc trong tài liệu Hướng dẫn học. 8 GV: Lắng nghe HS đề xuất, ghi nhanh phương án: Đọc Tài liệu Hướng dẫn học, xem phim, báo, tìm kiếm thông tin trên mạng, tham khảo ý kiến người lớn, … Để khẳng định được ý kiến nào đúng mời các em tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu theo nhóm. Bài 13: Sự chuyển thể của nước (Trang 68 - Hướng dẫn học KH4 - Tập 1) HS đề xuất: Muốn biết được các thể của nước trong tự nhiên, ta cần quan sát thực tế ở thiên nhiên; Chúng ta múc được nước để tưới cây hay sinh hoạt hàng ngày nên biết được nước ở thể lỏng; Ghé mặt vào nước ấm thì mặt bị ướt, biết được nước có thể bay hơi nên nước ở thể khí; Ở nhà, chúng ta thường lấy đá ở tủ lạnh để uống cho đỡ nóng, đá lạnh là nước ở thể rắn. Gv: Các em muốn biết nước trong tự nhiên tồn tại ở những thể nào, chúng ta cùng lần lượt làm thí nghiệm để chứng minh điều đó. d. Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu Từ các phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu mà HS nêu ra, GV khéo léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm hay các thiết bị dạy học thích hợp để HS tiến hành nghiên cứu. GV nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm hoặc yêu cầu HS cho biết mục đích của thí nghiệm chuẩn bị tiến hành. Sau đó, GV mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt động. Trong quá trình hướng dẫn HS phân tích thông tin, hiện tượng quan sát khi nghiên cứu để đưa ra kết luận, GV cần chú ý mấy điểm sau:           - Lệnh thực hiện phải rõ ràng, gắn gọn, dễ hiểu để giúp HS nhớ, hiểu và làm theo đúng hướng dẫn. Đôi khi, GV nên ghi tóm tắt lệnh của mình lên bảng (nếu dùng máy chiếu thì phóng lệnh lên màn hình).          - Quan sát, bao quát lớp khi HS làm thí nghiệm. Gợi ý vừa đủ nghe cho nhóm khi HS làm sai lệch hoặc đặt chú ý vào những chỗ không cần thiết. Không nên nói to vì sẽ gây nhiễu cho các nhóm HS khác đang làm đúng, vì tâm lý HS khi nghe GV nhắc thì cứ nghĩ là GV đang hướng dẫn cách làm đúng và nghi ngờ vào hướng thực hiện mà mình đang làm.          - Đối với các thí nghiệm cần quan sát một số hiện tượng trong thí nghiệm để rút ra kết luận, GV nên lưu ý cho HS chú ý vào các hiện tượng hay phần thí nghiệm đó để lấy thông tin, nhắc nhở HS bám vào mục đích của thí nghiệm: Để làm gì?, Trả lời cho câu hỏi nào?…          - Đối với các thí nghiệm cần đo đạc, lấy số liệu, GV yêu cầu HS ghi chép lại các số liệu để từ đó rút ra nhận xét. Tốt nhất nên có mẫu ghi chú kết quả thí nghiệm cho HS để HS ghi ngắn gọn, khoa học (thông qua các tờ rời phát cho HS lúc bắt đầu làm thí nghiệm). Điều này đối với HS tiểu học là rất cần thiết vì HS chưa thể tự mình thành lập bảng biểu hay trình bày khoa học các số liệu, thông tin thu nhận trong quan sát hay làm thí nghiệm.           - Cùng một thí nghiệm kiểm chứng nhưng các nhóm khác nhau HS có thể sẽ bố trí thí nghiệm khác nhau với các vật dụng và cách tiến hành khác nhau theo quan niệm của các em, GV không được nhận xét đúng hay sai và cũng không có biểu hiện để học sinh biết ai đang làm đúng, ai đang làm sai. Khuyến khích HS độc lập thực hiện giữa các nhóm, không nhìn và học theo nhau. Tất 9 nhiên không tránh khỏi việc HS nhìn nhóm khác để thực hiện khi nhóm mình làm không thành công thí nghiệm. Nếu phát hiện được điều này, GV không nên ngăn chặn hay có thái độ không hài lòng mà cứ để các nhóm hoàn thành hết và sẽ gọi nhóm "copy ý tưởng" của nhóm khác trình bày, giải thích ý tưởng. Nếu nhóm "copy ý tưởng" và nhóm bị "copy ý tưởng" đều thực hiện thí nghiệm không thành công thì đây là dịp để GV giáo dục cho HS cần độc lập suy nghĩ và tin tưởng vào sự suy luận của mình không nên "copy ý tưởng" của người khác vì có thể họ cũng không đúng. Ví dụ: Khi dạy bài: Bài 7: Bạn có biết các bệnh về dinh dưỡng? (Trang 39 - Hướng dẫn học KH 4 - Tập 1) [1]. GV yêu cầu các nhóm ghi phiếu các tình huống: Làm sao để biết các bệnh về dinh dưỡng? Những việc nên làm và không nên làm để phòng bệnh béo phì? HS: Quan sát thực tế và hình ảnh để biết các bệnh về dinh dưỡng. HS: Thường xuyên theo dõi chiều cao, cân nặng, khám sức khỏe. HS: Ăn nhiều rau xanh và quả chín theo khả năng. HS: Luyện tập thể dục thể thao, lao động vừa sức, .... HS: Không nên ăn quá nhiều thức ăn chứa chất bột dường, chất béo HS: Không nên ăn thiếu i - ốt Bài 13: Sự chuyển thể của nước (Trang 68 - Hướng dẫn học KH4 - Tập 1) HS: Làm thí nghiệm: - Úp chiếc đĩa lên cốc nước nóng thấy nước bốc hơi đọng lại trên đĩa. - Bỏ nước vào khay, đặt vào trong tủ lạnh, nước đông đặc thành đá. - Lấy khay đá để ra khỏi tủ lạnh, đá tan chảy thành nước. e. Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức Sau khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại, HS tự ghi lại vào vở, coi như kiến thức của bài học. GV khắc sâu lại kiến thức cho HS bằng cách cho học sinh nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (quan niệm ban đầu). Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, chính HS tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải do GV nhận xét một cách áp đặt. Chính HS tự phát hiện những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp HS ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu khiến thức. Ví dụ: Khi dạy bài: Bài 7: Bạn có biết các bệnh về dinh dưỡng? (Trang 39 - Hướng dẫn học KH4 - Tập 1) [1]. GV có thể tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả: Béo phì là lớn con, to con, mập,…; Nêu được tác hại của béo phì. Nguyên nhân của các bệnh về dinh dưỡng; Bệnh béo phì, thừa cân là do ăn quá nhiều nhiều thức ăn chứa nhiều chất bột đường, chất béo; Bệnh chảy máu chân răng là do cơ thể thiếu vi – ta – min C; Bệnh bướu cổ: do thiếu I ốt, ... 10 Bài 13: Sự chuyển thể của nước (Trang 68 - Hướng dẫn học KH4 - Tập 1) [1]. HS: Nước bốc hơi là nước ở thể khí (hơi); Nước trong tủ lạnh đông thành đá là nước ở thể rắn; Nước đá tan chảy hay nước trong tự nhiên là nước ở thể lỏng. GV giúp HS hiểu về sự chuyển thể của nước: Nước ở: thể lỏng đông đặc Thể rắn Nước ở: thể rắn nóng chảy Thể lỏng Nước ở: thể lỏng bay hơi Thể khí Nước ở: thể khí ngưng tụ Thể lỏng Tuy nhiên, việc dạy học theo phương pháp BTNB hoàn toàn khác nhau giữa các lớp khác nhau, phụ thuộc vào trình độ của HS. Giảng dạy theo phương pháp BTNB bắt buộc GV phải năng động, không theo một khuôn mẫu nhất định (một giáo án nhất định). GV được quyền biên soạn tiến trình giảng dạy của mình phù hợp với từng đối tượng HS, từng lớp học. Để giảng dạy theo phương pháp BTNB hiệu quả cần phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau: 1) HS cần phải hiểu rõ câu hỏi đặt ra hay vấn đề trọng tâm của bài học. Đạt yêu cầu này, bắt buộc HS phải tham gia vào bước hình thành các câu hỏi. 2) Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học. 3) Tìm tòi, nghiên cứu khoa học đòi hỏi HS nhiều kĩ năng, một trong các kĩ năng cơ bản đó là thực hiện quan sát có chủ đích. 4) Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm mà HS còn cần phải biết lập luận, trao đổi; biết diễn đạt cho mình và cho người khác hiểu. 5) Dùng tài liệu khoa học để kết thúc quá trình tìm tòi - nghiên cứu. 6) Khoa học là một công việc cần sự hợp tác.   Từ việc nghiên cứu kĩ các bước trong tiến trình dạy học, nguyên tắc cần đảm bảo khi dạy học theo phương pháp BTNB, trong năm học này tôi đã mạnh dạn vận dụng phương pháp dạy học mới vào trong quá trình dạy học môn Khoa học lớp 4 một cách thường xuyên. Sau đây là một trong các tiết dạy mà tôi đã áp dụng dạy học theo phương pháp BTNB.   2.3.2. Tiến hành thực nghiệm dạy học: Bài 12: Nước có những tính chất gì? theo phương pháp Bàn tay nặn bột Bài 12: Nước có những tính chất gì? (Tiết 1) 1. Mục tiêu: Sau bài học, em: - Phát hiện được một số tính chất của nước qua quan sát, làm thí nghiệm. - Nêu được một số hiện tượng thường gặp liên quan đến tính chất của nước. [1]. 2. Đồ dùng dạy - học: GV chuẩn bị: Khay đựng nước, tấm kính. Phiếu học tập (Bảng 1 - HĐ1HĐCB - Có điều chỉnh) 11 Các giác quan cần sử Nước Cốc sữa dụng để quan sát Lưỡi - nếm Vị (em nếm được) Mũi - ngửi Mùi (em ngửi thấy) M ắt - nhìn Màu (em nhìn thấy) HS chuẩn bị theo nhóm: - Hai cốc thuỷ tinh giống nhau: một cốc đựng nước và một cốc đựng sữa. - Ba cốc thủy tinh trắng đựng nước - Chai và một số vật chứa nước có hình dạng khác nhau bằng thủy tinh hoặc nhựa trong có thể nhìn thấy rõ nước đựng ở trong. - Một bảng con, một miếng vải, bông, giấy thấm, túi ni lông, quả bóng bay,… một ít đường, muối, cát đã rửa sạch… và thìa. - Bút dạ, bảng nhóm. 3. Các hoạt động dạy - học: Hoạt động dạy * Khởi động: (1’) BVN cho lớp hát bài: Mưa rơi *Kiểm tra bài cũ: (2’) + Em cần làm gì để phòng tránh tai nạn đuối nước? GV nhận xét, tuyên dương HS. * Giới thiệu bài: (6’) Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề GV: Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta tiếp xúc thường xuyên với nước như: mưa, tắm, giặt, ăn uống, ... Vậy các em đã biết được điều gì về nước? Theo các em nước có những tính chất gì ? Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của HS - GV yêu cầu HS ghi lại những hiểu biết ban đầu của mình vào vở ghi chép khoa học về tính chất của nước, sau đó thảo luận theo nhóm 4 ( đã chia sẵn theo mô hình Trường học mới Việt Nam) ghi lại kết quả trên bảng nhóm. Hoạt động học HS hát HS trả lời HS nhận xét HS thực hiện 10 bước học tập HS lắng nghe và suy nghĩ HS nêu suy nghĩ Ví dụ: Một số suy nghĩ ban đầu: + Nước có mùi, nước nhìn thấy được. + Nước không có mùi, chúng ta không nhìn thấy được nước. + Nước có vị lợ. 12 + Nước có nhiều màu sắc khác nhau. + Nước có nhiều mùi khác nhau. Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và Ví dụ: Các câu hỏi liên quan đến thiết kế phương án thực nghiệm tính chất của nước do HS đề xuất: - Từ việc suy đoán của HS do cá nhân (các + Nước có mùi gì? nhóm) đề xuất, GV tập hợp thành các + Chúng ta có thể nhìn thấy được nhóm biểu tượng ban đầu rồi hướng dẫn nước không? HS so sánh sự giống nhau và khác nhau + Nước có vị gì? của các ý kiến ban đầu, sau đó giúp các em + Nước có hình dạng nào? đề xuất các câu hỏi liên quan đến nội dung +Chúng ta có thể cầm được nước kiến thức tìm hiểu về tính chất của nước. không? GV ghi bảng các câu hỏi và phương án + Vì sao nước có nhiều màu khác thực nghiệm: nhau? 1. Hãy nhìn, ngửi, nếm xem nước có màu, +Vì sao nước có nhiều mùi vị mùi, vị gì. khác nhau. 2. Nước có hình dạng gì? + Nước thấm qua một số vật ? 3. Nước chảy như thế nào? + Nước hòa tan được các chất ? 4. Nước có thể hòa tan một số chất không? 5. Nước có thể thấm qua một số vật nào ? GV: Để khẳng định được dự đoán nào chính xác, mời các em tìm hiểu qua Bài 12: Nước có những tính chất gì? A. Hoạt động cơ bản :(31’) Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi, nghiên cứu GV yêu cầu HS viết dự đoán vào vở ghi - HS ghi dự đoán vào vở. chép khoa học. - HS đề xuất nhiều cách khác GV chốt lại cách thực hiện tốt nhất là làm nhau. thí nghiệm. HĐ1: Quan sát và trả lời: (5’) * Để khẳng định: Nước có màu, có mùi, có vị gì ? - Yêu cầu HS quan sát hai cốc thủy tinh Cốc (1) đựng nước và 1 cái thìa, Cốc (2) đựng nước, sữa đã khuấy đều và 1 thìa. Trao đổi và trả lời câu hỏi tại nhóm: a) Lấy một cốc nước uống. b) Hãy ngửi và nếm xem nước có mùi gì, vị gì. c) So sánh màu của nước với màu của sữa. Hs quan sát, trả lời: - Cá nhân suy nghĩ - Cặp đôi tiến hành thí nghiệm: HS quan sát: - Nhìn vào 2 cốc: Cốc nước: trong suốt, không có màu, nhìn rõ cái thìa để trong cốc. Cốc sữa: có màu trắng đục, không nhìn thấy rõ chiếc thìa để trong cốc. 13 [1]. - GV kết luận tại nhóm: Nước là chất lỏng trong suốt không màu, không mùi, không vị. [1]. Bổ sung: * Để trả lời câu hỏi: Nước có hình dạng gì ? GV cho HS thực hành thí nghiệm: - GV yêu cầu: Ban học tập ở các nhóm múc nước lần lượt đổ đầy vào các vật dụng nhóm đã chuẩn bị và đặt ở nhiều vị trí, tư thế khác nhau. - GV yêu cầu: Đổ bớt nước ở chai, lọ, cốc, ... để lại 1/4 hoặc 1/3 nước, đậy chặt nắp và đặt chúng ở các vị trí, tư thế khác nhau. Yêu cầu HS quan sát và trả lời câu hỏi: + Nước có hình dạng nhất định không? GV khẳng định tại nhóm: Chai, lọ, cốc, ... là những vật có hình dạng nhất định. Rút ra kết luận: Nước không có hình dạng nhất định.[1]. HĐ2: Làm thí nghiệm: (11’) * Để trả lời câu hỏi: Nước chảy như thế nào? GV cho HS thực hành thí nghiệm: a) Đổ nước lên mặt một tấm kính (hoặc nhựa, gỗ, ...) đặt nằm nghiêng trên một khay nằm ngang. Quan sát và nhận xét. 1. Nước chảy như thế nào trên mặt kính? 2. Xuống khay, nước chảy tiếp tục như thế nào?[1]. - GV quan sát, tương tác nhóm (nếu cần) - GV kết luận: Nước chảy từ cao xuống - Nếm lần lượt từng cốc: Nước: không có vị. Cốc sữa: có vị ngọt của sữa. - Ngửi lần lượt từng cốc: Nước: không có mùi. Cốc sữa: có mùi của sữa. HS: Lấy bảng 1 và ghi kết quả quan sát vào bảng 1 - Thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến, báo cáo GV: Nước không màu, không mùi, không vị. NT: Đặt chai, lọ, cốc có hình dạng đã chuẩn bị sẵn lên bàn. - Cá nhân suy nghĩ - Cặp đôi tiến hành thí nghiệm - NT điều khiển thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến, báo cáo GV: Đặt chai, lọ, ... ở bất kì vị trí nào thì hành dạng của chúng không thay đổi. Nước có hình dạng chai, lọ, vật chứa nước. Hình dạng của nước thay đổi. HS thực hiện thí nghiệm: - Cá nhân thực hiện, quan sát - Cặp đôi thực hiện, thảo luận - NT điều khiển nhóm quan sát, thảo luận và rút ra kết luận: Nước chảy trên tấm kính đặt nghiêng từ cao xuống, lan khắp mặt kính, tràn ra ngoài rơi xuống khay. Khi xuống đến khay, nước chảy tràn ra mọi phía. 14 thấp, lan ra khắp mọi phía.[1]. - GV nêu vấn đề: + H1: Khi vô ý làm đổ nước ra bàn, em thường làm thế nào? + H2: Tại sao người ta có thể dùng vải để lọc nước mà không lo nước ngấm hết vào vải? * Để trả lời câu hỏi: Nước có thể thấm qua một số vật nào ? GV cho HS thực hành thí nghiệm: b) Đặt chiếc khăn khô vào khay, đổ từ từ nước vào khăn. Hãy cho biết điều gì xảy ra với chiếc khăn. - Bổ sung: Đổ nước vào quả bóng bay (hoặc bao ni lông, nhúng vải, giấy vào nước...). Gv quan sát, tương tác và chốt kiến thức tại nhóm: Nước thấm qua một số vật và không thể thấm qua một số vật. HĐ 3: Thực hành và nhận xét: (10’) + Nước có thể hòa tan được một số chất không ? Làm sao để biết được? Mời các em tiếp tục thực hiện thí nghiệm. - Cho lần lượt muối, đường, cát sạch hòa vào ba cốc nước, dùng thìa khuấy đều. Quan sát và nhận xét. GV hỏi trong nhóm: Sau khi tiến hành thí nghiệm, các em có nhận xét gì về tính chất của nước? GV nhận xét và chốt tại nhóm: Nước có thể hoà tan một số chất. HĐ 4: Đọc và viết vào vở: (5’) Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức - GV tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả sau khi thực hiện xong hoạt động cơ bản. * Mời ban học tập lên cho các bạn chia sẻ - HS trả lời. - HS lần lượt tiến hành các thí nghiệm. - Cá nhân thực hiện, quan sát - Cặp đôi thực hiện, thảo luận - NT điều khiển nhóm quan sát, thảo luận và rút ra kết luận: Vải, bông giấy, khăn khô, ... là những vật có thể thấm nước. Quả bóng bay, nhựa, ni lông, ... không thấm nước. - Hs: Ta cho chất đó vào trong cốc nước, khuấy đều lên sẽ biết chất đó có hòa tan được trong nước hay không. - Cá nhân thực hiện, quan sát - Cặp đôi thực hiện, thảo luận - NT điều khiển nhóm quan sát, thảo luận và rút ra kết luận: Đường, muối hòa tan trong nước; cát không hòa tan trong nước. Nước hoà tan được một số chất. - HS ghi kết luận vào vở (Khuyến khích HS kết luận bằng sơ đồ). HS báo cáo với GV kết quả những việc em đã làm. * Ban học tập cho các bạn chia sẻ: 15 về những điều đã nắm được qua tiết học. Qua tiết học này, các bạn đã biết được điều gì? - Gv theo dõi Từ thực tế quan sát và tiến hành - GV hướng dẫn HS so sánh lại với các suy thí nghiệm, bạn đã nắm được nghĩ ban đầu của mình ở bước 2 để khắc kiến thức gì về nước? ... sâu kiến thức và ghi kết luận vào vở Khoa HS có thể nêu: Nước là chất lỏng học. trong suốt, không màu, không mùi, không vị, không có hình dạng nhất định. Nước chảy từ cao xuống thấp, lan ra khắp mọi phía, thấm qua một số vật và có - GV nhận xét, đánh giá, tuyên dương HS thể hòa tan một số chất. - GV: Trong cuộc sống hàng ngày, chúng HS nhận xét, đánh giá. ta vận dụng những tính chất của nước để HS lắng nghe. làm gì? Để biết rõ điều đó các em sẽ được tìm hiểu tiếp ở tiết 2. Dặn dò HS chuẩn bị tiết 2. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục và bản thân "Bàn tay nặn bột" được hiểu là phương pháp tạo cho HS tích cực, chủ động trong học tập. HS phải tự làm các thí nghiệm để tiếp thu các kiến thức khoa học. Các em tiếp cận tri thức như một quá trình nghiên cứu của chính bản thân. Qua nội dung tiết học "Nước có những tính chất gì?"( Tiết 1), với vai trò người dẫn dắt, gợi mở cho HS hướng suy nghĩ, tự các em quan sát và đưa ra những suy đoán ban đầu. Sau đó, GV cùng HS xây dựng kiến thức bằng cách tiến hành thí nghiệm để tìm ra lời kết luận cho vấn đề chứ không phải dạng thuyết trình truyền thống.   HS lớp 4A vô cùng hào hứng và thích thú với phương pháp giảng dạy mới này. Các em được chia theo từng nhóm, tích cực tranh luận, chủ động đưa ra suy đoán và trình bày ý kiến cá nhân. Bằng những dụng cụ đơn giản như chai nước sạch, cốc sứ, cát, muối, đường, khay nhựa, túi nilon, bảng gỗ, khăn bông...Các em tự thực hiện những thí nghiệm nhỏ để đưa ra kết luận về mùi vị, màu sắc, hình dạng và tính chất riêng biệt của nước.  Từ việc quan sát, ghi chép, khảo sát HS qua các tiết dạy - đã áp dụng theo tinh thần của sáng kiến - về các kĩ năng thực hiện và vận dụng theo phương pháp BTNB kết quả như sau: Kĩ năng phán đoán Kĩ năng quan sát, Hoàn thành (Đặt câu hỏi) làm thí nghiệm KTKN bài học Lớp Tổng số BTNB SL TL SL TL SL TL 4A 25 15 60% 21 84% 25 100% 16 Theo phương pháp mới này, GV và HS đã được tiếp cận vấn đề bằng cách tiến hành thực nghiệm rồi mới tổng quát thành lý thuyết. HS hiểu bản chất, nguồn gốc vấn đề và nắm vững kiến thức lâu hơn, giờ học sôi nổi, hấp dẫn và hiệu quả, HS được bộc lộ tối đa năng lực học tập của bản thân. HS được rèn kỹ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn bằng ngôn ngữ, sơ đồ tư duy, … tự tin khi trình bày quan điểm trước nhóm và tập thể lớp. Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi tự nhận thấy đã có những giờ dạy áp dụng phương pháp BTNB hiệu quả và thành công. 2.4.2. Khả năng ứng dụng và triển khai đối với đồng nghiệp và nhà trường Đề tài đã được tôi áp dụng cho HS lớp 4A trường tôi năm học 2016-2017. Sau một thời gian áp dụng phương pháp mới này vào thực tế dạy học tôi thấy giờ học Khoa học có sử dụng phương pháp BTNB thật sinh động, dưới sự hướng dẫn của GV, HS hoạt động là chủ yếu. HS tỏ ra hứng thú, có khả năng phát triển tư duy lôgíc, trí tưởng tượng, rèn kỹ năng thực hành. Các em nhớ kiến thức lâu, nhớ bài ngay tại lớp. Với cách làm việc cá nhân, cặp đôi, nhóm, hoạt động chung cả lớp, các em trở nên đoàn kết, tự tin hơn và chia sẻ kinh nghiệm cho nhau trong quá trình học tập. Tuân thủ theo các biện pháp nêu trên, các đồng nghiệp đều có thể áp dụng trong các lớp và trường khác đạt hiệu quả cao. 2.4.3. Ý nghĩa sáng kiến Qua quá trình áp dụng phương pháp BTNB vào dạy học môn Khoa học lớp 4 có thể nhận thấy sự ham thích của HS, các em rất hứng thú với những hoạt động tìm hiểu kiến thức mới. Điều này chứng tỏ, HS luôn ham thích được học tập, hăng say tìm tòi và sáng tạo. HS tự khám phá kiến thức bài học, từ những thắc mắc ban đầu, các em làm thí nghiệm và đưa ra câu trả lời, từ đó các em nắm chắc kiến thức hơn. Khi đã học phương pháp này ở các môn Khoa học và Tự nhiên & Xã hội, HS dễ dàng học các môn khác theo hướng tự nghiên cứu, tự khám phá. Tôi nghĩ, những biện pháp trên không phải là khó so với những gì chúng ta đã và đang làm. Nhưng để có được hiệu quả như mong muốn thì bản thân mỗi GV cần tham khảo, nghiên cứu kỹ để áp dụng phù hợp với đối tượng HS của mình. Tôi tin rằng, sáng kiến này hẳn là những cẩm nang hữu ích, mang lại hiệu quả nhất định cho mỗi GV trong quá trình áp dụng phương pháp BTNB vào thực tế dạy học của mình. 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Để sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột thực sự có hiệu quả, đòi hỏi GV và HS cần tuân thủ theo các nguyên tắc sau: 3.1.1. Cần định hướng cho học sinh 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan