Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số kinh nghiệm giúp học sinh còn hạn chế năng lực khi học toán lớp 4...

Tài liệu Một số kinh nghiệm giúp học sinh còn hạn chế năng lực khi học toán lớp 4

.PDF
27
11
69

Mô tả:

1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đang tiến hành cuộc cách mạng toàn diện trên mọi lĩnh vực với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới đó, đổi mới giáo dục là một trong những trọng tâm của Đảng. Sự đổi mới giáo dục nhằm tạo ra những con người toàn diện có phẩm chất đạo đức, có sức khỏe, có tri thức, năng động và sáng tạo. Vậy để giáo dục phát triển toàn diện về mọi mặt đó là trách nhiệm của những người làm công tác giáo dục nói chung, của giáo viên nói riêng. Để thực hiện được nhiệm vụ giáo dục toàn diện cho học sinh thì giáo viên không thể được xem nhẹ một môn học nào. Cùng với các môn học mà Bộ GD & ĐT đã quy định thì môn Toán cũng chiếm một vị trí quan trọng vì học tốt môn toán giúp học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt. Ngoài ra học tốt môn toán học sinh mới có điều kiện để học tốt các môn học khác. Kiến thức của môn toán là có tính chất kế thừa và xâu chuỗi. Kế thừa từ bài học này đến bài học khác, từ lớp học dưới đến lớp học trên. Nếu các em bị hổng kiến thức cơ bản về môn toán thì các em sẽ chán học, không thích học và dẫn đến học ngày càng hạn chế năng lực về môn toán so với trình độ chung của cả lớp. Trong một lớp học điều tất yếu là phải có các đối tượng học sinh: hoàn thành và học sinh chưa hoàn thành. Vì vậy mỗi giáo viên cần phải thực hiện tốt được công việc phân loại đối tượng học sinh và vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp cho từng đối tượng. Tuy nhiên mọi học sinh đều không học tập dễ dàng như nhau, có những học sinh nắm kiến thức toán học rất nhanh chóng và sâu sắc mà không cần có sự cố gắng đặc biệt, trong khi đó một số em khác lại không thể đạt được kết quả như vậy, mặc dù đã cố gắng rất nhiều, đó là những em học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán. Vì thế việc dạy các em học sinh chưa hoàn thành ở môn Toán lên trình độ hoàn thành quả là một vấn đề không đơn giản. Giải quyết được vấn đề này tức là góp được một phần vào khắc phục tình trạng học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán ở Tiểu học. Để giúp đỡ học sinh còn hạn chế năng lực nói chung và học sinh học còn hạn chế năng lực về môn Toán nói riêng là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên chúng ta. Việc giúp học sinh còn hạn chế năng lực học tập tiến bộ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, ngoài ra còn giúp các em có niềm tin vượt qua khó khăn của bản thân để vươn lên tiến bộ trong học tập. Những điều trăn trở đó cũng chính là những lí do mà tôi đã chọn nghiên cứu, viết sáng kiến kinh nghiệm 1 “ Một số kinh nghiệm giúp học sinh còn hạn chế năng lực khi học môn Toán lớp 4” nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng học tập môn Toán. 1.2. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu về “Giúp học sinh còn hạn chế năng lực khi học môn Toán lớp 4” từ đó đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm giúp việc giảng dạy đạt kết quả cao góp phần nâng cao chất lượng chung của toàn trường. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Học sinh khối 4 Trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu lí luận (SGK, SGV, tài liệu,....) - Nghiên cứu thực tiễn ( điều tra, thực nghiệm,...) - Xử lí thông tin,... 1 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận Trong các môn học ở trường tiểu học, môn Toán chiếm một vị trí quan trọng góp phần thiết thực vào việc hình thành phương pháp học tập và rèn luyện tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh. Các kiến thức và kĩ năng của môn toán có nhiều ứng dụng trong cuộc sống và rất cần thiết cho con người,… Môn Toán còn góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và có tác phong khoa học. Dạy toán ở Tiểu học nói chung và môn toán ở lớp 4 nói riêng nhằm giúp học sinh biết vận dụng những kiến thức toán học, được rèn luyện kĩ năng thực hành. Môn Toán ở lớp 4 được sắp xếp hợp lí, đan xen các mạch kiến thức phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 4 nhằm hình thành và phát triển trình độ tư duy của học sinh. Các em biết phát triển và tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét so sánh, phân tích tổng hợp, rút ra kết luận. Từ đó mà trang bị cho các em kĩ năng tự học, tự tìm tòi. Song trong thực tế giảng dạy giáo viên phải chủ động hướng dẫn, tổ chức linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học để mỗi cá nhân học sinh tự phát hiện và tự giải quyết bài học thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới, với các kiến thức liên quan đã học. Đó là các cơ sở để giúp các em học sinh còn hạn chế năng lực vươn lên và tự hoàn thiện mình. Muốn nâng cao chất lượng môn Toán mỗi cán bộ giáo viên cần phải nâng cao ý thức trách nhiệm tinh thần học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn tiếp cận với phương pháp dạy học mới. Trong thực tế học sinh tiểu học rất yêu thích học Toán. Vậy làm thế nào để các em dễ tiếp thu bài. Tôi đã vận sáng tạo đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng thành tạo các thiết bị dạy học, làm đồ dùng dạy học phục vụ cho bài giảng hấp dẫn sinh động hơn. Để đạt được kết quả tốt tôi luôn tìm tòi, nghiên cứu bài dạy và tham gia các lớp học chuyên đề, tập huấn, đọc thêm các tài liệu tham khảo, học hỏi thêm đồng nghiệp để truyền thụ cho các em có được kiến thức vững vàng. 2.2. Thực trạng Trong thực tế giảng dạy tại trường tiểu học nhiều năm tôi nhận thấy rằng: trong quá trình học toán ở lớp 4, học sinh còn gặp phải nhiều những vướng mắc sau: - Khả năng tính toán chậm do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần thục, dẫn đến tính toán thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng. Có nhiều lỗ hổng về kiến thức. 2 Tiếp thu kiến thức chậm, không hình thành được kĩ năng. - Học sinh còn lẫn lộn giữa cách chuyển đổi các đơn vị đo (đơn vị đo diện tích, đơn vị đo khối lượng, đơn vị đo độ dài) áp dụng sai công thức tính chu vi và diện tích vào giải toán. Làm các bài tập lựa chọn còn theo cảm tính. - Phương pháp học tập chưa tốt. - Sai sót khi cộng, trừ phân số khác mẫu số. Lẫn lộn khi thực hiện nhân, chia phân số. Năng lực tư duy còn hạn chế. - Có thái độ thờ ơ với việc học tập, ngại cố gắng, thiếu tự tin (ngay cả khi làm đúng bài tập, giáo viên hỏi lại học sinh còn ngập ngừng không tin là đúng) - Các em không thích môn toán vì môn toán khô khan không có hình ảnh sinh động như những môn học khác. Sự phát triển nhận thức của học sinh cùng lứa tuổi không đồng đều trong hoạt động tư duy. Có những nét riêng với từng em, việc lĩnh hội kiến thức trước đó không đầy đủ, thiếu vững chắc, thái độ học toán của các em chưa tốt. - Không hệ thống được lượng kiến thức đã học. Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không chuẩn bị bài ở nhà. - Không vận dụng được kiến thức của bài trước cho bài sau. - Các em còn hạn chế năng lực tính chậm, chủ yếu dựa vào trực quan hoặc lời gợi ý của giáo viên mới tính được, hoặc nhớ bài một cách máy móc. - Đặt tính chưa đúng, tính toán còn lẫn lộn giữa cộng, trừ, nhân, chia. - Từ việc lĩnh hội kiến thức thiếu vững chắc đó, các em có thái độ thờ ơ với việc học, không chịu cố gắng, ngại khó, thiếu tự tin, thụ động, chán nản trong học tập. Từ những thực trạng trên, ngay từ đầu năm học 2018 - 2019, tôi được nhà trường phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 4B, với tổng số học sinh là 35 em. Tôi đã tìm hiểu tình hình thực tế việc học toán của lớp. Tổng số học sinh Hoàn thành trở lên Chưa hoàn thành 35 em 29 em 6 em * Ngay sau khi nắm được tình hình học tập cụ thể của từng học sinh trong lớp. Tôi đã kịp thời xây dựng kế hoạch giúp học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán, phân loại đối tượng học sinh để có biện pháp giáo dục thích hợp. - Lên kế hoạch giảng dạy cho các đối tượng học sinh theo từng tuần và kiểm tra vào cuối tháng. - Lập kế hoạch giảng dạy môn toán thông qua những kinh nghiệm đã đúc rút được và từ tình hình thực tế của học sinh. 3 ` 2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện 2.3.1. Những giải pháp chung - Phân loại đối tượng học sinh: Phân loại lực học và phân loại tình trạng học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán. - Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc học sinh còn chưa thích học về môn Toán. - Tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình của học sinh, kết hợp giáo dục. - Lập kế hoạch cụ thể chi tiết để giúp học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán. 2.3.2. Những giải pháp cụ thể Giải pháp 1. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc chưa hoàn thành môn Toán của học sinh. Việc làm đầu tiên là tôi theo dõi thường xuyên, cụ thể kết quả học tập của học sinh trong lớp (theo dõi kết quả bài làm trên lớp hàng ngày, theo dõi kết quả kiểm tra định kì,…) sớm phát hiện ra các trường hợp học sinh có khó khăn trong học tập và đi sâu tìm hiểu từng trường hợp cụ thể, phân tích đúng nguyên nhân đưa đến tình hình đó đối với các em. Đồng thời để nắm được đặc điểm, khả năng học tập của học sinh chưa hoàn thành tôi đã tìm hiểu học sinh: - Thông qua nghiên cứu hồ sơ: Học bạ, sổ liên lạc, gặp gỡ giáo viên ở lớp trước, trao đổi với phụ huynh học sinh để nắm bắt xem họ có quan tâm giáo dục con cái của họ hay không. Từ đó, giáo viên sẽ nắm được mặt mạnh cũng như mặt hạn chế của học sinh ở môn toán cũng như các môn học khác. Tôi đã tiến hành phân loại học sinh của lớp mình như sau: Hoàn thành và chưa hoàn thành. Sau khi phân loại được trình độ học sinh trong lớp và nắm bắt được các em học còn hạn chế về môn Toán, tôi tiếp tục tìm hiểu xem học sinh còn hạn chế về phần nào trong môn toán và đã phân thành các đối tượng sau: Hạn chế trong thực hiện tính cộng, trừ, nhân, chia. Hạn chế về yếu tố hình học, về yếu tố thống kê, về đại lượng và đo đại lượng, trong giải toán hay ở tất cả các kiến thức nêu trên. - Từ đó, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần phải phát hiện kịp thời điểm hạn chế trong kiến thức mà học sinh còn vấp phải để khắc phục kịp thời. - Giáo viên luôn quan tâm trao đổi, lắng nghe ý kiến của học sinh. Hướng dẫn để học sinh nói lên những mong muốn, khó khăn của mình. Tứ đó giáo viên sẽ nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, sở thích, thái độ trong quan hệ với mọi người của học sinh. Và cũng từ đây giáo viên có thể giúp học sinh cố gắng vươn lên trong học tập. 4 - Sau khi nắm bắt được tình hình học tập của học sinh giáo viên cần có sự tư vấn, phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp, cũng như phối hợp để gia đình tham gia vào việc hướng dẫn giúp học sinh chưa hoàn thành học tập tiến bộ hơn. Khảo sát đầu năm học 2018 – 2019, trong số học sinh chưa hoàn thành có em Ngô Thị Khánh Nhi, em Trần Thanh Hoa, em Nguyễn Thiên Ý, em Phạm Minh Tâm, em Đào Trung Kiên học sinh của lớp tôi, các em đọc và viết tương đối tốt nhưng môn toán lại chưa hoàn thành, bảng cửu chương không thuộc, nhân, chia chậm và hay sai sót,… và rất sợ phải học toán. Tôi đã mời phụ huynh đến trường và trao đổi cụ thể về tình hình học tập của em. Phụ huynh đã ý thức được điều này nên đã cùng tôi kèm cặp em. Ở trên lớp tôi rất quan tâm việc nắm bắt kiến thức cũ, giao việc phù hợp ở các tiết học toán để đảm bảo em làm kịp và hiểu được bài tập đó, nhờ bạn học hoàn thành trong lớp giúp em ôn lại những kiến thức cũ và bảng cửu chương… Nhờ những biện pháp đó, khoảng 2 tháng sau em đã tự mình thực hiện được phép nhân, phép chia cho số có 1 hoặc 2 chữ số, làm được những bài toán đơn giản và các em đã chăm học hơn. Tôi rất mừng vì thấy các em đã tự tin hơn trong học tập. Giải pháp 2. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng các em bị hổng kiến thức cơ bản. Kiến thức luôn cần có sự xuyên suốt. Do mất căn bản học sinh khó mà có nền tảng vững chắc để tiếp thu kiến thức mới. Để khắc phục tình trạng này giáo viên cần phát hiện và phân loại những lỗ hổng kiến thức, kĩ năng của học sinh. Những lỗ hổng nào điển hình mà trên lớp chưa đủ thời gian khắc phục thì cần có kế hoạch tiếp tục giải quyết trong nhóm học sinh chưa hoàn thành. Thông qua quá trình học lý thuyết và làm bài tập của học sinh, tôi cũng cần tập cho học sinh, nhất là học sinh chưa hoàn thành có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng kiến thức của bản thân mình và biết cách tự lấp những lỗ hổng đó. *Ví dụ: Khi dạy học sinh thực hiện nhân với số có 2, 3 chữ số. Ở bài này các em cần nắm vững các bảng nhân từ 2 đến 9 (nhân từ phải sang trái) Thế nhưng khi các em học sinh chưa hoàn thành thực hiện kết quả sai do các em không thuộc bảng nhân, hoặc các em quên không nhớ làm kết quả cũng không đúng. Tôi phát hiện ra là các em đã bị hổng kiến thức ở lớp 2, lớp 3 rất nhiều dạng và tôi đã tiến hành: - Theo dõi, hệ thống kiến thức theo chương trình: Tôi đã kiểm tra bảng cửu chương thường xuyên và có thể lồng ghép trong các tiết học toán có liên quan đến thực hành tính. Với đối tượng này tôi đã cho các em ôn lại cách thực hiện phép 5 nhân với số có 1 chữ số, nhân với số có 2 chữ số. Khi các em đã tái hiện được các kiến thức cũ đã học thì tôi đã hướng dẫn để các em thực hiện phép tính: 154 x 132 Học sinh đã trình bày và nêu cụ thể cách thực hện phép tính, đồng thời để các em thực hiện tốt việc nhân với số có 2, 3 chữ số các em cần phải nắm vững vị trí của các tích riêng. - Đưa ra nội dung bài tập phù hợp với kiến thức để học sinh có thể ôn luyện kiến thức mới và ôn lại kiến thức đã học. Ví dụ: Tính giá trị của biểu thức sau: 2378 + 1502 x 216 Tôi đã cho học sinh quan sát đề toán và giúp các em nêu được cách thực hiện đúng phép tính này. Đồng thời qua phép tính tôi đã củng cố, khắc sâu được cách thực hiện phép nhân, ôn lại cách thức hiện phép cộng có nhớ. Chẳng hạn: “Khi dạy học thực hiện chia cho số có 2 chữ số” đa số học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán đều rất lúng túng trong ước lượng thương, hoặc ước lượng được thương thì khi nhân ngược lại để các em thực hiện phép trừ để tìm ra số dư sau lần chia thứ nhất lại bị sai. Điều này giáo viên không thể nóng vội mà phải kiên trì hướng dẫn học sinh thao tác rõ ràng trên từng bước một. Đó là: Cách ước lượng thương, ôn lại cách thực hiện phép nhân và phép trừ. Ví dụ: Thực hiện phép chia 779 : 4 Giáo viên hướng dẫn học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán thực hiện phép chia. - Lần chia thứ nhất; 77 chia 18 được 4, viết 4 (Giáo viên hướng dẫn học sinh cách ước lượng, có thể tìm thương lớn nhất của 7 : 1 = 7 rồi tiến hành nhân và trừ nhẩm, nếu không trừ được thì giảm dần thương đó từ 7, 6, 5, đến 4 thì trừ được, mà số dư này phải bé hơn số chia hoặc có thể giáo viên hướng dẫn học sinh cách ước lượng làm tròn số 80 : 20) + 4 nhân 8 bằng 32, viết 2 nhớ 3 + 4 nhân 1 bằng 4 thêm 3 bằng 7, viết 7 + Học sinh thực hiện trừ; 77 trừ 72 bằng 5, viết 5. Hạ 9 được 59. 6 - Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện lần chia thứ 2 là 59 chia 18 được 3, viết 3 (cách ước lượng làm tròn số 80 : 20). - Hướng dẫn học sinh thực hiện nhân ngược lại: + 3 nhân 8 bằng 24 viết 4 nhớ 2 + 3 nhân 1 bằng 3, thêm 2 bằng 5, viết 5. + Học sinh thực hiện trừ 59 trừ 54 bằng 5, viết 5. Giáo viên phải lấy thêm nhiều ví dụ tương tự để học sinh học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán rèn luyện kĩ năng. Trong những tiết học đồng loạt, việc luyện tập được thực hiện theo trình độ chung, nhiều khi không phù hợp với khả năng học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán. Vì vậy khi làm việc riêng với nhóm học sinh còn hạn chế năng lực về môn toán, cần dành thời gian để các em tăng cường luyện tập vừa sức mình. Giáo viên phải tìm phương pháp giảng dạy thích hợp, có trọng tâm, nhằm thẳng vào yêu cầu quan trọng nhất, với mức độ yêu cầu vừa sức các em để nâng dần mức độ làm bài tập. Không nóng vội, khắc phục tính ngại khó và những định kiến thiếu tin tưởng vào sự tiến bộ của học sinh. Khi giảng dạy, cần theo dõi sự chú ý của học sinh học còn hạn chế năng lực về môn Toán. kiểm tra kịp thời sự tiếp thu bài giảng của các em. Phần hướng dẫn bài tập cần cụ thể hơn đối với học sinh này. Ví dụ: Viết một phân số: Bé hơn 1; Lớn hơn 1; Bằng 1. Đa số học sinh học còn hạn chế năng lực về môn Toán. thường lẫn lộn giữa các yêu cầu trên, nên giáo viên cần giúp các em trả lời được các câu hỏi: Phân số bé hơn 1 là phân số như thế nào? Phân số lớn hơn 1 là phân số như thế nào? Phân số bằng 1 là phân số như thế nào? và có thể cho học tự mình lấy thêm nhiều ví dụ để củng cố kiến thức. Phần hướng dẫn học bài nên có thêm một số câu hỏi để học có thể kiểm tra hay chỉ rõ ý chính cần đi sâu, nhớ kĩ… Khi gặp các dạng toán có lời văn các em thường rất ngại và ít theo kịp được với yêu cầu của một tiết dạy, bài làm của các em còn hay sai chủ yếu là lời giải của học sinh chưa rõ ý, còn dài, còn lặp, lời giải chưa cô đọng thậm chí lời giải còn chưa phù hợp với phép tính, tôi cần lưu ý những điều sau đây: Giúp các em hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã cho, cái gì cần phải tìm, tạo điều kiện cho các em tìm ra cách giải hợp lí. * Ví dụ khi gặp bài toán: Người ta xếp 240 bộ bàn ghế 8 phòng học. Hỏi 1 mỗi phòng được bao nhiêu bộ bàn ghế ? Đây là bài toán liên quan đến rút về đơn vị. (Trang 81, Toán 4). Tôi đã hướng dẫn nhóm học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán giải như sau: - Bước 1: Đọc kĩ đề toán (Xác định dạng toán) - Bước 2: Tóm tắt đề toán (có thể bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc bằng chữ). - Bước 3: Phân tích bài toán. - Bước 4: Viết bài giải. - Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. *Cụ thể như sau: - Đọc kĩ đề toán: Đối với đối tượng học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán đọc ít nhất 3 lần có như thế mới giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản: Những “dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần phải tìm, cuối cùng là những “điều kiện" là quan hệ giữa các dữ kiện và ẩn số. Tránh thói quen xấu là vừa đọc đề xong đã vội làm ngay. - Tóm tắt đề toán: Sau khi đọc kĩ đề, các em biết lượt bớt một số câu chữ, làm cho bài toán gọn lại. Nhờ đó đã làm rõ mối quan hệ cái đã cho và cái phải tìm. Trong thực tế có rất nhiều cách tóm tắt một bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi hơn. Thế nhưng đối với các em học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán tôi chỉ hướng dẫn các em chọn cách tóm tắt nào dễ hiểu và rõ nhất là được. Chẳng hạn như cách tóm tắt bằng chữ. *Ví dụ: 8 phòng : 240 cái ghế 1 phòng : ? cái ghế - Phân tích bài toán: Tóm tắt xong các em cần phải phân tích đề bài để tìm ra cách giải. Đối với học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán, ở bước này tôi cần sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp. Phân tích bài toán dưới dạng các câu hỏi như sau: + Bài toán trên cho biết gì? (8 phòng : 240 cái ghế) + Bài toán hỏi gì? (mỗi phòng được bao nhiêu bộ bàn ghế ?) + Vậy làm cách nào để tìm được mỗi phòng có bao nhiêu cái ghế? Ta làm phép tính gì? ( làm phép tính chia: lấy 240 : 8 = 30) + Giáo viên phải nhấn mạnh để học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán nắm vững được cách giải bài toán 1 phép tính. 1 - Sau khi học sinh đã hình dung cách giải một bài toán đơn như vậy thì tôi tiếp tục ra đề những bài toán tương tự cho học sinh rèn luyện, khi các em đã thành thạo tôi tiếp tục nâng cao dần yêu cầu của bài toán. Ví dụ: Mẹ mua 5 kg gạo hết 120 nghìn đồng. Hỏi mẹ mua 3 kg gạo thì phải trả hết bao nhiêu tiền ? Học sinh thực hiện bài giải theo các bước mà giáo viên đã hướng dẫn. Đối với những học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán thì việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với các em. Cho nên tôi cần hướng dẫn các em các bước như sau: + Đọc lại lời giải. + Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí so với yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. + Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. + Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề chưa. - Đối với học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán thì việc ôn lại những kiến thức cũ có liên quan đến nội dung những bài học sẽ học trong tuần kế tiếp và đồng thời cho các em thực hành lại những kiến thức đã học ở tuần qua bằng cách cho những bài tập vừa sức với học sinh. Chẳng hạn: Trước khi học phần phép chia cho số có 2, 3 chữ số, tôi ôn cho học sinh về phép chia cho số có 1 chữ số, đồng thời ôn lại bảng chia nhằm giúp các em dễ dàng ước lượng tìm thương của phép chia với số có 2,3 chữ số. - Do là học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm và mau quên. Các kiến thức cũ phải được giáo viên củng cố lại nhiều lần khi có liên quan đến nội dung bài mới, giúp các em biết được mối liên hệ, biết phân biệt, biết được sự chuyển tiếp giữa các dạng nội dung với nhau. Chẳng hạn: Khi học sinh học đến các dạng toán giải ở lớp 4, giáo viên phải cho học sinh thấy rõ sự khác biệt của các dạng toán có mối liên quan với nhau. Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó; Tìm 2 số khi biết hiệu tỉ số của 2 số đó; Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó. Bằng cách cho xem 3 đề toán thuộc 3 dạng này và chỉ rõ sự khác nhau giữa chúng. Khi học sinh đã phân biệt được sự khác nhau của 3 bài toán đó thì các em sẽ vận dụng vào giải đúng kết quả. Ví dụ: + Đề 1: Một lớp học có 28 học sinh. Số học sinh trai hơn số học sinh gái là 4 em. Hỏi lớp đó có bao nhiêu học sinh trai, bao nhiêu học sinh gái ? 1 + Đề 2: Minh và Khôi có 25 quyển vở số vở của Minh bằng 2 3 số vở của Khôi. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu quyển vở ? + Đề 3: Một hình chữ nhất có chiều dài hơn chiều rộng 12m. Tìm chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật đó, biết chiều dài bằng 7 4 chiều rộng. - Trong từng mạch kiến thức giáo viên cần chốt lại cách thực hiện bằng lời nói đơn giản, dễ hiểu, “nôm na” nhằm khắc sâu kiến thức. Nói rõ hơn đó là giúp học sinh thấy rõ cách nhớ của từng đơn vị kiến thức. * Chẳng hạn: Để nắm cách tìm thành phần chưa biết của phép tính: Số bị chia và số chia, thừa số, số hạng, số trừ và số bị trừ không bị lẫn lộn, ta có thể cho học sinh nắm cách nhận biết đơn giản nhất. Trước hết cần phải động viên để các em học thuộc quy tắc và vận dụng vào làm bài tập. Ví dụ: Tìm x x x 34 = 714; 846 : x = 18. Giáo viên giúp học sinh nêu tên được từng thành phần của phép tính và tìm thành phần chưa biết đó như thế nào? Hoặc thực hiện và tự kiểm tra kết quả. Giáo viên chốt kết quả đúng. Đồng thời khắc sâu kiến thức cho học sinh. Bằng kinh nghiệm của bản thân tôi đã hướng dẫn học sinh một cách thực hiện có thể dễ nhớ. Tìm số trừ thực hiện tính trừ (Lấy số bị trừ trừ đi hiệu); Tìm số chia thực hiện tính chia (Lấy số bị chia chia cho thương); Tìm số bị trừ thực hiện cộng (Lấy hiệu cộng với số trừ); Tìm số bị chia thực hiện tính nhân (Lấy thương nhân với số chia) - Khi thực hiện chuyển đổi các đơn vị đo các em hay nhầm lẫn cách chuyển đổi đơn vị lớn ra đơn vị bé, đơn vị bé về đơn vị lớn. Tôi đã hướng dẫn học sinh. Đổi các đơn vị đo từ đơn vị lớn đổi ra đơn vị nhỏ hơn, ta thực hiện tính nhân. Ví dụ: 3tấn =….kg Ta có 3 x 1000 = 3000kg hoặc 1 tấn bằng bao nhiêu kg và ngược lại từ đơn vị nhỏ đổi ra đơn vị lớn ta thực hiện tính chia. Ví dụ: 28000g = …..kg Ta có: 28000 : 1000 = 28. Khi dạy dạng bài chuyển đổi các đơn vị đo này, tôi đã cho các em ôn lại cách nhân, chia nhẩm cho 10, 100, 1000,… - Trong quá trình dạy, giáo viên luôn tìm ra các phương pháp giảng dạy thích hợp, có trọng tâm, bằng phương pháp trực quan sinh động, giảng dạy vấn đáp, chơi trò chơi toán học, thi đua tập ra đề toán, trò chơi tiếp sức … phối hợp đan xen nhau tạo hứng thú cho các em tiếp thu bài tốt hơn. 1 - Khi dạy về phép chia ở 1, 2 tiết đầu tôi cho các em làm việc nhóm đôi, tôi quan sát thấy nhóm nào thực hiện chia tốt sẽ cho các em làm việc cá nhân. Đôi lúc tổ chức cho các em thi đua thực hiện phép chia, đố vui về bảng nhân bảng chia. Hay khi dạy về đơn vị đo thời gian "giây" tôi cho học sinh quan sát sự chuyển động trên mặt đồng hồ có 3 kim và nêu khoảng thời gian kim giây đi từ một vạch nhỏ đến vạch nhỏ liền kề là 1 giây, khoảng thời gian kim giây đi hết một vòng trên đồng hồ là 60 giây tức là 1 phút, và giới thiệu 1 phút bằng 60 giây - Khi giảng dạy giáo viên chú ý theo dõi học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán, khuyến khích các em học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặt những câu hỏi dễ, cho những bài tập vừa sức. Đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, giáo viên thường xuyên gọi các em học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán thực hành nhiều hơn. Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều bài tập trắc nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc phục tính ngại khó, giúp các em hiểu các thuật ngữ, cách suy luận, chỉ rõ những kiến thức quan trọng cần khắc sâu, cần nhớ kỹ. - Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, phê phán đúng mức thái độ lơ là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh. - Điều quan trọng cần nói đến nữa là giáo viên cần tạo không khí cởi mở, tạo tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề, tạo áp lực cho các em để các em cảm thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”. - Thường xuyên theo dõi kiểm tra sau mỗi tiết học. Sau mỗi tuần học cần có kiểm tra những kiến thức đã học để nắm sự tiến bộ phát hiện kịp thời những kiến thức các em chưa nắm được để có sự điều chỉnh phù hợp với kế hoạch giúp đỡ học sinh. - Tổ chức cho học sinh hoàn thành thường xuyên giúp đỡ các em chưa hoàn thành về học tập, về phương pháp vận dụng kiến thức. - Giáo viên tổ chức học sinh hoàn thành kèm học sinh chưa hoàn thành, giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành trong giờ tự học, tự ôn tập ở trong lớp những kiến thức đã học để các em nắm vững hơn. Sau buổi học, giáo viên có kế hoạch kiểm tra để nắm mức độ tiến bộ của các em, tuyên dương các em học có tiến bộ trước lớp nhằm động viên kích thích các em ham học và học tốt hơn dù đó là những tiến bộ nhỏ. - Giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh của các em học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán để báo cáo tình hình học tập của các em. Kết hợp phụ huynh động viên, nhắc nhở giúp các em đạt kết quả tốt hơn. 2 Giải pháp 3. Hướng dẫn học sinh thực hiện kiến thức, kĩ năng thực hành Đối với học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán, giáo viên nên coi trọng tính vững chắc của kiến thức, kĩ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức và tăng cường luyện tập vừa sức. Do đó khi hướng dẫn học sinh luyện tập, tôi luôn đặc biệt chú ý đến các việc làm sau: - Đảm bảo cho học sinh hiểu đề bài: Học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán nhiều khi vấp ngay từ bước đầu tiên: đó là các em không hiểu bài toán nói gì, do đó không đi đúng hướng cho bài giải toán. Vì vậy tôi đã dùng câu hỏi gợi mở để giúp các em hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã cho, cái gì cần tìm, tạo điều kiện cho các em giải được bài toán đúng. - Tiếp tục tôi đã gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và mức độ. Để hiểu một kiến thức, rèn một kĩ năng nào đó, học sinh chưa hoàn thành cần giải những bài tập cùng thể loại và cùng mức độ với số lượng nhiều hơn so với các em hoàn thành. Phần gia tăng này thường được tiến hành trong các tiết ôn luyện hoặc những buổi dạy riêng với nhóm học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán. Chẳng hạn, với dạng bài nhân, chia hai phân số, học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán thường hay đi quy đồng vì các em đã nhầm lẫn với cách cộng, trừ hai phân số khác mẫu số. Để khắc phục tình trạng đó, tôi đã cho rất nhiều bài tập trong các tiết ôn luyện, củng cố kiến thức. - Sử dụng những bài tập vừa sức, chủ yếu là cho học sinh giải các bài tập cơ bản, tránh ra thêm cho các em những dạng bài tập mới có tính chất mở rộng, nâng cao kiến thức. Qua việc giúp đỡ, rèn luyện cho các em những bài tập vừa sức, tôi thấy các em học sinh còn hạn chế năng lực về toán đã có tự tin hơn, chịu khó và chăm chỉ hơn trong học tập. Giải pháp 4. Dạy phương pháp học cho học sinh - Giúp đỡ học sinh rèn luyện phương pháp học tập là rất quan trọng. Hạn chế về phương pháp học tập là một tình hình phổ biến của học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán. Đó cũng chính là nguyên nhân của tình trạng học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán. Vì vậy, một trong những biện pháp khắc phục thình trạng học sinh Chưa hoàn thành là giúp đỡ các em về phương pháp học tập. - Với học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán, tôi thường xuyên hướng dẫn, nhắc nhở các em từ những cách thức học toán sơ đẳng như: + Nắm được lý thuyết (Tức là phải thuộc, hiểu lý thuyết) mới làm được bài tập. 3 + Cần đọc kĩ đề bài. + Xác định dạng toán. + Huy động được kiến thức có liên quan và cách trình bày bài toán. Ví dụ: Số đo chiều cao của 5 bạn học sinh lớp 4 là 138cm, 132cm, 130cm, 136cm, 134cm. Hỏi trung bình số đo chiều cao của 5 bạn là bao nhiêu xăng-timét ? Giáo viên cho học sinh thao tác các bước như đã hướng dẫn (đọc đề, xác định dạng toán, thực hiện giải). Từ đó các em có thể làm bài. Giáo viên giúp các em tự kiểm tra kết quả đúng. Đặc biệt, giáo viên cần nghiêm khắc với những thói quen xấu của học sinh như: chưa học lý thuyết đã lao vào làm bài tập, không đọc kĩ đầu bài trước khi làm bài tập, vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn,... Giáo viên giúp các em có thể tự đánh giá bài làm của mình bằng cách thử lại kết quả bài toán. Chẳng hạn: + Khi thực hiện phép cộng, phép trừ, phép nhân, phép chia muốn biết kết quả đúng các em cần thử lại bài toán bằng cách nào? (Lấy phép trừ để thử kết quả phép cộng hoặc ngược lại. Lấy phép nhân để thử kết quả phép chia (hoặc ngược lại) + Lấy kết quả thay vào thành phần chưa biết để thực hiện (dạng bài tìm một thành phần chưa biết ) + Lấy số lớn cộng với số bé để được tổng (dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó ) + Lấy số lớn trừ đi số bé để được hiệu (dạng toán tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số của hai số đó)… Qua nhiều lần luyện tập và thử lại kết quả thực hiện, tôi thấy hình học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán đã dần hình thành được thói quen tốt và giảm được tỉ lệ sai sót trong khi làm bài. Giải pháp 5. Tìm hiểu giáo dục những học sinh chậm tiến - Đa số những học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán là do: các em chưa ý thức được nhiệm vụ học tập, không tập trung chú ý nghe giảng, không học bài, không làm bài tập, thường xuyên quên sách, vở, đồ dùng học tập, không tích cực học tập trên lớp,… - Để khắc phục tình trạng trên, tôi luôn tạo ra cho các em niềm tin và sự hứng thú trong học tập. Trong các tiết học, tôi luôn thay đổi, phối hợp, vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học sinh động, hấp dẫn để thu hút sự 4 chú ý học tập của học sinh, sử dụng phong phú và có hiệu quả các đồ dùng học tập trên lớp, giúp các em hiểu bài, ghi nhớ sâu sắc kiến thức. - Giáo viên giúp các em hiểu bài, động viên các em tự mình giải quyết các bài tập cô giao. Ngoài ra, giáo viên cần phải có biện pháp nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng kiên quyết với những em chưa có sự cố gắng nỗ lực vươn lên. Đồng thời tránh những biện pháp nặng nề gây sợ hãi cho học sinh. - Giáo viên luôn phải công nhận sự tiến bộ từng bước của học sinh trong thời gian trước. Xây dựng nhóm “Đôi bạn cùng tiến” để học sinh hoàn thành kèm học sinh chưa hoàn thành. Giáo viên cần động viên và hướng dẫn các nhóm đôi bạn cùng tiến này cách học hiệu quả, có nhận xét, đánh giá, tuyên dương kịp thời. Ngoài ra, giáo viên cần trao đổi trực tiếp đến từng đối tượng học sinh bằng lời nói, cử chỉ, mệnh lệnh giúp các em nắm được tầm quan trọng của việc học. Cho các em hiểu được: “Học phải đi đôi với hành” có như vậy các em mới nắm được kiến thức lâu và tiếp thu bài mới tốt được. Qua những tác động trực tiếp trên, tôi thấy học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán đã có chuyển biến về ý thức và nhiệm vụ học tập. Giải pháp 6. Xây dựng nội dung, phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh chưa hoàn thành - Việc lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán. Đây là một việc làm vô cùng quan trọng của giáo viên. Ví dụ: Khi dạy bài về đơn vị đo diện tích: Đề-xi-mét vuông; Mét vuông Giáo viên cần phải chuẩn bị đồ dùng, hướng dẫn để các em tìm hiểu về khái niệm Đề-xi-mét vuông; Mét vuông và các em trực tiếp đo cạnh của Đề-xi-mét vuông; Mét vuông để phân biệt được độ lớn của 2 đơn vị diện tích này. - Đối với những học sinh còn lẫn lộn đơn vị đo, hay sai sót khi đổi các đơn vị đo: thời gian, khối lượng, diện tích,… áp dụng sai hoặc lẫn lộn các công thức tính chu vi, diện tích các hình vào việc giải toán: + Giáo viên cần giúp các em hiểu rõ khái niệm đối với các kiến thức đã học như: đơn vị đo độ dài, đơn vị đo khối lượng, quy tắc tính chu vi, diện tích hình vuông, hình chữ nhật, hình bình hành, quy tắc tính diện tích hình thoi. + Yêu cầu các em nắm vững bảng đơn vị đo và mối quan hệ giữa các đơn vị đo trong bảng, luyện tập các bài tập đơn giản để củng cố kiến thức. + Giáo viên giúp học sinh phân biệt sự khác nhau giữa các hình đã học và ghi nhớ chính xác quy tắc tính chu vi và diện tích các hình, từ đó sẽ áp dụng đúng khi làm bài. Thực hành luyện tập nhiều lần ở dạng bài này sẽ giúp học sinh hiểu 5 sâu hơn và chắc chắn sẽ tiến bộ. Trong các tiết luyện kiến thức giáo viên có thể cho các luyện tập, đồng thời phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa các hình đã học (Hình vuông, hình chữ nhật, hình bình hành, hình thoi,…). Có thể cho học sinh vẽ hoặc cắt nhiều lần để các em phân biệt và hiểu sâu sắc khái niệm các hình để không bị lẫn lộn khi vận dụng quy tắc tính. - Đối với những học sinh hay sai sót khi thực hiện cộng, trừ phân số khác mẫu số, cộng trừ phân số với số tự nhiên, nhân, chia phân số: Giáo viên phải động viên và yêu cầu học sinh nắm chắc quy tắc cộng, trừ, nhân, chia phân số, nắm được các tính chất cơ bản của phân số, cách quy đồng mẫu số, … Để học sinh chưa hoàn thành phân biệt được rõ các quy tắc trên, giáo viên cần phải hướng dẫn cách làm một vài bài đơn giản và sau đó cho các em thực hành lại nhiều lần dạng bài tương tự. Giao việc phù hợp trong tiết học đối với học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán, chỉ cần các em thực hiện được những kĩ năng cơ bản trong bài học là được. - Đối với những học sinh thực hiện cộng, trừ, nhân, chia rất chậm và hay sai, giáo viên cần : + Động viên và yêu cầu các em học sinh hiểu và ôn luyện bảng cửu chương trong những giờ rãnh. + Động viên học sinh hoàn thành kèm học sinh chưa hoàn thành. + Hướng dẫn học sinh học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán thực hiện lại các bài toán nhân, chia đơn giản để hiểu cách nhân, chia, cộng trừ có nhớ, sau đó nâng dần lên luyện tập khó hơn. Rèn cho các em thói quen kiểm tra kết quả bài làm đúng. - Đối với những học sinh hay làm sai bài toán giải: Giáo viên hướng dẫn để học sinh chịu khó đọc đề, tìm hiểu dạng toán. Giai đoạn đầu chỉ ra những bài tập đơn giản, bài toán khó hơn có thể cho học sinh thảo luận trong nhóm. Nếu học sinh không tìm ra được cách giải thì giáo viên hướng dẫn. Động viên học sinh học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán cần phải mạnh dạn hỏi bài, có thể hỏi cô hoặc hỏi bạn khi chưa hiểu bài. Qua việc giảng dạy, gần gũi, tìm hiểu, theo dõi, giúp đỡ và động viên kịp thời, tôi nhận thấy học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán đã biết phấn đấu dần dần, có tự tin hơn và kết quả học tập tiến bộ hơn. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Sau thời gian thực hiện từ thực tế học toán của học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán, trong quá trình giảng dạy, áp dụng các biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tôi thấy ở lớp 4B hiện nay việc học toán của học sinh 6 chưa hoàn thành đã có tiến bộ nhiều so với đầu năm học. Hiện nay học sinh rất thích được học toán. Với mỗi bài toán các em đọc kĩ đề bài, tự phân tích mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Từ đó tìm ra hướng giải bài toán. Một số học sinh trước đây chưa biết kiểm tra cách làm bài của mình như thế nào thì hiện nay đã biết kiểm tra tính hợp lí của cách làm bài cũng như xác định được kết quả chính xác của bài toán. Nhờ phát hiện tốt được dạng toán và xác định được cách làm đúng nên đến nay tình trạng “lỗ hổng ” kiến thức đã cải thiện rất nhiều. Đến những dạng toán giải điển hình ở lớp 4 các em cũng đã xác định đúng dạng và trình bày bài gải một cách chính xác, rõ ràng. Trong quá trình thực hiện, chất lượng học tập môn toán của lớp tôi đã có tiến bộ rõ rệt. Hầu hết tất cả các em đã có phương pháp học tập ở lớp cũng như 7 việc học ở nhà. Những lỗ hổng kiến thức toán học của các em đã dần được bù đắp. Được động viên, khích lệ các em mạnh dạn, tự tin hơn trong các hoạt động của lớp cũng như ngoài giờ. Được giải và nắm được cách giải các bài toán vừa sức, các em hăng say học tập, hứng thú hơn đối với môn toán. Qua chấm bài, tôi thấy các em đã có kĩ năng giải đúng, tương đối chính xác các dạng bài tập, việc trình bày bài khoa học hơn, ít nhầm lẫn, lộn xộn. Số lượng học sinh hoàn thành được nâng lên. Cụ thể như sau: * Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm tại lớp 4B đạt được kết quả Lớp sĩ số HTT HT CHT ghi chú SL TL SL TL SL TL 4B 35 19 54,3 16 45,7 0 0 * Kết quả bước đầu và bài học kinh nghiệm Kết quả khảo sát đối chiếu Trong thời gian nghiên cứu và hoàn thành SKKN, tôi đã tiến hành khảo sát 2 lần với lớp 4B để kiểm nghiệm. - Lần 1: Khảo sát trên 35 học sinh - Lần 2: (Đối chiếu) Khảo sát trên 35 học sinh, kết quả như sau: sĩ số HTT HT CHT ghi chú lần 1 lần 2 lần 1 lần 2 lần 1 lần 2 lần 1 lần 2 4B 35 35 20% 54,3% 62,9% 45,7% 17,1% 0% Nhận xét Qua bảng số liệu trên, ở lần khảo sát thứ hai tất cả học sinh đã hoàn thành không còn học sinh chưa hoàn thành. Đó là luận chứng làm rõ hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. Bài học kinh nghiệm Để "Giúp học sinh còn hạn chế năng lực khi học môn Toán lớp 4" nhằm nâng cao chất lượng học tập môn toán cho học sinh lớp 4 nói riêng và cho học sinh học toán nói chung, giáo viên cần làm tốt công việc sau: - Để đạt được mục tiêu coi học sinh là trung tâm, giáo viên cần biết kết hợp một cách hợp lí giữa các phương pháp dạy học một cách hài hòa, khéo léo. Giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học để gây hứng thú cho học sinh. - Khi dạy nội dung kiến thức, giáo viên cần đặt ra các tình huống có vấn đề để học sinh phát hiện ra kiến thức (chú ý dành phần kiến thức dễ, vừa sức cho đối tượng học sinh còn hạn chế năng lực), mới phát huy được tính sáng tạo của học Lớp 1 sinh nhằm tạo nên những giờ học toán nhẹ nhàng mà sôi nổi, tránh sự khô cứng trong học toán giúp học sinh thực sự hứng thú khi học bài. - Giáo viên giữ mối liên hệ thường xuyên với phụ huynh học sinh để nắm bắt kịp thời những tiến bộ ( dù nhỏ nhất) để kịp thời khen ngợi tạo sự hứng khởi cho học sinh và phụ huynh khi học sinh có sự tiến bộ ( nhất là đối tượng học sinh còn hạn chế về năng lực). 3. Kết luận và kiến nghị 3.1. Kết luận Muốn khắc phục tình trang học sinh chưa hoàn thành về học lực nói chung trước hết người giáo viên cần nhận thức được vai trò của mình trong dạy học. Mỗi giáo viên cần trang bị cho mình những kiến thức sư phạm cần thiết, cần phải học hỏi nhiều hơn nữa về chuyên môn nghiệp vụ, cải tiến, đổi mới phương pháp. Cần có sự tận tâm, có cái nhìn thiện cảm đối với những đối tượng học sinh không may mắn về nhiều mặt. - Tìm ra nguyên nhân dẫn đến năng lực học tập chưa hoàn thành của các em bằng cách quan tâm tìm hiểu đặc điểm cụ thể về hoàn cảnh gia đình, về lực học, đặc biệt là học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán, để có điều chỉnh phương pháp dạy học và có biện pháp giúp đỡ phù hợp. - Phân loại đối tượng học sinh, lên kế hoạch phụ giúp đỡ cụ thể cho từng đối tượng học sinh. - Mỗi đối tượng học sinh cần có cách khích lệ riêng. Giáo viên phải kiên trì nhẫn nại, hướng dẫn học sinh từng điểm nhỏ, cụ thể, không được nóng vội muốn có ngay kết quả hoặc yêu cầu tiến bộ nhanh của học sinh. - Thường xuyên kiểm tra học sinh để có phương pháp giảng dạy phù hợp. Cần phải gần gũi động viên học sinh, tạo cho các em sự hứng thú trong học tập. - Giáo viên cần phải chuẩn bị tốt kế hoạch bài học, đồ dùng dạy học, lựa chọn phương pháp, hình thức tích cực hấp dẫn, phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh. 1 - Công bằng trong việc đánh giá chất lượng học sinh, tạo niềm tin vững chắc từ phía học sinh, đồng nghiệp và phụ huynh học sinh. Phát hiện kịp thời những kiến thức bị hổng của học sinh để kịp thời giúp đỡ bằng nhiều hình thức. Phát hiện những tiến bộ dù là rất nhỏ của các em để kịp thời khuyến khích, động viên. - Xây dựng nề nếp, phương pháp tự học, tự rèn ở học sinh. Duy trì khối đoàn kết trong lớp học. Giáo dục cho học sinh thấy tầm quan trọng của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - Học sinh tích cực ”. - Giáo viên kiên trì bền bỉ chịu khó trong công tác giúp đỡ học sinh còn hạn chế năng lực về môn Toán, theo dõi sát từng đối tượng học sinh trong lớp để kịp thời phát hiện những kiến thức các em chưa nắm hoặc còn mập mờ nhằm đề ra kế hoạch giúp đỡ phù hợp. - Giáo viên cần nắm vững chuẩn kiến thức kĩ năng cơ bản toán 4 là một yêu cầu tối thiểu mà mỗi học sinh lớp 4 đều phải đạt được. Đó là cơ sở để các em học tốt môn toán ở các lớp trên, để các em áp dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống. - Đồng thời giáo viên phải biết sử dụng đội ngũ học sinh hoàn thành trong lớp hỗ trợ giáo viên trong việc giúp đỡ các bạn. Và bản thân giáo viên nghiên cứu thường xuyên thay đổi phương pháp hình thức tổ chức giờ phụ đạo sao cho học sinh hứng thú học tập. 3.2. Kiến nghị - Đối với giáo viên: Phải thực sự quan tâm yêu thương gần gũi và tạo không khí vui để học giúp các em yêu thích môn học. Tích cực sưu tầm tài liệu và học hỏi để đúc kết kinh nghiệm từ đồng nghiệp về phương pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành; Không ngừng học tập nâng cao trinh độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh;nắm vững nội dung chương trình, ý đồ của SGK và thực hiện giảng dạy sát với đối tượng học sinh. - Đối với tổ chuyên môn: Tăng cường công tác tổ chức các chuyên đề “Những sáng kiến hay giúp học sinh chưa hoàn thành”. - Đối với học sinh: Tham gia học tập tích cực, chuyên cần. Trên đây là một số kinh nghiệm giúp đỡ học sinh còn hạn chế năng lực về môn toán ở lớp 4 của bản thân. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp, Hội đồng khoa học các cấp. 2
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan