Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số kinh nghiệm dạy phân môn địa lý lớp 4...

Tài liệu Một số kinh nghiệm dạy phân môn địa lý lớp 4

.PDF
23
11
72

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GD & ĐT NGA SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY PHÂN MÔN ĐỊA LÍ LỚP 4 NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga Thiện SKKN thuộc lĩnh mực (môn):Lịch sử và Địa lí THANH HÓA, NĂM 2016 0 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Như chúng ta đã biết mục tiêu giáo dục Tiểu học hiện nay là giáo dục học sinh trở thành con người phát triển toàn diện. Do đó, cần có sự đổimới trong giáo dục, cụ thể như đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học,… Tuy nhiên, hiệu quả giáo dục trong những năm vừa qua vẫn chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội hiện nay. Trong mỗi môn học, mỗi lĩnh vực kiến thức ở chương trình Tiểu học, học sinh đều gặp phải khá nhiều khó khăn. Nếu người giáo viên không tâm huyết, không trăn trở với nghề để tìm ra biện pháp tốt nhất giúp học sinh có nhu cầu học thì các em thường tiếp thu thụ động dẫn đến ngại học, ghi nhớ một cách máy móc nên không khắc sâu được các kiến thức, kĩ năng đã học. Điều đó được thể hiện rất rõ trong dạy - học môn Lịch sử và Địa lí, đặc biệt là phân môn Địa lí. Phân môn Địa lí ở lớp 4 cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự vật, hiện tượng, con người và các mối quan hệ địa lí đơn giản ở các vùng chính trên đất nước ta đồng thời rèn luyện cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm thông tin địa lí từ nhiều nguồn khác nhau; trình bày kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ…; vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn… Qua đó giáo dục các em lòng yêu và tự hào về quê hương đất nước, có ý thức bảo vệ quê hương đất nước, góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho các em. Trong thực tiễn giáo dục hiện nay đang tồn tại rất nhiều mâu thuẫn gây cản trở hoạt động giáo dục của bản thân và của nhà trường, ảnh hưởng không tốt đến chất lượng giáo dục học sinh. Đó là mâu thuẫn giữa mục tiêu giáo dục với nội dung chương trình; mâu thuẫn giữa trang bị kiến thức và phát triển phẩm chất, năng lực học sinh; mâu thuẫn giữa sách giáo khoa với thực tế xã hội; mâu thuẫn giữa các trang thiết bị dạy học với kiến thức cụ thể các bài học,… Trong khi hiện nay mục tiêu giáo dục xã hội đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần phải giải quyết. Hiện tại chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu về các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giờ dạy môn Lịch sử và Địa lí, các đồng nghiệp chưa đầu tư nhiều thời gian nghiên cứu, chuyên môn nhà trường chưa có nhiều kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục triệt để các mâu thuẫn trong giáo dục… Là một giáo viên Tiểu học rất tâm huyết và luôn có trách nhiệm cao với nghề, tôi luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu để tìm mọi biện pháp tốt nhất giúp 1 học sinh học tập có hiệu quả nhất. Qua mười mấy năm dạy học, tôi đã dày công nghiên cứu, học hỏi và áp dụng các biện pháp dạy học, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm quý giá, trong đó có những kinh nghiệm để dạy tốt phân môn Địa lí. Bởi vậy tôi muốn giới thiệu, chia sẻ “Một số kinh nghiệm dạy phân môn Địa lí lớp 4” với bạn bè, đồng nghiệp để mong mọi người cùng nghiên cứu, tham khảo và áp dụng góp phần nhỏ bé nâng cao chất lượng dạy và học. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu thực trạng việc dạy - học phân môn Địa lí 4, trên cơ sở đó áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy. 3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài này sẽ nghiên cứu, tổng kết về một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học phân môn Địa lí ở lớp 4A trường Tiểu học Nga Thiện. 4. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: 4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết Nghiên cứu, tìm hiểu để nắm vững nội dung chương trình, phương pháp và các hình thức dạy học, yêu cầu của môn học thông qua các tài liệu như SGK Lịch sử và Địa lí 4,5; Sách giáo viên, Thiết kế bài dạy Lịch sử và Địa lí 4, 5; Sách Phương pháp dạy học các môn ở Tiểu học,… 4.2. Phương pháp phỏng vấn Phỏng vấn trực tiếp giáo viên và học sinh về những thuận lợi, khó khăn trong việc nâng cao chất lượng dạy – học Địa lí Tiểu học nói chung và Địa lí lớp 4 nói riêng. 4.3. Phương pháp quan sát Quan sát qua dự giờ đồng nghiệp để đánh giá năng lực, kinh nghiệm của giáo viên, quan sát quá trình học tập của học sinh để tìm hiểu cụ thể thực trạng. 4.4. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin - Điều tra qua các giáo viên trực tiếp giảng dạy chương trình 4, 5; qua sổ Theo dõi chất lượng giáo dục; qua học sinh và các loại tài liệu học tập của học sinh… 4.5. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu Thống kê kết quả khảo sát, kết quả học tập của học sinh qua các bài kiểm tra, bài khảo sát, qua hồ sơ sổ sách… 2 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Lên 6 tuổi, trẻ em đã phát triển về tâm, sinh lí đầy đủ để có thể tham gia hoạt động học thông qua các môn học, trong đó có môn Tự nhiên và xã hội. Môn học này được xắp xếp ở các lớp 1, 2, 3, học sinh đã được làm quen và học các kiến thức về địa lí đơn giản như: cảnh vật tự nhiên, mây, gió, cầu vồng, một số hiện tượng tự nhiên như mưa, nắng... một số kiểu thời tiết, hình dạng, bề mặt của Mặt Trời, Mặt Trăng, Trái Đất, xác định phương hướng, các đới khí hậu, các mùa trong năm, các hành tinh trong hệ Mặt Trời… Lên lớp 4, các kiến thức địa lí được giới thiệu cụ thể, rõ ràng, có hệ thống lôgíc qua phân môn Địa lí của môn Lịch sử và Địa lí 4… Phân môn Địa lí ở lớp 4 cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự vật, hiện tượng, con người và các mối quan hệ địa lí đơn giản ở các vùng chính trên đất nước ta. Trong việc dạy và học địa lí trước đây vẫn còn quan niệm đây là môn học thuộc lòng, chỉ cần học thuộc bài là đạt điểm cao, không cần tư duy, suy nghĩ như các môn học khác. Thực tế địa lí không phải là môn học thuộc lòng mà là môn học đòi hỏi phải phân tích, so sánh, tổng hợp để rút ra nhận xét. Trong những năm qua đã có những bước cải tiến phương pháp dạy và học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập, tăng cường việc tư duy của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức. Đổi mới phương pháp dạy học Địa lí chỉ thành công khi phương pháp dạy học Địa lí tác động mạnh đến người học và phát huy tích cực tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên trở thành con người phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ… (Theo Luật Giáo dục 2005). Dạy học Địa lí chiếm vai trò quan trọng nhằm góp phần hình thành và phát triển ở học sinh thói quen ham hiểu biết, yêu thiên nhiên đất nước con người, có ý thức và hành động bảo vệ thiên nhiên. Vì vậy, việc dạy học Địa lí không những cung cấp cho học sinh những kiến thức địa lí thuần túy mà còn phải hình thành, phát triển cho các em các kĩ năng và năng lực tự học. Đó là những nhiệm vụ song song và có tầm quan trọng như nhau. Để đạt được mục tiêu nói trên, người giáo viên cần có những phương pháp dạy học thích hợp để giúp cho học sinh không những nắm vững kiến thức địa lí, rèn luyện kĩ năng, mà còn giáo dục thái độ, phát triển nhân cách, khơi gợi tính tự giác tích cực học tập của học sinh. Đó là phương pháp dạy - học tích cực. Hay nói cách khác đó là quá trình làm việc tích cực của thầy và trò để đem lại hiệu quả cao nhất. 3 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Bước lên lớp 4 là học sinh đã bước sang giai đoạn hai của quá trình giáo dục ở Tiểu học, học sinh được làm quen với các môn học mới như Khoa học, Lịch sử và Địa lí nên các em gặp nhiều bỡ ngỡ và khó khăn, đặc biệt với phân môn Địa lí. Bên cạnh đó, đa số học sinh lớp 4 của trường Tiểu học Nga Thiện đều thuộc con em gia đình làm nghề nông, điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ văn hoá thấp, đầu tư cho việc học rất hạn chế… Hậu quả là sách vở, đồ dùng học tập của các em chuẩn bị chưa kịp thời, một số em không có đủ sách giáo khoa thì giáo viên đã phải mượn sách cũ ở thư viện trường cho các em học. Trong học tập một số em khá nhút nhát, rụt rè, tiếp thu chậm và thụ động, thời gian tự học ở nhà quá ít vì các em còn phải tham gia lao động cùng với gia đình. Bên cạnh đó, thời lượng dành cho phân môn Địa lí theo quy định là còn ít (1 tiết/ tuần) nên học sinh được học phân môn rất ít thời gian. * Về phía giáo viên: Mặc dù 100% giáo viên trường Tiểu học Nga Thiện đều tâm huyết và có trách nhiệm cao đối với nghề dạy học nhưng khả năng của mỗi người là có hạn và không giống nhau. Một số giáo viên chưa có điều kiện để nắm vững đặc điểm các vùng địa lí ngay trên đất nước mình, nhiều giáo viên chưa dành thời gian tìm hiểu, cập nhật thông tin kịp thời về các yếu tố tự nhiên, về con người, về cuộc sống xung quanh để hỗ trợ cho môn học. Do yếu tố khách quan nên nhiều giáo viên chưa có điều kiện tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa cho học sinh để kết hợp với học tập, chưa đầu tư nhiều cho việc dạy nên chưa khơi dậy được hứng thú và nhu cầu cần học cho học sinh… * Về phía học sinh: Sau hơn một tháng học và làm quen với phân môn, được sự nhất trí của chuyên môn nhà trường, tôi tiến hành khảo sát chất lượng Địa lí cả khối 4 trường Tiểu học Nga Thiện, Nga Sơn, Thanh Hoá (lớp 4A là lớp tôi chủ nhiệm) và thu được kết quả như sau: Lớp Sĩ số Điểm 9, 10 Điểm 7, 8 Điểm 5, 6 Điểm dưới 5 SL TL (%) SL TL (%) SL TL (%) SL TL (%) 4A 20 2 10 3 15 9 45 6 30 4B 19 1 5,3 3 15,8 9 47,3 6 31,6 Bảng kết quả trên cho thấy chất lượng học Địa lí khối 4 còn quá thấp. Nhìn vào đó mỗi giáo viên chúng ta không khỏi không đau lòng, trăn trở. Qua tìm hiểu nguyên nhân từ nhiều phía và từ kinh nghiệm bản thân dạy học nhiều năm, tôi thấy nguyên nhân chủ yếu là: Hầu hết học sinh còn khá lạ lẫm với môn 4 học mà thời lượng có 1 tiết / tuần nên các em chưa kịp nhớ đã quên; Nhiều em chưa có cách học sao cho khoa học, cho chủ động, nhiều em lại chưa chăm học, còn xem nhẹ Địa lí; Học sinh chưa biết cách khai thác nội dung bài qua các thiết bị học tập như bản đồ, lược đồ, quả địa cầu, tranh vẽ, ảnh chụp,…; Học sinh chưa có kĩ năng phân tích bảng số liệu, biểu đồ; Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị bài ở nhà (tìm hiểu bài, chuẩn bị đồ dùng học tập, tranh ảnh ...). Hơn nữa phụ huynh lại chưa quan tâm mà phó mặc việc học của con em mình cho giáo viên và nhà trường, chưa hỗ trợ con em tự học ở nhà…Bởi vậy, học sinh học còn chưa hoàn thành bài, thường xuyên có tình trạng nhầm lẫn kiểu “Râu ông nọ cắm cằm bà kia”… Trước thực trạng trên, tôi tiến hành đi sâu nghiên cứu, tìm kiếm và áp dụng các giải pháp để giúp đỡ học sinh học tập sao cho hiệu quả nhất để góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục hiện nay. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 3.1. Giải pháp 1: Giáo viên cần tích cực nghiên cứu để nắm vững kiến thức địa lí Việt Nam và thế giới, đặc biệt là nội dung chương trình Địa lí lớp 4. Muốn dạy đúng, đủ kiến thức Địa lí 4, trước hết người giáo viên cần nắm vững mục tiêu của chương trình, nội dung chương trình sách giáo khoa và cao hơn nữa là nắm được các kiến thức cơ bản của địa lí Việt Nam và thế giới. Trước hết, người giáo viên cần phải không ngừng nghiên cứu các tài liệu để nắm vững mục tiêu chương trình Địa lí 4, cụ thể là: - Cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về: Các sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ địa lí đơn giản ở các vùng chính trên đất nước ta. - Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng: Quan sát sự vật, hiện tượng; Thu thập, tìm kiếm tư liệu địa lí từ các nguồn khác nhau; Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp; Nhận biết đúng các sự vật, hiện tượng địa lí; Trình bày lại kết quả học tập bằng hình vẽ, lời nói, sơ đồ…; Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. - Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen: Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về môi trường xung quanh; Yêu thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam; Tự hào, tôn trọng, giữ gìn và phát huy một số truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ các di sản văn hoá, danh lam thắng cảnh gần gũi với các em… Ngoài nắm vững mục tiêu chương trình, nội dung chương trình Địa lí 4, người giáo viên muốn dạy hay, dạy giỏi thì còn cần nắm vững các kiến thức cơ bản của địa lí Việt Nam và thế giới. Có nắm vững các kiến thức đó thì người giáo viên mới có cái nhìn tổng thể, toàn diện về địa lí và có thể lí giải chính xác nhất những băn khoăn, thắc mắc của học sinh. Để nắm được các nội dung cơ bản trên, không phải người giáo viên muốn là nắm được ngay mà phải là quá trình tích luỹ lâu dài qua các cấp học, ngành 5 học đã được tham gia, qua các buổi học chuyên đề, qua tự học tự nghiên cứu, ôn tập bằng nhiều hình thức (tự học, ôn qua sách vở, đài, báo, ti vi, phim ảnh, qua mạng Internet…), qua học hỏi cấp trên, bạn bè, đồng nghiệp. Nói chung, người giáo viên phải luôn luôn nêu cao tinh thần học tập không ngừng, luôn hoàn thiện mình để không trở thành người lạc hậu trong xã hội. 3.2. Giải pháp 2: Tích cực giáo dục nhận thức cho học sinh Phân môn Địa lí luôn gắn liền với thiên nhiên, với đất nước và đời sống con người. Việc học tốt phân môn Địa lí sẽ giúp các em tìm hiểu tự nhiên, con người và tăng thêm tình yêu quê hương, yêu đất nước; giúp các em sau này khi ra đời hiểu được những thuận lợi cũng như khó khăn của đất nước ta trong công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa. Từ đó các em hiểu được một cách sâu sắc những đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước đề ra để xây dựng cho nhân dân ta một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Các em phải học tốt phân môn này thì các em mới nắm được những kiến thức về Địa lí, mới hiểu được sâu sắc hơn về mảnh đất các em đang sinh sống. Các em sẽ biết yêu quý tự nhiên, biết cách sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách thông minh và đúng đắn nhất để phục vụ cho lợi ích của con người. Qua học tập Địa lí, các em sẽ nhớ đến nhiệm vụ bảo vệ tự nhiên và có ý thức làm cho tự nhiên của đất nước chúng ta ngày thêm giàu và đẹp. 3.3. Giải pháp 3: Tích cực đổi mới phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học Như chúng ta đã biết mỗi phương pháp dạy học đều có những ưu điểm, nhược điểm riêng, không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Vấn đề đặt ra là ta phải biết phối kết hợp các phương pháp dạy học linh hoạt để phát huy những ưu điểm, hạn chế thấp nhất các nhược điểm của các phương pháp dạy học. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp dạy học cần phải theo hướng lấy học sinh làm trung tâm để phát huy tích tích cực của người học. Đổi mới phương pháp dạy học muốn đạt hiệu quả cao cần thực hiện song song với đổi mới hình thức dạy học, tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học được thể hiện ở chỗ: - Tập trung vào dạy cách học, đặc biệt giúp học sinh có nhu cầu học, biết cách tự học. - Coi trọng và khuyến khích dạy học trên cơ sở hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Sử dụng đúng mức, đúng chỗ, đúng lúc các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học truyền thống cũng như hiện đại để phát huy tối đa các mặt mạnh của từng phương pháp và của sự phối hợp giữa các phương pháp. Như vậy, quá trình dạy - học phải lấy hoạt động của người học làm trung tâm, mọi hoạt động của thầy đều hướng vào việc tổ chức, hướng dẫn học sinh 6 tìm tòi, phát hiện, khám phá và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng…cho học sinh. Qua đó ta có thể nói thầy và trò chính là hai nhân tố trung tâm của quá trình dạy - học. Để thực hiện các yêu cầu trên trong dạy học, tôi thường tổ chức tiết học theo quy trình sau: - GV hoặc HS đặt ra vấn đề cần giải quyết trong bài thông qua các tình huống có vấn đề hoặc tìm hiểu kinh nghiệm của học sinh có liên quan đến nội dung bài. - Tổ chức cho học sinh tìm tòi, khai thác các kiến thức trong SGK, tranh ảnh, bản đồ, lược đồ, vốn hiểu biết của bản thân… Qua đó các em sẽ nhanh chóng nắm được các sự vật, đối tượng, hiện tượng địa lí của bài học. - Trên cơ sở các hình ảnh về địa lí đã được hình thành, GV đặt ra các câu hỏi, đưa ra các bài tập,… và vận dụng các hình thức tổ chức dạy học (nhóm, cá nhân, cả lớp…) giúp học sinh bước đầu biết so sánh các điểm giống, khác nhau, phân tích các đặc điểm, tổng hợp các nét chung của sự vật, hiện tượng địa lí... - Từ những hiểu biết trên, giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày dưới các hình thức khác nhau (nói, kể, viết, vẽ…) về một sự vật, hiện tượng địa lí sinh động và chính xác; đồng thời các em cũng biết vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống trong việc bảo vệ thiên nhiên, môi trường, bảo vệ di sản văn hoá, danh lam, thắng cảnh. Song song với việc đổi mới phương pháp, phương tiện dạy học, giáo viên cần thường xuyên thay đổi hình thức dạy học, tránh nhàm chán cho học sinh. Giáo viên có thể sử dụng tối đa những điều kiện cụ thể ở địa phương để tổ chức dạy học một cách cụ thể nhất, sinh động nhất và chắc chắn sẽ gây hứng thú cho học sinh.. Ví dụ có thể tổ chức các giờ học ngoài lớp, cho học sinh đi tham quan các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh, cơ sở sản xuất hoặc tham gia lễ hội…để các em có hứng thú với môn học, các em có cái nhìn tổng thể hơn, bao quát hơn và thực tế hơn. Ví dụ sau khi dạy bài “Dải đồng bằng duyên hải miền Trung”, để giúp các em nắm vững hơn nội dung bài, đặc biệt là có cái nhìn cụ thể và thực tế hơn về địa phương mình, tôi đã tổ chức cho học sinh đi tham quan Nhà thờ nữ tướng Lê Thị Hoa và Di tích Lịch sử Quốc gia Đền thờ Nữ tướng Lê Thị Hoa và Đại tướng Trịnh Minh. Khi đi tham quan tôi kết hợp giới thiệu cho học sinh biết Bà Lê Thị Hoa là một nữ tướng có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 đồng thời bà còn có công lao rất lớn trong việc bảo vệ, xây dựng vùng đất Nga Thiện, Nga Sơn, còn Đại tướng Trịnh Minh là một danh tướng thời Trần có công chống giặc Nguyên - Mông thế kỉ XIII. Khu đền thờ hai vị tướng nằm cách trường chỉ hơn 100m nên rất thuận tiện cho cô trò tham quan, tìm hiểu về lịch sử và những giá trị văn hóa, truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của nhân dân, khơi dậy lòng tự hào dân tộc và có ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ, tôn tạo di tích,… 7 Di tích lịch sử Quốc gia: Đền thờ Nữ tướng Lê Thị Hoa và Đại tướng Trịnh Minh (Thôn2, Nga Thiện, Nga Sơn) Nhà thờ Nữ tướng Lê Thị Hoa của dòng họ Mai ( Thôn 2,Nga Thiện, Nga Sơn) Cũng tại quê hương Nga Thiện của các em còn có một khu du lịch nổi tiếng thu hút du khách trong và ngoài nước, đó là Động Từ Thức. Tôi đã phối 8 hợp với Hội phụ huynh lớp tổ chức cho các em tham quan Động để thưởng thức cảnh đẹp thiên tạo, thắp hương ở đền thờ Từ Thức và chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc và tác phẩm điêu khắc cổ, từ đó giúp học sinh hiểu các di tích, các thắng cảnh, các công trình kiến trúc cổ, các tác phẩm điêu khắc cổ là di sản văn hóa vô cùng quý báu của dân tộc ta nên mỗi chúng ta đều phải có ý thức giữ gìn và bảo vệ. Đền thờ Từ Thức (Nga Thiện - Nga Sơn) Động Từ Thức ở Nga Thiện ( Một thắng cảnh nổi tiếng gắn liền với huyền thoại “Từ Thức gặp tiên”) 9 Ngoài ra, khi học về Đồng bằng duyên hải miền Trung, tôi cho học sinh xác định rõ huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa quê hương của các em thuộc đồng bằng này, cho các em liên hệ thực tế: Nga Sơn là nơi có nhiều lễ hội truyền thống, tiêu biểu như: Lễ hội Mai An Tiêm (Nga Phú), Lễ hội chùa Tiên (Nga An), Lế hội cầu ngư (Nga Bạch)… và nhiều lễ hội khác gợi nhớ về nguồn, tri ân công đức các bậc tiền nhân. Các lễ hội đó diễn ra từ tháng giêng đến tháng 4 âm lịch. 3.4. Giải pháp 4: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Ứng dụng công nghệ thông tin góp phần đổi mới PPDH, hình thành phương pháp tư duy mới, đưa phương pháp dạy học vào quỹ đạo sử dụng sức mạnh của công cụ hiện đại để chuyển tải những khối lượng kiến thức lớn, mở rộng tầm nhận thức của học sinh, làm thay đổi căn bản cách dạy, cách học. Ứng dụng CNTT vào bài học không chỉ hiểu đơn giản là sự trình chiếu một tiết dạy trên màn hình. Tiết học đó phải đảm bảo nội dung bài học đầy đủ, chính xác theo chương trình quy định. Học sinh được học được hiểu và nắm được nội dung ngay trong tiết học và điều mà tôi quan tâm nhất đó là tiết học đó phải thực sự hấp dẫn, thu hút được các em học sinh, tạo được hứng thú cho các em đối với tiết học, môn học. Từ đó các em sẽ học bài tốt hơn. Tôi sử dụng phần mềm PowerPoint để trình chiếu hình ảnh liên quan đến bài học như một bảng phụ làm dẫn chứng minh họa chứ không phải là dạy hoàn toàn trên máy. Để những dẫn chứng minh họa ấy có tính thực tiễn, có hiệu quả nhất, tôi luôn chịu khó nghiên cứu cập nhật những số liệu mới nhất, những hình ảnh rõ nét nhất.. Qua các năm, trao đổi giáo án giữa giáo viên trong khối, tham khảo các tư liệu trên Internet nên các bài giảng soạn bằng phần mềm PowerPoint tăng cả về số lượng và chất lượng. Ví dụ khi dạy các bài về Đồng bằng Nam Bộ, thay vì học sinh chỉ được quan sát vài hình ảnh đơn điệu trong SGK, tôi cho các em quan sát thêm những hình ảnh trên màn hình chứng minh cho các đặc điểm về nhà ở của người dân ở Tây Nam Bộ thường đơn sơ, thường làm dọc theo các kênh rạch, hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, phương tiện đi lại chủ yếu là xuồng, ghe: 10 Một số hình ảnh về Đồng Bằng Nam Bộ Hoặc khi dạy bài “Dải đồng bằng duyên hải miền Trung”, sau khi học sinh tìm hiểu về vị trí, đặc điểm, khí hậu khác biệt giữa hai khu vực của đồng bằng, tôi cho các em chỉ vị trí của dãy núi Bạch Mã trên lược đồ ở màn hình, rồi cho các em quan sát hình ảnh thực tế của “Bức tường chắn gió” Bạch Mã lan sát ra tận biển để học sinh hiểu được lí do tại sao phía nam dãy núi này không có mùa đông lạnh. Để vượt qua dãy núi này, trước đây đường bộ phải qua đèo Hải 11 Vân hiểm trở, nay có thêm đường hầm Hải Vân giúp cho giao thông an toàn và thuận tiện. Đèo Hải Vân Đường hầm Hải Vân Như vậy, khi giảng dạy các tiết học có ứng dụng công nghệ thông tin, hiệu quả tiết dạy thấy rất rõ ràng. Học sinh hăng hái, sôi nổi, tích cực hoạt động, giáo viên tổ chức tiết học rất nhẹ nhàng mà lại gây được hứng thú cho học sinh. Được tiếp xúc với tranh ảnh địa lí sinh động, các em chủ động tiếp thu và từ đó nắm vững được kiến thức hơn. 3. Giải pháp 3: Sử dụng có hiệu quả các loại bản đồ, lược đồ, dữ liệu liên quan đến các kiến thức địa lí trong chương trình. Con đường của nhận thức theo quan điểm của triết học của Mác - Lênin là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng lại trở về thực tiễn. Bởi vậy cho nên trong dạy học Địa lí cũng như dạy các môn khác, người giáo viên phải luôn luôn nắm vững và tuân theo quy luật này thì mới có hiệu quả cao cho nhận thức của học sinh. Trước các sự vật, hiện tượng địa lí mới, giáo viên nên vào đề qua bản đồ, lược đồ, hay các tư liệu liên quan để gây hứng thú và khơi dậy nhu cầu tìm hiểu, khám phá ở trẻ. Khi trẻ đã nắm rõ vấn đề đặt ra, giáo viên cần cho các em kiểm chứng vấn đề đó bằng thực tiễn ( hoặc bằng các câu chuyện, tranh ảnh, mô hình, hiện vật…có liên quan ). Để có được những tài liệu phục vụ cho “ trực quan sinh động” ấy, giáo viên có thể sưu tầm từ nhiều nguồn như sách, báo, đài, vô tuyến đặc biệt là trên mạng Internet. Khi 12 sử dụng những tài liệu như tranh, ảnh, sơ đồ… làm trực quan tôi thấy trình bày dưới dạng trình chiếu trên màn hình mang lại hiệu quả nhất, gây hứng thú học tập cho các em nhất. Chẳng hạn, khi dạy bài “Dãy Hoàng Liên Sơn”, trước khi vào bài tôi cho các em quan sát bản đồ địa lí tự nhiên Việt Nam, tìm hiểu cách phân tầng địa hình ở bản đồ thể hiện qua màu sắc (địa hình càng cao, nhiều núi thì màu càng đỏ đậm, địa hình bằng phẳng ở đồng bằng thì màu xanh lá cây…). Khi học sinh đã hiểu và có thể đọc được bản đồ, các em sẽ tự nhận xét và rút ra kết luận: Hoàng Liên Sơn là dãy núi cao và đồ sộ nhất nước ta. Sau đó, tôi đã tổ chức cho các em tự tìm tòi, khám phá các dữ liệu trong bài để tìm minh chứng cho kết luận trên qua sách giáo khoa, các hình ảnh minh họa trên màn hình… để củng cố và kiểm chứng nội dung bài, khuyến khích phát triển tinh thần ham học hỏi, tìm tòi, khám phá và tự học, giúp học sinh quen dần với cách học mới. Qua đó tôi thấy các em rất hứng thú với cách học này và nắm nội dung bài học rất nhanh, chủ động, tích cực. Với những bản đồ, lược đồ đã cũ hoặc lỗi thời, khi cần khai thác kiến thức cho bài học, tôi thường xuyên khai thác các bản đồ mới nhất, chuẩn nhất từ Thư viện tư liệu giáo dục trên mạng Internet để học sinh quan sát, tìm hiểu trên màn hình. 13 3.6. Giải pháp 6: Thường xuyên thiết kế trò chơi học tập góp phần đổi mới phương pháp dạy học và gây hứng thú cho người học Vì học sinh Tiểu học có nhu cầu được vui chơi rất lớn nên nếu ta tổ chức hoạt động học gắn với hoạt động vui chơi sẽ tránh gây áp lực và sẽ tạo ra được không khí vui tươi, thoải mái và gây nhiều hứng thú cho các em. Bởi vậy giáo viên cần tích cực thiết kế các trò chơi lồng vào các hoạt động học. Khi thiết kế trò chơi học tập trong dạy học địa lí, giáo viên cần chú ý xác định rõ mục đích của trò chơi là nhằm giúp gì cho hoạt động học, cần chuẩn bị những gì, cách tiến hành ra sao và sau trò chơi rút ra được nội dung, kết luận gì? Khi dạy Địa lí 4, tôi thường xuyên thiết kế một số trò chơi như “Xem ai nhớ nhất” để dạy các tiết ôn tập, thực hành giúp củng cố kiến thức cho các em (như bài 10, 23, …); trò chơi “Mặt xanh, mặt đỏ” thường sử dụng dạy các bài mới hoặc bài ôn (như bài 10, 15, 23, 31, 32…); trò chơi “Ai chỉ đúng” thường dùng dạy các bài có hoạt động làm việc với bản đồ, lược đồ (bài 1, 4, 5, 11, 15…); trò chơi “Ô chữ kì diệu” dùng dạy các bài ôn tập tổng hợp hoặc dạy hoạt động củng cố cuối các bài (bài 10, 17, 23, 31, 32,…); trò chơi “Đố bạn” có thể áp dụng dạy tất cả các bài dưới hình thức học sinh đố nhau về nội dung bài. Dưới đây tôi xin trình bày cách đã tiến hành trò chơi “Ô chữ kì diệu” khi dạy Địa lí 4: * Mục đích: Giúp học sinh ôn tập, củng cố kiến thức đã học, phát huy sự nhanh nhẹn, rèn luyện trí thông minh, tạo không khí vui tươi thoải mái, kích thích khả năng tư duy, tổng hợp vấn đề; giúp giáo viên củng cố bài nhanh gọn, hiệu quả. * Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị ô chữ thiết kế trên máy vi tính và trình chiếu trên màn hình (hoặc kẻ ô chữ trên bảng phụ đề phòng trục trặc máy), hệ thống các câu hỏi gợi ý cho từng ô chữ ở các hàng để học sinh tìm ra các ô chữ của bài học (ô chữ hàng ngang, hàng dọc). Ví dụ: Khi dạy bài “Thành phố Hồ Chí Minh”, để củng cố nội dung bài, giáo viên chuẩn bị ô chữ và các câu hỏi như sau: 1. Ô chữ gồm 6 từ hàng ngang và 1 từ hàng dọc: (1) (2) (3) (4) (5) (6) 2. Hệ thống các câu hỏi gợi ý: 14 + Hàng ngang thứ nhất (gồm 10 chữ cái): Tên sân bay quốc tế tại TP Hồ Chí Minh? + Hàng ngang thứ hai (gồm 8 chữ cái): Tên một chợ nổi tiếng ở trung tâm thành phố và là trung tâm thương mại từ xưa đến nay? + Hàng ngang thứ ba (gồm 6 chữ cái): Tên một ngành công nghiệp của thành phố chuyên sản xuất tivi, máy lạnh…? + Hàng ngang thứ tư (gồm 7 chữ cái): Tên bến cảng là nới Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước? + Hàng ngang thứ năm (gồm 5 chữ cái): Một quận của thành phố nổi tiếng với nghề trồng hoa? + Hàng ngang thứ sáu (gồm 11 chữ cái): Tên một khu vui chơi ở thành phố Hồ Chí Minh, còn được gọi là “sở thú”? -> Từ hàng dọc: (Gồm 6 chữ cái): Một tên gọi trước đây của thành phố Hồ Chí Minh? * Cách thực hiện trò chơi: - Cuối tiết học, giáo viên chia lớp thành 3 đội chơi (mỗi dãy bàn là một đội), nêu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi. Các đội chơi sẽ được bốc thăm thứ tự chơi. Đến lượt đội nào thì đội đó được chọn một hàng ngang tùy ý, giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý, trong vòng 10 giây đội đó phải đưa ra câu trả lời phù hợp, nếu sai hoặc quá thời gian, đội khác sẽ được trả lời. Mỗi từ tìm đúng đáp án được 10 điểm, sau lượt trả lời đầu, nếu đội nào đã tìm ra từ hàng dọc thì xin trả lời (nếu đúng được 30 điểm, nếu sai thì mất 1 lượt chơi ). Trò chơi kết thúc khi có đội tìm ra từ hàng dọc (giáo viên hỏi học sinh về ý nghĩa từ hàng dọc), đội nào nhiều điểm hơn là đội thắng cuộc. Cuối cùng giáo viên tổng hợp kết quả của các đội, tuyên dương đội thắng cuộc, chốt kiến thức bài học. - Giáo viên tổng kết trò chơi, khen thưởng đội thắng cuộc, rút kinh nghiệm tổ chức trước lớp Dưới đây là đáp án của ô chữ đã nêu: (1) (2) T Â N S Ơ N N H Ấ T B Ế N T H À N H (3) Đ I (4) N H À R Ồ N G (5) (6) Ệ N T Ử G Ò V Ấ P T H Ả O C Ầ M V I Ê N 15 3.7. Giải pháp 7: Luôn cập nhật những thông tin mới nhất để điều chỉnh nội dung trong tài liệu phù hợp với thực tiễn. Như trên đã nói, kiến thức Địa lí có sự thay đổi nhất định do thay đổi về tự nhiên, con người,… Bởi vậy, dạy học mà không dựa vào thực tiễn, chỉ bám vào sách giáo khoa đôi khi có những lệch lạc nhất định, đặc biệt với Địa lí. Hằng năm, các số liệu về con người, tự nhiên, về kinh tế, xã hội hay danh giới có sự thay đổi. Người giáo viên cần phải là người hiểu biết về kinh tế, chính trị, xã hội, thường xuyên nắm bắt được những thông tin mới nhất và chuẩn nhất để kịp thời điều chỉnh tài liệu cho phù hợp với thực tiễn. Ví dụ khi dạy bài “Thành phố Hồ Chí Minh”, thay vì cho học sinh quan sát bảng số liệu từ năm 2003 về diện tích và số dân của 5 thành phố thuộc Trung ương của nước ta trong sách giáo khoa, tôi cho các quan sát trên màn hình bảng số liệu về diện tích và số dân của 5 thành phố đó năm 2010 để các em so sánh thành phố Hồ Chí Minh với 4 thành phố còn lại và rút ra kết luận: Thành phố Hồ Chí Minh có số dân đông nhất và có diện tích lớn thứ hai (sau Hà Nội) trong số các thành phố trong bảng (có sự thay đổi so với sách giáo khoa). Thành phố Hà Nội Hải Phòng Đà Nẵng T.P Hồ Chí Minh Cần Thơ Diện tích (km2) 3 013 1 526 1 255 2 095 1 390 Số dân năm 2010 (nghìn người) 5 670 1 792 777 5 891 1 135 Bên cạnh đó tôi còn giới thiệu thêm cho học sinh biết: TP Hồ Chí Minh cũng là thành phố đông dân nhất cả nước hiện nay (trên 8 triệu người), được chia thành 19 quận, 5 huyện. Từ những số liệu thực tế trên giúp học sinh có cơ sở để tìm hiểu những nội dung tiếp theo của bài học tốt hơn. Hoặc khi dạy bài “Người dân và hoạt động sản xuất ở đồng bằng duyên hải miền Trung”, khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu một thông tin trong SGK “Tại tỉnh Quảng Ngãi đang hình thành khu kinh tế Dung Quất. Ở đây sẽ có nhà máy lọc dầu lớn đầu tiên của Việt Nam”. Đây là thông tin đã lạc hậu so với thực tế nên tôi đã điều chỉnh giúp học sinh như sau: “Tại tỉnh Quảng Ngãi đã hình thành khu kinh tế Dung Quất. Ở đây đã có nhà máy lọc dầu lớn đầu tiên của Việt Nam”. Ngoài ra tôi sẽ giải thích cho học sinh biết sơ lược về nhà máy lọc dầu cũng như giới thiệu các sản phẩm của nhà máy (được chế biến từ dầu thô khai thác được dưới biển) sử dụng rộng rãi trong đời sống hằng ngày như một số loại xăng, một số loại dầu, ga, nến, nhựa để làm đường,… Để minh chứng cho điều đó, tôi cho các em quan sát trên màn hình và giới thiệu: Nhà máy lọc dầu Dung Quất, thuộc Khu kinh tế Dung Quất, là nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam xây dựng thuộc địa phận huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đã đi vào hoạt động từ năm 2009. 16 Khu kinh tế Dung Quất Nhà máy lọc dầu Dung Quất 3.8. Giải pháp 8: Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường Để các tổ chức đoàn thể và phụ huynh học sinh hiểu đựơc tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức, tri thức, nhân cách toàn diện cho trẻ, người giáo cần phải kết hợp môi trường giáo dục và tận dụng mọi đối tượng cùng giáo dục trẻ bằng cách tuyên truyền, động viên họ tham gia giúp đỡ tích cực cho các em. Khi sự phối hợp đã có hiệu quả, giáo viên cần tích cực truyên truyền về vị trí, tầm quan trọng của các môn học là như nhau, trong đó có phân môn Địa lí 4. Muốn làm được điều đó tôi đã phải lên kế hoạch rõ ràng và thực hiện như sau: * Đối với phụ huynh học sinh: - Tổ chức họp phụ huynh đầu năm tôi đã thông báo đặc điểm tình hình nội dung chương trình các môn học lớp 4, đặc biệt các môn học mới các em còn khá xa lạ, nhấn mạnh điểm khó khăn của lớp để kịp thời cùng phụ huynh giúp đỡ các em tiếp cận và có hứng thú với môn Địa lí. - Xây dựng tốt các góc học tập tại lớp, tại nhà, thường xuyên liên lạc với phụ huynh tìm giải pháp tốt nhất giúp đỡ các em có nhu cầu học; Khuyến khích mỗi gia đình nên mua và treo tại góc học tập của các em 2 bản đồ: Bản đồ tự nhiên Việt Nam và Bản đồ hành chính Việt Nam để cả nhà cùng học Địa lí thật hiệu quả. - Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về những biểu hiện tích cực, tiêu cực để phụ huynh có kế hoạch giáo dục trẻ thêm. 17 * Đối với các đoàn thể, nhất là tổ chức Đội TNTP Hồ Chí Minh: - Phối hợp chặt chẽ với các Chi đoàn, Hội phụ nữ, Hội cựu giáo chức ở địa phương, Ban chỉ huy Liên đội nâng cao phong trào học tập, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc học tập của các em ở trường và ở nhà. - Hàng tuần giáo viên ra các câu hỏi ôn tập các kiến thức đã học ở tất cả các môn phối hợp với Liên đội tổ chức ôn tập cho các em dưới cờ. - Phối hợp với chuyên môn nhà trường, Chi đoàn trường, Liên đội… tổ chức các hội thi theo chủ đề từng tháng như: “Trí tuệ Măng non”; “Rung chuông vàng”, “Học vui - Vui học”… để ôn tập kiến thức cho các em. - Kịp thời tuyên dương, khen thưởng hoặc khuyến khích những em tiến bộ, có ý thức, có thành tích trong học tập. - Động viên, nhắc nhở những em chưa chú ý, chưa tích cực học tập hoặc xem nhẹ môn học… Trên đây tôi vừa trình bày một số giải pháp và cách tổ chức thực hiện áp dụng những kinh nghiệm tôi đúc rút được vào dạy Địa lí lớp 4A. Bên cạnh đó, ta thấy phân môn Địa lí và phân môn Lịch sử 4 có mối quan hệ khá mật thiết với nhau. Mỗi sự kiện lịch sử thường gắn liền với một vị trí địa lí nhất định, còn mỗi một vị trí địa lí lại trải qua một quá trình lịch sử phát triển nhất định. Vì vậy, một kinh nghiệm nữa khi dạy địa lí theo tôi là ta cần lồng ghép các kiến thức lịch sử có liên quan còn khi dạy địa lí ta lại kết hợp củng cố kiến thức lịch sử. Ví dụ các bài Địa lí về thành phố Huế, Tây Nguyên, Đồng bằng Nam Bộ ta cần giới thiệu sơ lược về lịch sử các khu vực này qua các bài Lịch sử: “Kinh thành Huế”, “Cuộc khẩn hoang ở Đàng Trong” … 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Qua thực tế giảng dạy Địa lí 4 trong năm học vừa qua tôi đã áp dụng các kinh nghiệm vào giảng dạy ở lớp chủ nhiệm trên cơ sở các giải pháp đưa ra, tôi thấy học sinh đã dần dần yêu thích môn học, say mê và tự giác học tập hơn, không còn tình trạng học đối phó hoặc xem nhẹ môn học nữa. Cuối học kì I, chất lượng Địa lí của lớp tôi (Lớp 4A) rất khả quan thể hiện ở bảng sau: Lớp 4A 4B Sĩ số 20 19 Điểm 9, 10 SL TL (%) 6 30 3 15,8 Điểm 7, 8 SL TL (%) 7 35 6 31,6 Điểm 5, 6 SL TL (%) 7 35 10 52,6 Điểm dưới 5 SL TL (%) Còn dưới đây là kết quả khảo sát chất lượng ngày 15/3/2016: Lớp 4A 4B Sĩ số 20 19 Điểm 9, 10 SL TL (%) 8 40 3 15,8 Điểm 7, 8 SL TL (%) 7 35 10 52,6 Điểm 5, 6 SL TL (%) 5 25 6 31,6 Điểm dưới 5 SL TL (%) 18 Từ bảng kết quả trên ta có thể so sánh chất lượng Địa lí của lớp 4A cuối học kì 1 cao hơn khảo sát tháng 9 rất nhiều, chất lượng khảo sát lại cao hơn giữa tháng 3 và cao hơn lớp 4B khá nhiều. Điều đó chứng tỏ những giải pháp mà tôi áp dụng là đúng đắn, thiết thực, có tính khả thi. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu các biện pháp thích hợp, lớp tôi đã thu được kết quả rất tốt. Có được kết quả như vậy đó là nhờ sự nỗ lực phấn đấu của bản luôn tìm tòi, áp dụng những kinh nghiệm, giải pháp để giúp học sinh học tập tích cực, chủ động hơn. Qua đây, tôi cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau: + Để việc dạy, học Địa lí được tiến hành thuận lợi và mang lại hiệu quả cao, người giáo viên phải luôn cố gắng học hỏi, tìm tòi và thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ bạn bè, đồng nghiệp, cần cố gắng làm thế nào để học sinh cảm thấy yêu thích môn học, khơi dậy nhu cầu cần học ở các em. + Dạy học không chỉ là cung cấp tri thức mà phải hướng tới hành động. Người thầy phải làm thế nào để trong mỗi giờ học học sinh hoạt động nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, thực hành nhiều hơn. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh đồng nghĩa với việc tối đa hóa sự tham gia của người học, tối thiểu hóa sự can thiệp của người dạy. Tất cả đều nhằm đạt mục đích học tập : “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình, học để cùng chung sống”. + Không có phương pháp dạy học nào là “vạn năng” mà cần có sự phối hợp một cách tinh tế sao cho “Nhẹ nhàng, thoải mái, chất lượng, hiệu quả”. + Để tổ chức thành công một tiết dạy của phân môn Địa lý lớp 4 là rất công phu, đòi hỏi sự nhiệt tình của giáo viên, lòng yêu nghề mến trẻ, sự học hỏi không ngừng. Đặc biệt là sự thể hiện đầy đủ đúng mức lương tâm trách nhiệm của người thầy. Biểu hiện đó không chỉ là sự tìm tòi học hỏi và vận dụng một cách hữu hiệu nhất sự phối hợp giữa các phương pháp dạy học mà còn phải đầu tư cụ thể vào soạn giảng. Không nên bằng lòng, mãn nguyện hoặc dừng lại ở một kết quả nào đó mà luôn tìm tòi cải tiến, đổi mới phương pháp, không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. + Ngoài ra theo tôi nhận thấy, tiết dạy muốn thành công thì mỗi khâu của quá trình dạy học đều như là một mắt xích quan trọng, không thể thiếu và tách rời nhau, trong đó khâu đầu tiên là khâu chuẩn bị. Không có sự chuẩn bị tốt thì chắc chắn không thể thành công. Bởi vậy, ta phải chuẩn bị thật chu đáo, vững vàng về kiến thức, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức tiết học, dự kiến các tình huống có thể xảy ra và cách giải quyết… Nhất là khi dạy học bằng các phương tiện hiện đại như trình chiếu trên màn hình thì cần sự chuẩn bị rất chu đáo, công phu…Một kinh nghiệm nữa khi dạy Địa lí là ta cần chú ý cho học sinh nắm vững mình đang học về vùng địa lí nào, phải chỉ được vị trí đó trên bản đồ, lược đồ, vùng địa lí đó có đặc điểm gì nổi bật… 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan