Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản việt nam giai đoạn 2003 –2010...

Tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản việt nam giai đoạn 2003 –2010

.DOC
112
33
66

Mô tả:

A. MỞ ĐẦU Bước vào những năm đầu của thế kỷ 21, đất nước ta đang thay đổi từng ngày, từng giờ trên tất cả các lĩnh vực từ đời sống đến văn hoá, kinh tế, chính trị ...đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Đó là sự gia nhập các tổ chức ASEAN, APEC, ... và chuẩn bị cho việc gia nhập chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ AFTA vào năm 2006 và gia nhập tổ chức thương mại Thế giới WTO trong một tương lai gần. Việt Nam là một nước có chiều dài bờ biển là 3260 km, có 112 cửa sông với 2 vùng châu thổ sông Hồng và sông Mê Kông rất phong phú và đa dạng về các loại Thuỷ sản có giá trị cao, ...đó là ưu thế để phát triển việc sản xuất và khai thác Thuỷ sản nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nhu cầu về thực phẩm Thuỷ sản đang trở thành xu hướng phổ biến trên Thế giới. Việc tìm hiểu và đưa ngành Thuỷ sản hoà nhập vào thị trường Thuỷ sản Thế giới càng trở lên cấp thiết, hơn nữa muốn thực hiện được chiến lược kinh tế vạch ra đến năm 2010 là chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, chúng ta phải bắt đầu từ những thế mạnh căn bản của mình mà Thuỷ sản lại được coi là mặt hàng chủ lực có tiềm năng nằm trong 3 chương trình kinh tế lớn của Việt Nam là lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Thuỷ sản là một loại thực phẩm thiết yếu trong đời sống kinh tế của con người. Việc phân tích, đánh giá tổng quan tình hình Thuỷ sản có vai trò quan trọng không chỉ đối với một mà của tất cả các quốc gia, có như vậy từng quốc gia mới có thể đảm bảo kết hợp 1 hài hoà giữa việc sử dụng một cách có hiệu quả và bảo vệ nguồn lợi cho tương lai, đồng thời nắm rõ xu hướng phát triển, để có định hướng phù hợp với điều kiện của nước mình . Sau một thời gian thực tập tại Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Thuỷ sản được sự gợi ý của cơ quan cũng như nhận thức thực tiễn được tầm quan trọng của xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam trong thời gian tới trong sự phát triển chung của ngành Thuỷ sản và nền kinh tế đất nước, em đã quyết định chọn đề tài: “ Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2003 –2010” Mục đích nghiên cứu của đề tài này sẽ giúp em củng cố, bổ sung mở rộng kiến thức thực tế, vận dụng những lý thuyết đã học vào việc giải quyết một vấn đề thực tiễn trong đời sống kinh tế – xã hội. Khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này em đã phân tích, đánh giá tiềm năng phát triển của ngành Thuỷ sản, hoạt động xuất khẩu Thuỷ sản trong thời gian qua, qua đó chỉ ra được những thành tựu đạt được và những tồn tại cần khắc phục. Từ đó tìm ra những phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam trong thời gian tới Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương I: Vai trò của xuất khẩu Thuỷ sản đối với sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam. 2 Chương II: Phân tích thực trạng về xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 1990 –2002. Chương III: Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2003 – 2010. Vì đây là một đề tài khó do tính biến động của mặt hàng Thuỷ sản, sản xuất phụ thuộc vào sự thay đổi của điều kiện tự nhiên, môi trường. Vì vậy bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em xin chân thành cảm ơn tới các cán bộ, chuyên viên công tác tại Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Thuỷ sản đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập và thầy giáo:PGS. TS Phạm Văn Vận đã tạo điều kiện và hướng dẫn tận tình để em hoàn thành luận văn của mình. Em xin chân thành cảm ơn! B. NỘI DUNG CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU THUỶ SẢN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM I. VỊ TRÍ NGÀNH THUỶ SẢN TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN 1. Khái niệm về ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân Ngành thuỷ sản là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù gồm nhiều hoạt 3 động: khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ trong thương mại,… được phát triển dựa trên lợi thế về nguồn lợi thuỷ sản đa dạng, phong phú, điều kiện khí hậu nhiệt đới thuận lợi Để hiểu hơn về khái niệm ngành thuỷ sản ta có thể phân tích hai khía cạnh sau: 1.1. Ngành thuỷ sản là một ngành sản xuất vật chất độc lập Ngành Thuỷ sản là một ngành sản xuất độc lập do ngành có đối tượng lao động, phương pháp lao động và lực lượng lao động riêng mang tính chuyên ngành. Sản xuất thuỷ sản còn là một nghề nghiệp truyền thống lâu đời ở các quốc gia có nhiều ao hồ và biển. Quá trình phát triển của loài người gắn liền với hoạt động sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, và khai thác nguồn lợi thuỷ sản. Lợi dụng khả năng tiềm tàng về sinh vật sống trong môi trường nước con người tiến hành khai thác, nuôi trồng và chế biến chúng phục vụ cho nhu cầu đời sống. Do đối tượng lao động là những sinh vật thuỷ sinh như vậy nên các hoạt động sản xuất của ngành thuỷ sản gắn liền với đất và nước, với sự phát triển nông thôn và mang nhiều nét giống với sản xuất nông nghiệp Dưới tác động của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, các công cụ lao động của ngành thuỷ sản cũng được cải tiến và hoàn thiện, công nghệ mới được áp dụng trong công nghiệp khai thác, chế biến thuỷ sản, đồng thời công nghệ sinh học hiện đại cũng đã thúc đẩy phát triển nhanh chóng nghề nuôi trồng thuỷ sản với các giống loài mới có giá trị kinh tế cao. Tất cả những điều đó 4 cùng với kỹ năng quản lý ngành ngày càng cao đã đưa ngành thuỷ sản trở thành ngành sản xuất vật chất độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Ở nước ta ngành thuỷ sản đã được khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những hướng ưu tiên của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế (NQTW5 tháng 6 năm 1993 về đổi mới và phát triển kinh tế nông thôn) bởi tiềm năng to lớn và những đóng góp thực tế của nó vào nền kinh tế quốc dân nước ta hơn 10 năm qua. 1.2. Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất hỗn hợp gồm nhiều ngành sản xuất chuyên môn hẹp. Do phần lớn sản phẩm cuối cùng được sản xuất từ nguồn nguyên liệu động thuỷ vật thuỷ sinh và được đưa vào tiêu dùng sinh hoạt nên người ta coi thuỷ sản thuộc nhóm ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng (nhóm B). Trong thực tế, khi trình độ khoa học kỹ thuật phát triển đại bộ phận sản phẩm thuỷ sản không được đưa vào tiêu dùng trực tiếp mà trở thành sản phẩm trung gian, nguyên liệu cho quá trình sản xuất và chế biến - Sản xuất thuỷ sản từ việc nuôi trồng, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi cho đến khai thác bị phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên vùng địa lý khí hậu, thuỷ văn, giống, loại thuỷ sản,…nên sản xuất mang nhiều tính nông nghiệp. Mặt khác các ngành chuyên môn hẹp lại có tính công nghệ rõ rệt: công nghiệp khai thác cá biển, cơ khí tàu thuyền, công nghiệp sản xuất thức ăn cho tôm, cá, công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản. 5 Cơ chế thị trường đòi hỏi ngành thuỷ sản phải có một hệ thống dịch vụ chuyên ngành thích hợp như: sửa chữa tàu thuyền, ngư cụ, vận chuyển con giống, mạng luới thương mại thuỷ sản đến tận gốc các cơ sở sản xuất… sản xuất chuyên môn hẹp ngày càng cao và phức tạp. Mặt khác kinh doanh thương mại tổng hợp cũng tạo ra những hướng phát triển mới như kết hợp với dịch vụ du lịch 2. Đặc điểm của sản xuất - kinh doanh thuỷ sản 2.1. Đối tượng của sản xuất – kinh doanh thuỷ sản là những cơ thể sống trong môi trường nước. Như tên gọi của nó “ Thuỷ sản” là những cơ thể sống trong môi trường nước, có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng. Chúng là các loài động vật thuỷ sinh có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao: cá, nhuyễn thể, giáp xác và rong tảo trong các loại hình nước ngọt, lợ, mặn. Hoạt động sống của chúng dựa vào các chất dinh dưỡng lấy từ thuỷ vực, các khí oxy và cacbonic hoà tan trong nước. Đây là điểm hết sức khác biệt với sản xuất công nghiệp. Trong công nghiệp đối tượng sản xuất là những vật vô chi, vô giác, nếu hỏng cái này có thể thay bằng cái khác mà không phải phụ thuộc vào chu kỳ sống và sinh trưởng của chúng. Nó cũng khác với đối tượng sản xuất nông nghiệp là các cây và con giống sinh trưởng trên cạn, lấy nguồn lực thức ăn từ đất và sử dụng O 2 và CO2 trực tiếp từ không khí. Khác biệt này đòi hỏi trong sản xuất thuỷ sản phải hết sức chú ý đến các vấn đề như: 6 - Nắm vững quy luật sinh trưởng và phát triển từng loài thuỷ sản để có biện pháp khai thác, nuôi trồng phù hợp. - Tiến hành quản lý và chăm sóc môi trường nước sản xuất, kinh doanh thuỷ sản. - Hoàn thiện, bổ sung chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường nước. - Trong sản xuất kinh doanh thuỷ sản, thuỷ vực là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Thuỷ vực bao gồm các loại hình mặt nước sông, hồ, ao, biển… là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt của ngành thuỷ sản. Đối với mặt nước tự nhiên, có hạn về diện tích, khối lượng nước,cố định về vị trí và gần như không hao mòn trong quá trình sử dụng xét theo thời gian dài với các mặt nước lớn dễ bị ô nhiễm bởi các hoạt động của con người. Theo tập quán của con người thường coi thuỷ vực là nơi thải rác sinh hoạt và các chất phế thải công nghiệp bởi thuỷ vực có khả năng tự phân giải song nếu quá mức nó không còn khả năng làm sạch nước và bị ô nhiễm. Đối với các ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác nước chỉ trong thuỷ vực chỉ là một yếu tố sản xuất, thậm chí còn ít có ý nghĩa kinh tế, song đối với sự phát triển của thế giới tự nhiên, đặc biệt là thuỷ sản thì nước là vấn đề sống còn cho sự tồn tại và phát triển. 2.2. Sản xuất thuỷ sản được tiến hành phân tán rộng khắp các vùng địa lý và mang tính khu vực rõ rệt: 7 Chúng ta đều biết ở đâu có ao, hồ, sông, ngòi, biển là ở đó có nghề Thuỷ sản khai thác và nuôi trồng.Thuỷ vực được phân bố khắp các vùng địa lý, ở mỗi quốc gia, phụ thuộc vào lịch sử hình thành các loại đất, quá trình sử dụng và khai thác vào các mục đích khác nhau. Vì vậy, mỗi thuỷ vực có chế độ thuỷ lý hoá, thuỷ văn khác nhau do đó các giống loài Thuỷ sản cũng khác nhau về nhiều mặt. 2.3. Sản xuất Thuỷ sản mang tính thời vụ cao Dựa vào quy luật sinh trưởng và phát triển của động thực vật thuỷ sinh, con người tác động trực tiếp nhằm tạo ra sản phẩm cuối cùng có chất lượng và năng suất cao, song các động thực vật nuôi trồng và khai thác còn phải chụi tác động của tự nhiên. Vì vậy, mà thời gian lao động và thời gian của sản xuất không trùng nhau đã tạo ra tính thời vụ của sản xuất Thuỷ sản 2.4. Đặc điểm riêng của sản xuất kinh doanh Thuỷ sản Việt Nam - Thuỷ sản nước ta thuộc vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, ở các tỉnh phía Bắc pha trộn ôn đới. - Ngành Thuỷ sản Việt Nam đã đi lên từ một nền sản xuất manh mún, phân tán và rất lạc hậu tại các vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ và vùng ven biển. Qúa trình phát triển thăng trầm từ những năm sáu mươi tới nay, ngành Thuỷ sản đã trở thành một ngành sản xuất chính trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù vậy, hiện nay cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành còn nghèo nàn, lạc hậu khá 8 xa so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là công nghiệp chế biến và khai thác xa bờ. 3. Vị trí của ngành Thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân 3.1. Vị trí quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm. - Ngành Thuỷ sản giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân ở hầu hết các quốc gia đặc biệt ở những quốc gia có hải phận lớn và vùng nước nội địa phong phú. - Dân số thế giới tăng lên, xã hội phát triển đặt ra vấn đề bảo đảm an ninh lương thực và thực phẩm. Ngành Thuỷ sản góp phần hết sức quan trọng vào vấn đề thực phẩm của con người. Về thiêu thụ sản phẩm Thuỷ sản, theo thống kê của FAO cho biết, mức tiêu thụ trung bình trên đầu người ở các nước phát triển là 25,9kg/năm, các nước đang phát triển là 9,3 kg/năm, ở Việt Nam là 13,5kg/năm (số liệu 1993) xu hướng sử dụng thực phẩm Thuỷ sản trên thế giới tăng lên vì vậy chỉ có thể phát triển ngành Thuỷ sản ở trình độ cao mới hy vọng giải quyết được nhu cầu thực phẩm thuỷ hải sản ngày càng cao của con người trong tương lai. 3.2. Tạo tiền đề quan trọng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Sản xuất Thuỷ sản là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho một số ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến thuỷ hải sản giá trị của ngành thuỷ hải sản chế biến gia tăng làm tăng kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản và đồng thời tăng thu nhập cho 9 các doanh nghiệp và tăng tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế. Đối với những nước có lợi thế về mặt nước, thời tiết khí hậu như Việt Nam ngành Thuỷ sản càng giữ vị trí quan trọng,thu nhập từ ngành Thuỷ sản tạo tiền đề quan trọng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. 3.3. Tạo công ăn việc làm: Ngành Thuỷ sản phát triển đặc biệt ở những nước đang phát triển (như các nước khu vực Đông Nam á, Châu Phi, Mỹ La Tinh) còn tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, phần lớn ở các vùng nông thôn và ven biến. Nó còn thu hút nhập đảm bảo đời sống góp phần làm giảm đi làm giảm đi làm sóng di dân vào thành thị. 3.4.Phát triển sản xuất Thuỷ sản sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ rộng lớn. Phát triển sản xuất Thuỷ sản sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp bao gồm cả thị trường tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Việc tăng cầu trong khu vực Thuỷ sản và nông thôn sẽ tác động trực tiếp đến khu vực phi nông nghiệp và Thuỷ sản, tạo điều kiện thuận lợi cho công nghiệp phát triển. 3.5.Có vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ môi trường Ngành Thuỷ sản có vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững của các quốc gia trên thế giới. Bảo vệ môi trường nước, sự đa dạng sinh học của biển đồng nghĩa với việc bảo vệ sự sống trên hành tinh chúng ta. 10 Trên thế giới, ngành Thuỷ sản được coi là người đi tiên phong trong việc tìm kiếm các giải pháp duy trì sự phát triển bền vững của môi trường nước, đặc biệt là các sinh vật biển. 3.6.Phát triển Thuỷ sản gắn liền với việc xoá đói giảm nghèo, tăng cường an ninh quốc phòng trên đất liền và trên biển. Phát triển Thuỷ sản gắn liền với việc xoá đói giảm nghèo, đặc biệt vùng cao, vùng sâu. Thực phẩm tại chỗ còn trực tiếp làm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, còi xương ở trẻ em vùng cao. Việc phát triển tập trung ở ven sông suối ao hồ còn giúp xoá bỏ tập quán du canh du cư, tăng cường an ninh biên giới trên đất liền. Ngoài ra, phát triển các hạm tàu khai thác biển cũng là góp phần tăng cường an ninh quốc phòng bảo vệ lãnh hải chủ quyền, biên giới, hải đảo. II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU THUỶ SẢN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM. Ngày nay, Việt Nam đang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về xuất khẩu nhằm khai thác những lợi thế so sánh về tài nguyên, sức lao động, vị trí địa lý thuận lợi phục vụ cho công cuộc đổi mới bộ mặt đất nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu do xuất phát điểm về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý còn thấp nên chủ yếu Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu. Xuất khẩu Thuỷ sản cũng không nằm ngoài xu hướng ấy. Hiện nay, hàng xuất khẩu từ nông lâm hải sản chiếm hơn 50% kim ngạch xuất khẩu, riêng Thuỷ sản chiếm 17% (1998). Mặc dù xuất khẩu nguyên liệu 11 thô chủ là biện pháp tình thế nhằm tạo vốn góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu Thuỷ sản có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta như sau: 1. Vai trò của xuất khẩu Thuỷ sản đối với phát triển kinh tế ngành 1.1. Tạo tích luỹ ban đầu quan trọng cho hiện đại hoá ngành Thuỷ sản Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia hợp tác, đầu tư phát triển nuôi trồng Thuỷ sản, hiện đại hoá công nghiệp chế biến xuất khẩu tăng phần chế biến trong sản phẩm. Tăng kim ngạch xuất khẩu làm tăng ngoại tệ tạo điều kiện tích luỹ ban đầu quan trọng cho hiện đại hoá ngành Thuỷ sản. 1.2. Xuất khẩu có vai trò tích cực trong đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất của ngành. Hoạt động xuất khẩu Thuỷ sản là hoạt động kinh doanh trên phạm vi thị trường thế giới, một thị trường mà sự cạnh tranh ngày càng diễn ra quyết liệt. Sự tồn tại và phát triển hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả, do đó phụ thuộc rất lớn vào công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất trong nước phải luôn đổi mới, luôn cải tiến thiết bị, máy móc nhằm nâng cao chất lượng sản xuất. Mặt khác, xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao tay nghề, trình độ của người 12 lao động. Xuất khẩu Thuỷ sản tạo điều kiện tiếp nhận thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng. 1.3. Xuất khẩu Thuỷ sản có vai trò quan trọng trong việc phát triển toàn diện ngành Thuỷ sản. Xuất khẩu Thuỷ sản góp phần mở rộng thị trường, khai thác có hiệu quả các nguồn lợi về biển gần bờ và xa bờ và phát triển nuôi trồng Thuỷ sản. Đồng thời nâng cao trình độ đào tạo cán bộ quản lý trong kinh doanh. Xuất khẩu cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người lao động trong ngành Thuỷ sản và các ngành có liên quan, góp phần ổn định chính trị, xã hội. 2.Đối với phát triển nền kinh tế quốc dân. Xuất khẩu hàng hoá Thuỷ sản có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào kết quả hoạt động xuất khẩu. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu nhập cho ngân sách. Kích thích đổi mới công nghệ cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân. Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những yếu tố thiếu hụt như vốn, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu thực chất giải pháp 13 mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra `sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách với nước giàu. Như vậy, đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, xuất khẩu nói chung và xuất khẩu Thuỷ sản nói riêng thực sự có vai trò quan trọng, thể hiện: 2.1.Xuất khẩu tạo nguồn ngoài tệ (vốn) cho nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất, phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc thiết bị hiện đại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: đi vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, nguồn vốn quan trọng để nhập khẩu chính là xuất khẩu. Thực tế là nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó cũng tăng theo. Ngược lại nếu nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu làm cho thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế quốc dân. 14 2.2. Xất khẩu Thuỷ sản đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nói riêng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung. Để chứng minh cho góp của xuất khẩu Thuỷ sản làm chuyển dịch cơ cấu mặt hàng ta có thể thấy qua số liệu của các năm 1991 – 2002. Nếu như năm 1991 Việt Nam chỉ có 4 mặt hàng xuất khẩu giá trị trên 100 triệu USD (dầu thô, dệt may, Thuỷ sản và gạo) thì đến nay đã có thêm 11 mặt hàng nữa là: cà phê, cao su, lạc nhân, chè, hạt điều, hạt tiêu, Giầy Dép, than đá, hàng linh kiện điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và hàng rau quả. Trong đó 4 mặt hàng có giá trị trên 1 tỷ USD là Thuỷ sản, dầu thô, hàng dệt may, và Giầy Dép. Năm 2000, ngành Thuỷ sản đã đạt thành tựu đáng kể kim ngạch xuất khẩu là 1,4786 tỷ USD (chỉ sau dầu thô 3,501 tỷ USD và dệt may là 1,892 tỷ USD). Mặt hàng Thuỷ sản chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Năm 1999 là 10,5%, đến năm 2000 tăng lên 12,9 % và năm 2002 đã tăng lên là 14%. Mặt hàng xuất khẩu Thuỷ sản đã trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Từ vị trí xếp thứ 5 vào năm 1999 (sau: dầu thô, dệt may, Giầy Dép và gạo) thì đến năm 2001 nó đã vươn lên vị trí thứ 3 (chỉ sau: dầu thô và dệt may). Kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản tăng liên tục với tốc độ hàng năm đã thực sự đóng góp tăng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng và kim ngạch xuất khẩu của cả nước nói chung. Và chính sự tăng trưởng của xuất khẩu Thuỷ sản 15 cũng dẫn đến thay đổi (chuyển dịch) cơ cấu kinh tế. Xuất khẩu Thuỷ sản nói riêng và xuất khẩu nói chung tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác phát triển thuận lợi. Sự phát triển ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu trong đó có Thuỷ sản, có thể nó kéo theo ngành công nghiệp chế tạo các thiết bị phục vụ nó. Xuất khẩu Thuỷ sản sẽ làm cho ngành Thuỷ sản tăng trưởng ngày càng cao và các ngành công nghệp liên quan cũng phát triển dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 2.3. Xuất khẩu Thuỷ sản tác động tích cực đến giải quyết công ăn, việc làm và cải thiện đời sống nhân dân: Tác động của xuất khẩu Thuỷ sản đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết thông qua hoạt động xuất khẩu hàng Thuỷ sản xuất khẩu với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp tăng giá trị ngày công lao động, tăng thu nhập quốc dân. Xuất khẩu Thuỷ sản còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất cho người lao động trong ngành Thuỷ sản và các ngành có liên quan. 2.4 Xuất khẩu Thuỷ sản là một trong những cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác với các nước nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường 16 quốc tế,... xuất khẩu Thuỷ sản và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói chung thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư , mở rộng vận tải quốc tế ... Mặt khác chính quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta kể trên lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu. Có thể nói xuất khẩu Thuỷ sản không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế ngành Thuỷ sản, phát triển nền kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như: K, L, R, nguồn tiêu thụ thị trường ... Đối với nước ta hướng mạnh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu Thuỷ sản nói riêng là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế đối ngoại, được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, qua đó tranh thủ đón bắt kịp thơi cơ ứng dụng khoa học công nghệ, hiện đại. Rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy bắt cứ một nước nào và trong một thời kỳ nào đẩy mạnh xuất khẩu thì nền kinh tế nước đó trong thời gian đó có tốc độ phát triển cao. Tóm lại: Xuất khẩu Thuỷ sản có một vai trò rất quan trọng không chỉ riêng đối với sự phát triển của ngành Thuỷ sản mà nó còn có một vai trò to lớn đối với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Vì vậy chúng ta cần nghiên cứu và tìm ra giải pháp để phát triển hơn nữa ngành Thuỷ sản. III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM 17 Xuất khẩu Thuỷ sản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam nói riêng và của các nước xuất khẩu Thuỷ sản nói chung, chính vì vậy mà chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu Thuỷ sản để có thể phát huy điểm mạnh, khắc phục các yếu điểm của các nhân tố đó để thúc đẩy xuất khẩu Thuỷ sản phát triển. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến xuất khẩu Thuỷ sản ta có thể nghiên cứu từ hai góc độ: 1.Các nhân tố ảnh hưởng đến cung Thuỷ sản xuất khẩu. Muốn xuất khẩu Thuỷ sản phát triển trước tiên chúng ta phải đảm bảo có sản phẩm để xuất khẩu nghĩa là chúng ta phải đảm bảo cung Thuỷ sản cho xuất khẩu, muốn vậy chúng ta cần quan tâm đến các yếu tố đầu vào của sản phẩm như: 1.1.Khả năng cung cấp nguyên liệu Thuỷ sản 1.1.1. Năng lực khai thác hải sản. Nằm ở khu vực biển Đông, biển Việt Nam có tính chất như là một vùng biển kín. Vịnh Bắc Bộ tương đối nông, mức sâu nhất không quá 90 m. Nhờ đặc điểm địa hình, biển nước ta thuộc loại giàu hải sản, với 2038 loài cá đã biết, trong đó có hơn 100 loài có giá trị kinh tế cao. Trữ lượng cá khoảng 3 triệu tấn/năm, sản lượng cho phép khai thác từ 1,2 – 1,3 triệu tấn/năm. Giáp xác có 1647 loài, trong đó tôm hơn 70 loài. Nhiều loài tôm hùm có giá trị kinh tế cao. Nhuyễn thể thân mền, khoảng 2500 loài khác nhau với những loài có giá trị kinh tế cao như mực, sò huyết hải sâm, bào 18 ngư ... Ngoài ra có trên 600 loài rong biển, trong đó nhiều loài có thể làm thực phẩm hoặc nguyên liệu, chất phụ gia cho công nghiệp, bánh kẹo, dệt vải, ... Với hơn 3200 km bờ biển, hơn 1 triệu km 2 vùng biển đặc quyền của ta là một nơi cho phép khai thác với số lượng lớn các sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng nội địa và chế biến xuất khẩu ra thị trường Thế giới 19 Bảng 1: Trữ lượng và khả năng khai thác hải sản của Việt Nam (đơn vị tính: tấn) Loại hải sản Trữ lượng (tấn) Khả năng khai thác (tấn) Tổng số Gần bờ Xa bờ Tổng số Gần bờ Xa bờ Tổng số 3.940.078 1.081.625 2.588.464 1.879.219 495.341 1.383.878 Cá biển 3.764.370 999.095 2.765.275 1.809.248 461.738 1.347.510 Mực ống 59.113 30.882 28.231 23.644 12.235 11.292 Mực nang 64.140 33.809 25.655 12.132 13.523 30.331 Tôm he 10.884 9.884 1.000 5.492 4.942 550 Tôm vỗ 41.582 11.433 30.149 15.180 4.177 11.003 Cơ cấu % 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 Cá biển 95.54 92.37 96.74 96.28 93.22 97.37 Mực ống 1.50 2.86 0.99 1.26 2.49 0.82 Mực nang 1.63 2.80 1.18 1.37 2.45 0.98 Tôm he 0.28 0.91 0.03 0.29 1.00 0.04 Tôm vỗ 1.06 1.06 1.05 0.81 0.84 0.80 Nguồn: Bộ Thuỷ sản
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan